Water, water, every where — Nor any drop to drink.
Samuel Taylor Coleridge [1772-1834]
Thế kỷ 21 của tỵ nạn môi sinh, đã có 2 triệu người phải rời bỏ quê hương ĐBSCL ra đi tìm kế sinh nhai
Ngô Thế Vinh
Gửi Nhóm Bạn Cửu Long
12-2-2018
XỨ SỞ CÂY THỐT NỐT VÀ NGƯỜI KHMER HIỀN HOÀ
Tới An Giang, tới hai quận Tịnh Biên và Tri Tôn không thể không thấy hàng cây thốt nốt nổi bật trên những cánh đồng lúa xanh. Cây thốt nốt thuộc họ cau, tên khoa học Borassus flabellifer, có nhiều ở các nước Đông Nam Á. Cây thốt nốt sống cả trăm năm dài hơn tuổi thọ một đời người. Thân cây thẳng và cao tới 30 mét. Cây đực không trái, cây cái cho tới 60 trái mỗi cây. Trái thốt nốt có vỏ xanh đen, nhỏ hơn trái dừa bên trong có những múi trắng mềm, ngọt và mát. Hoa cây thốt nốt cho nước ngọt có vị thơm, có thể nấu thành đường, ngon hơn đường mía. Nếu Quảng Ngãi, quê Hương Nghiêu Đề bạn tôi, từng nổi tiếng về đường phổi, đường phèn thì An Giang, vùng Tịnh Biên Tri Tôn nổi tiếng với đường thốt nốt. Chè đậu xanh nấu với đường thốt nốt ngọt dịu và rất thơm ngon. Hình như tất cả mọi thành phần cây thốt nốt đều có công dụng: thân làm cột nhà, lá dùng lợp mái. Trong nền văn hóa cổ Khmer, các Chùa chiền còn lưu giữ được những văn bản viết trên lá cây thốt nốt. Cây thốt nốt cũng được xem như biểu tượng của xứ Chùa Tháp. [Hình 2]
Khắp xứ Chùa Tháp xuống tới Đồng Bằng Sông Cửu Long, đi đâu cũng chỉ gặp những người dân Khmer hiền hòa, và rồi không thể nào hiểu được những gì đã xảy ra giữa họ và những người Việt trong quá khứ. Chỉ có thể giải thích họ là một đám đông nạn nhân của những khích động thù hận mà động cơ là những mưu đồ chánh trị đen tối.
Trong y khoa, khi khảo sát não trạng vô thức của đám đông, qua nghiên cứu hành vi/ behavior của loài cá, khoa học gia Đức đã làm một thử nghiệm: thả một con cá bị huỷ não bộ vào một hồ cá, không có gì ngạc nhiên là con cá ấy mất định hướng bơi tán loạn, nhưng điều kỳ lạ là đàn cá lành mạnh thì lại ngoan ngoãn bơi theo con cá mất não ấy. Phải chăng “thử nghiệm hành vi” của nhà khoa học Đức, đã phần nào giải thích hiện tượng cả một dân tộc Đức văn minh đã có một thời kỳ nhất loạt tuân theo một lãnh tụ như Hitler xô đẩy cả thế giới vào lò lửa của cuộc Thế chiến thứ Hai.
CÓ MỘT NỀN VĂN HOÁ NƯỚC LỢ
Trên đường dọc theo Sông Hậu, xe dừng lại Hộ Phòng là một phường của thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Xuống xe đi bộ lên chiếc cầu xi măng có tên Hộ Phòng 2, bắc qua con kênh lớn Gành Hào [được xây từ năm 2011 do quỹ ODA/ Official Development Assistance của Nhật].
Bấy lâu, các chuyên gia Bộ Nông nghiệp từ ngoài Bắc vào vẫn có cái nhìn rất giản đơn về hệ sinh thái sông nước Cửu Long: họ chỉ thấy có triều cường và triều kiệt. Rồi đề xuất kế hoạch làm những cống đập chặn triều cường để ngăn mặn giữ ngọt. Từ suy nghĩ giản đơn ấy, họ đã và đang gây ra bao nhiêu hệ luỵ cho hệ sinh thái ĐBSCL như hiện nay.
Đoàn đứng trên cầu phía hướng ra Biển Đông, nơi có cống đập ngăn mặn. Ngoài mặn trong ngọt. Anh Dương Văn Ni sinh ra và lớn lên từ vùng sông nước Miền Tây, khi nói về nhịp đập của hệ sinh thái ĐBSCL, anh Ni thông thuộc như với đường chỉ tay của chính mình; với một giọng thuần Nam Bộ trầm tĩnh bắt đầu một bài giảng:
“ĐBSCL chỉ nói riêng phía Biển Đông, không đơn giản chỉ có triều cường và triều kiệt. Hỏi người nông dân thì họ biết rất rõ. Thuỷ triều từ Biển Đông là bán nhật triều, sáng và chiều hai lần trong ngày; hai lần nước lớn tiếp theo hai lần nước ròng, mực nước lên xuống bốn lần trong một ngày. Trong tháng, người nông dân biết chừng nào thì “nước rong” vào ngày rằm, khi nào “nước kém” vào cuối tháng âm lịch. Trong năm, thì họ có mùa “nước nổi” và mùa “nước hạn”.
Từ mấy trăm năm, trải qua bao thế hệ, người nông dân Miền Tây đã quen chung sống với nhịp đập thiên nhiên ấy của những dòng sông: trong ngày, trong tháng, trong năm và đã hình thành một nền “văn minh sông nước.” Họ đã quen chung sống với cả ba tình huống: nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Lãnh đạo bộ Nông nghiệp đa số mang theo họ một nền văn hoá từ châu thổ sông Hồng, biết rất ít về hệ sinh thái ĐBSL vốn rất đặc thù. Với đầu óc duy lý giản đơn, với những con số thống kê, nhưng họ có biết đâu rằng chuỗi những con số đó chính là những tín hiệu đã nằm ngay trong nền “văn hoá sông nước” mà người nông dân từ đời này sang đời nọ vẫn đọc được. Người nông dân bấy lâu đã biết nương theo sức mạnh của thiên nhiên để chung sống. Văn hoá sông nước thực ra gồm bốn phần tương tác Sông-Biển-Châu thổ-Con người cùng hoà nhập nhau theo từng nhịp đập.
Một ví dụ, chỉ riêng chuyện di chuyển ghe thuyền trên sông, người nông dân biết tính trước khi nào thì cho ghe xuôi theo con “nước ròng”, khi nào thì ghe ngược theo con “nước lớn”, và cũng để thấy cấu trúc của lòng ghe bấy lâu là làm sao dùng sức đẩy tối ưu của dòng chảy.
Và rồi trong tháng họ biết lúc nào thì cho nước vào ruộng, khi nào thì xả, khi nào thì thả con giống cá tôm… mà không cần tốn nhiều công sức, để phải dùng gầu tát nước hay phải dùng tới máy bơm.
Chính nhịp đập của “mẹ thiên nhiên / natural pulse” là bạn đồng hành thân thiết bấy lâu của họ. Và nay thì bị phá vỡ và cắt đứt một cách thô bạo.
Cũng từ bao trăm năm, nông dân ĐBSCL biết rất rõ là sông rạch nối liền với biển, có thuỷ triều lên nên mới có được con nước lớn, và thuỷ triều xuống mới có con nước ròng, và cũng nhờ đó mà sông rạch được làm sạch, có cá tôm và đã hình thành cả một nền văn hóa sông nước.
Chúng tôi cùng hiểu rằng: với cống đập kia, con sông bị cắt làm hai: chỉ còn một bên ngọt, một bên mặn, mất hẳn một vùng nước lợ / blackish. Bên trong không còn nước lớn, nước ròng mà sông biến thành hồ tù đọng, tích luỹ đủ mọi loại ô nhiễm, và không còn cá tôm. Bên ngoài, hệ sinh thái ven biển cũng bị nghèo đi và nông ngư dân cho biết, từ ngày có cống đập không còn đâu nguồn tôm cá phong phú của cả một vùng nước lợ. Đó là chưa nói tới tình trạng gián đoạn giao thông trên sông.
Rồi anh Ni đưa ra một ví dụ rất tượng hình: “Cũng giống như khai quật được một kho tàng cổ sử, người không chuyên môn thì chỉ thấy được đó là những mảnh đá mảnh sành, cùng lắm là thấy thêm được mấy nét vẽ ngoằn ngoèo vô nghĩa trên đó, nhưng với con mắt của nhà khảo cổ thì khác, đó là dấu vết và tín hiệu của cả một nền văn minh.”
Và tôi cũng hiểu rằng, bấy lâu với các chuyên gia nông nghiệp từ ngoài Bắc vào, chưa từng chung sống và chết với nền văn minh sông nước ấy, họ đã có những chánh sách can thiệp thô bạo chống lại mẹ thiên nhiên để phải trả giá rất đắt và nạn nhân không ai khác hơn là chính ngót 20 triệu cư dân phải ngày đêm sống với những bất cập ấy như hiện nay.
CÔNG TRÌNH CỐNG ĐẬP BA LAI: MỘT HỐI TIẾC
Hai Mươi Năm qua 1997-2017, lãnh đạo Bộ Nông Nghiệp, qua nhiệm kỳ của 3 bộ trưởng:
1/ Lê Huy Ngọ, nhiệm kỳ 7 năm, 1997-2004
2/ Cao Đức Phát, nhiệm kỳ 12 năm, 2004-2016
3/ Nguyễn Xuân Cường, nhiệm kỳ 2016 đương nhiệm
Họ đến từ miền Bắc đã và đang có những quyết định phải nói là sinh tử với hệ sinh thái ĐBSCL, một vùng thổ nhưỡng phải nói là rất xa lạ với họ.
Chỉ thấy đơn giản nơi ĐBSCL có triều cường triều kiệt, coi nước mặn là kẻ thù nên đã có một chiến lược ồ ạt xây những đại công trình mà người ta gọi là Cống Đập Ngăn Mặn, mà Cống đập Ba Lai là một điển hình.
Được khởi công ngày 27.02.2000, dự án công trình cống đập Ba Lai chắn ngang cửa sông Ba Lai từ xã Thạnh Trị kéo sang xã Tân Xuân (Ba Tri). Kinh phí ban đầu lên tới hơn 66 tỷ đồng VN. Con đập dài 544 m gồm 10 cửa với khẩu độ 84 m được vận hành bằng một hệ thống van tự động hai chiều. Quy hoạch trên lý thuyết, thì cống đập Ba Lai có chức năng: ngăn mặn, giữ ngọt phục vụ cho 115,000 hecta đất trong đó có 88,500 hecta là đất canh tác, cấp nước ngọt sinh hoạt cho hơn 600 ngàn dân cư Thành phố Bến Tre và các huyện Ba Tri, Giồng Trôm, Bình Đại, Châu Thành; cùng kết hợp với phát triển giao thông thuỷ bộ và cải tạo môi trường sinh thái vùng dự án. [sic]
Hai năm sau, từ ngày 30.04.2002 cống đập Ba Lai được đưa vào hoạt động, được vinh danh là một công trình thuỷ lợi lớn nhất của ĐBSCL. Và từ đây, cửa sông Ba Lai, một trong 9 cửa của Cửu Long chính thức bị ngăn lại.
Tính cho tới nay, cống đập Ba Lai đã vận hành được 16 năm [2002-2018], hiệu quả công trình Cống đập Ba Lai ấy ra sao? Chỉ có những lời ta thán.
Hàng trăm cống ngăn mặn không đạt mục đích vì còn chằng chịt những cửa sông kinh rạch không có cống ngăn mặn đã tập hậu nước mặn vào bên sau hệ thống cống đập đã xây.
Sông Ba Lai ngừng chảy. Thay vì biến sông Ba Lai thành một hồ nước ngọt thì cư dân Bến Tre phải sống với nước sông Ba Lai mặn hơn trước kia nhất là vào mùa khô. Hậu quả là tỉnh Bến Tre thiếu nước ngọt, đưa tới tình cảnh bệnh viện lớn nhất Bến Tre mỗi ngày được xe tải cung cấp 10 mét khối nước ngọt chỉ đủ cho các khoa phòng chia nhau từng lít nước, còn người dân thì sống trong tình trạng thiếu nước ngọt kinh niên, phải mua nước ngọt có khi phải trả tới 100,000 đồng VN/ mét khối. [Tuổi Trẻ online 22.02.2016]
Giải thích của nhà nước về “hiệu quả ngược” của công trình cống đập Ba Lai như hiện nay là: do thiếu vốn để làm tiếp nhiều công trình khác tiếp theo, trong đó có hai hạng mục quan trọng, đó là phải xây thêm cống đập và cả âu thuyền* trên hai con sông Giao Hoà và Chẹt Sậy vẫn tiếp tục đem nước mặn từ sông Cửa Đại đổ vào “hồ nước ngọt Ba Lai”.
*Âu thuyền / canal lock: là một từ tương đối mới, chỉ một công trình chắn ngang sông hoặc kênh, có cửa hai đầu để tăng hoặc giảm mực nước, giúp cho thuyền hay tàu đi qua nơi có mực nước chênh lệch nhiều.
Theo phóng viên TTXVN Phan Văn Trí, trích dẫn: “Ông Cao Văn Trọng, Chủ tịch UBND tỉnh cho biết để thi công hai hạng mục đập và âu thuyền và một số hạng mục khác cần nguồn vốn khoảng 200 triệu USD. Vì vậy, tỉnh đã kiến nghị Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tranh thủ nguồn vốn ODA của Chính phủ Nhật Bản. Ông Trọng cũng cho biết tổ chức JICA (Nhật Bản) đã đến Bến Tre khảo sát địa điểm xây dựng đập và âu thuyền. Tuy nhiên, việc khởi công có thể còn phải chờ đến… năm 2020. Dù gì thì hình ảnh những chiếc xe máy cày hay xe bò kéo chở nước đem đổi cho người dân, với giá từ 70,000 đồng đến 100.000 đồng/m3, chắc chắn vẫn còn diễn ra trong những mùa khô cho tới 2020. Điều đáng nói là nước đó được lấy từ những chiếc giếng đào trên giồng cát, chưa qua xử lý…” [2]
Cửu Long Chín Cửa Hai Dòng nay chỉ còn có 7 cửa. Nam Thất Nữ Cửu, như hình ảnh một ĐBSCL bị triệt sản. Bởi thế dân gian tỉnh Bến Tre mới có câu:
Ba Lai là cái cửa mình
Trung ương đem lấp dân tình ngẩn ngơ
Một câu hỏi được đặt ra: với những tác hại do cống đập Ba Lai gây ra, ai – Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, hay Bộ Tài Nguyên Môi trường hay chánh phủ trung ương sẽ nhận trách nhiệm với phong cách “đem con bỏ chợ” như hiện nay, phải chờ cho tới 2020 cho đến khi ODA của Nhật chịu rót vốn vào?
Từ bài học thất bại của đại công trình cống đập Ba Lai, nhiều nhà khoa học và giới hoạt động môi sinh như một “think tank” đã không ngừng lên tiếng cảnh giác rằng: nếu không có một đánh giá môi sinh chiến lược cho toàn ĐBSCL mà chỉ đơn giản nhắm giải quyết tình hình hạn mặn, rồi lập ngay quy hoạch xây dựng xây một loạt hệ thống cống đập chỉ để ngăn mặn nơi các cửa sông lớn là phá vỡ cả một hệ sinh thái và hậu quả sẽ khôn lường.
Khảo sát của nhóm IUCN / International Union for Conservation of Nature Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên tại VN đưa ra nhận định là do hệ thống cống đập khiến hai bên bờ sông Ba Lai đang khép lại dần.
TS Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hận, ĐH Cần Thơ đã dùng một cụm từ rất gợi hình để chỉ hệ thống cống đập Ba Lai khi ông gọi đó là “dòng sông bị cưỡng bức.” Sông nay biến thành hồ chứa, ô nhiễm thì tích luỹ nước đổi màu do rong tảo sinh sôi phía trong cống đập.
Th.S Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia về nước ngập/ Wetlands cho rằng hàng năm vào mùa mưa do lượng nước mùa lũ đổ về, toàn thể phù sa trong lượng nước đó sẽ lắng xuống đáy sông Ba Lai – nay trở thành hồ và với thời gian sông Ba Lai sẽ chết hẳn do bị bồi lấp. [1]
Khi đưa ra cái nhìn toàn cảnh hiện trạng và tương lai ĐBSCL, các anh trong đoàn đưa ra một cái nhìn tổng quan không mấy lạc quan:
Đất bị mất do sạt lở bờ sông bờ biển, trong những năm gần đây, đất bị lún với tốc độ 10 lần nhanh hơn so với nước biển dâng, và đất đai còn lại thì bị vắt kiệt. Sông ngòi ô nhiễm đủ thứ, từ nước thải sinh hoạt, công nghiệp, thủy sản đổ thẳng vào sông, cũng như lượng lớn phân bón, thuốc trừ sâu từ nông nghiệp do 3 vụ thâm canh.
Theo một nghiên cứu về lịch sử đất lún do nhà khoa học Minderhoud và một nhóm chuyên gia Hà Lan, Hoa Kỳ và Việt Nam thực hiện công bố năm 2017 trên Environmental Research Letters, độ lún và vận tốc lún tại châu thổ ĐBSCL đã xuống sâu 25 cm và thậm chí đến 50 cm theo biểu đồ KS Phạm Phan Long trích dẫn chú thích và cung cấp sau đây. [Hình 10]
Trong những thập niên tới, biển dâng được dự đoán với vận tốc 0.5 cm/năm, như vậy mặt đất thấp sẽ thấp dần dưới mặt biển có thể đến 1 m trong vòng 100 năm nữa. Trước tác động kép do sinh hoạt con người và do biến đổi khí hậu, ĐBSCL sẽ rơi vào tình huống xấu nhất toàn cầu. Một đối sách có tên “ASR, aquifer storage and reuse” đang được Viet Ecology Foundation đề bạt thảo luận là lọc và trữ nước ở những túi rỗng ngầm, vừa ngăn mặn tập kích vào thềm lục địa, vừa có nước ngọt sinh hoạt canh tác và tránh cho mặt đất tiếp tục lún xuống.
Đã thế nhiều sông ngòi, bị kế hoạch cống đập đã biến sông rạch thành hồ tù đọng, tích lũy ô nhiễm. Nước sông ngòi không còn dùng được phải chuyển sang xài toàn nước ngầm nên tầng nước ngầm cũng cạn kiệt nhanh và đất lún.
Còn có hiện tượng “tỵ nạn môi sinh/ ecological refugees” của người dân ĐBSCL rời bỏ quê hương đi tới vùng đất khác, tha phương cầu thực. Con số gần 2 triệu người đã đi khỏi vùng đất này trong hai thập niên qua thì phải có những lý do như môi trường sống bị suy thoái, nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt.
Thủy điện thượng nguồn từ Vân Nam Trung Quốc rồi Lào làm mất ngót 90% nguồn phù sa, không có gì thay thế; biến đổi khí hậu với nước biển dâng có thể phần nào thích ứng nhưng còn vấn đề phát triển tự huỷ / destructive development do tự mình gây ra đang là một nan đề lớn do chính sách “duy lý và thiếu tầm nhìn chiến lược” đến từ trung ương đã gây nhiều tổn thương cho ĐBSCL, gây trở ngại cho phát triển.
TỪ CỐNG ĐẬP BA LAI TỚI SÔNG CÁI LỚN – SÔNG CÁI BÉ
Bài học thất bại của công trình thuỷ lợi Ba Lai vẫn còn đó, vậy mà, nguyên bộ trưởng Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn Cao Đức Phát, một người sinh quán Nam Định từ châu thổ Sông Hồng, vẫn bất chấp mọi lời cảnh báo của giới chuyên gia, vẫn kiêu căng tuyên bố sẽ tập trung đầu tư xây dựng các công trình cống đập lớn đến năm 2020, từ hoàn thiện hệ thống cống đập Ba Lai, và xây dựng thêm các hệ thống cống đập Sông Cái Lớn, Sông Cái Bé [SCL-SCB] tỉnh Kiên Giang, được quảng bá như một công trình của Thế kỷ, với ngân khoản lên tới 3,300 tỷ đồng (150 triệu USD) với hậu quả hay thảm hoạ trên toàn hệ sinh thái ĐBSCL không biết sẽ trầm trọng tới đâu.
Rõ ràng có những khoảng chống của Dự án Cống đập SCL-SCB và các câu hỏỉ:
1/ Chỉ nghe nói, bản nghiên cứu đánh giá tác động môi trường [ĐTM/ EIA] về Dự án Cống đập SCL-SCB là do Viện Kỹ Thuật Biển thuộc Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam thực hiện, nhưng không thấy công bố ở đâu hết, với sự không minh bạch / transparency như vậy thì làm sao có được sự góp ý của giới chuyên gia.
2/ Dự án SCL-SCB bao giờ khởi công và tình hình tới đâu chỉ diễn ra sau những cánh cửa Bộ NN & CTNT ngoài ra không có ai được biết tới để có thể theo dõi.
3/ Và cũng là điều vô cùng ngạc nhiên là với gần 2 triệu người di cư ra khỏi ĐBSCL trong hai chục năm qua, nhưng vẫn chưa hề có cuộc điều tra cơ bản nghiên cứu về những nguyên nhân ra đi của họ.
Rõ ràng Dự án cống đập Sông SCL-SCB đã thiếu hẳn một đánh giá chiến lược tác động môi trường [ĐTM/ EIA/ Environmental Impact Assessment] toàn diện và khách quan, bị ảnh hưởng bởi quan điểm của chủ đầu tư/ nhóm lợi ích chỉ để nhằm biện minh cho sự cấp thiết của dự án, trong khi mà ai cũng biết là dự án sẽ tác động tới toàn hệ sinh thái của cả một vùng rộng lớn chiếm 1/4 tổng diện tích của ĐBSCL [hơn 1 triệu hecta], ảnh hưởng trực tiếp trên đời sống sản xuất sinh kế của hàng triệu cư dân trong vùng quy hoạch, trong khi còn bao nhiêu vấn đề kỹ thuật chưa có giải pháp rốt ráo. Và khi đã gây huỷ hoại trên hệ sinh thái thường rất khó đảo nghịch.
TS Lê Anh Tuấn, Phó Việt trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu ĐH Cần Thơ [Viện DRAGON] nhận định: cắt đứt trao đổi nước giữa sông và biển chắc chắn sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới canh tác sản xuất của nông dân quen sống theo nhịp thuỷ triều, giảm nguồn thuỷ sản bên trên và bên ngoài cống đập, và do nước tù đọng sẽ tích luỹ mọi ô nhiễm.
Một chuyên gia Khoa Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên ĐH Cần Thơ, nhận định về sự khác biệt của hai chế độ thuỷ triều phía Biển Đông và Biển Tây. Phía Biển Đông là bán nhật triều: nước lên xuống ngày 4 lần, trong khi Biển Tây là chế độ nhật triều, nước lên xuống ngày hai lần. Riêng vùng Tây Nam Sông Hậu chế độ thuỷ văn phúc tạp hơn nhiều, chịu ảnh hưởng của cả hai chế độ nhật triều và bán nhật triều khác nhau. Trong khi các cống đập hiện nay chỉ vận hành theo một mô hình thô thiển: đóng cổng đập khi triều cường, mở cổng đập khi triều kiệt. Hệ thống cống đập trên SCL-SCB sẽ gây rối loạn cho chế độ thuỷ văn vùng này, làm “mất lực hút-đẩy” của chế độ thuỷ văn thiên nhiên [sic] nước sẽ tù đọng tích luỹ ô nhiễm từ các chất thải nông ngư nghiệp, kỹ nghệ và cả nước thải không được xử lý đổ xuống từ các khu gia cư.
NHÂN DÂN TỈNH LONG AN ĐÃ MỘT LẦN NÓI KHÔNG
TS Lê Phát Quới, người Long An, giảng dạy tại Khoa Tài nguyên & Môi Trường ĐH Quốc gia TP HCM, anh có giọng nói lớn, có nét trực tính của người dân Nam Bộ, anh nói: “Sau công trình cống đập Ba Lai, trung ương có kế hoạch xây thêm hệ thống cống đập trên cửa con sông Vàm Cỏ là kết nối của hai con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây thuộc tỉnh Long An. Anh Lê Phát Quới thuật lại: “Trong một cuộc họp với trung ương và cấp lãnh đạo tỉnh cùng với các nhà khoa học – trong đó có thằng Quới, anh tự gọi mình là thằng, cuộc họp có cả ông Sáu Dân tức Thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc đó. Khi tỉnh Long An được hỏi ý kiến, thì lãnh đạo tỉnh đã có câu trả lời: sau khi phái đoàn tỉnh đi thăm cống đập Ba Lai trở về, sau khi tham khảo ý kiến nhân dân, thì toàn thể nhân dân Long An có câu trả lời là không. Lưu ý các anh, là câu trả lời không phải từ tỉnh uỷ hay uỷ ban nhân dân mà là toàn dân tỉnh Long An nói không. Nếu nói là tỉnh uỷ hay uỷ ban nhân dân, thì trung ương có thể dùng quyền lực đảng hay quyền lực trung ương để áp đặt, nhưng là tiếng nói của toàn thể nhân dân Long An thì khác. Và rồi sau đó, kế hoạch bị gác lại.”
Anh Lê Phát Quới đi tới kết luận: “nếu cứ để thực hiện hệ thống cống đập trên con Sông Vàm Cỏ thì không biết tai họa cho toàn hệ sinh thái tỉnh Long An sẽ khủng khiếp như thế nào.” Và anh Quới không dấu được nét hãnh diện về tiếng nói ngăn chặn kịp thời của nhân dân tỉnh hạt mình.
UỶ HỘI MEKONG VN, VẪN MÃI MỘT ĐỊA CHỈ NGHỊCH LÝ
Từ sau 1975, đất nước này nói chung trong đó có ĐBSCL đang được điều hành với những “đầu óc nghịch lý”.
Đứng từ trên một chiếc phà đi ngang nhánh sông Trần Đề để qua Cù lao Dung, trong ráng chiều chập choạng của hoàng hôn, tôi qua sang hỏi một anh trong đoàn: “Hỏi thật lòng anh, là hiện nay người dân ĐBSCL có cảm thấy hạnh phúc hơn không so với trước 1975.” Chỉ có một câu trả lời khẳng định, nếu có thì là các gia đình không còn bị ly tán và đất nước không còn chiến tranh.
Tôi đã không hỏi anh thêm nữa vì thực sự không có được câu trả lời đơn giản. Riêng tôi thì vẫn cứ bị ám ảnh với con số đã có 2 triệu người phải từ bỏ quê hương ĐBSCL đi tìm kế sinh nhai. Cách biện minh là với 2 triệu người bỏ đi nhưng cũng có 700 ngàn người mới tới, không phải là một câu trả lời rốt ráo.
Từ hơn hai thập niên, người viết đã không ngừng lên tiếng về mối nguy cơ của những con đập khổng lồ Vân Nam của Trung Quốc rồi tới chuỗi 9 đập thuỷ điện dòng chính của Lào, rồi tới 2 dự án đập của Cambodia: ngoài những hậu quả rối loạn về dòng chảy, mất nước nơi các hồ chứa và nhất là mất nguồn cát nguồn phù sa, dẫn tới nguy cơ của một tiến trình đảo ngược khiến một ĐBSCL đang dần dần tan rã.
Những mối nguy cơ từ thượng nguồn, gần như không làm gì được. Nhưng quá trình phát triển tự huỷ / destructive development ngay nơi ĐBSCL trong mấy thập niên qua cũng phải kể là những hệ luỵ tích luỹ tác hại nghiêm trọng trên sự sống còn của cả một vùng châu thổ. Có thể kể, từ sau 1975:
_ Xây đê đắp đập chắn lũ mở rộng khu gia cư để làm lúa ba vụ làm mất 2 túi nước thiên nhiên Tứ Giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười.
_ Xây hệ thống cống đập chắn mặn phá vỡ nhịp đập thiên nhiên của hệ sinh thái ĐBSCL biến sông rạch thành một hệ thống hồ ao tù đọng.
_ Xây dựng 14 nhà máy nhiệt điện than nơi ĐBSCL gây ô nhiễm đất, nước, không khí trên toàn vùng.
Phát triển với những bước không bền vững / unsustainable development như trên đã làm tổn thương trên toàn hệ sinh thái ĐBSCL và các nguồn tài nguyên thì cứ nghèo dần đi.
Để thay kết luận, người viết gửi tới ông Bộ trưởng NN & PTNT Nguyễn Xuân Cường, người thay thế Bộ trưởng Cao Đức Phát sau 12 năm tại nhiệm, câu trích dẫn và cũng là bài học đầu tiên của một sinh viên vào học Y khoa: Primum Non Nocere / First do no harm / trước hết là không gây hại. Mọi kế hoạch vội vã, thiếu thời gian cho một lượng giá chiến lược ảnh hưởng môi trường [ĐTM] khách quan, với tổn phí hàng ngàn tỉ đồng mà còn gây hại cho toàn hệ sinh thái vốn đã quá mong manh/ fragile của một vùng châu thổ mà trước đây đã từng được đánh giá là phong phú và giàu có nhất trên hành tinh này.
Qua kinh nghiệm 16 năm vận hành của hệ thống cống đập Ba Lai, để thấy rằng dù tốn hàng bao nhiêu tỷ đồng, cứ với quyết tâm làm đê ngăn mặn nhưng nước sông rạch bên trong vẫn không thể dùng được cho sinh hoạt, những công trình như thế còn khiến nước bên trong bị ô nhiễm nghiêm trọng vì dòng chảy không lưu thông, tù đọng. Xây dựng cống đập Ba Lai đã rất tốn kém, nhưng khi phát hiện sai lầm – nếu có thiện chí sửa sai, thì việc phá bỏ, làm sạch môi trường và chuyển đổi sinh hoạt của cư dân cũng sẽ rất tốn kém và không thể mau chóng và không phải là dễ dàng.
Tiếp tục biện pháp xây dựng công trình cống đập ngăn mặn rất tốn kém sẽ cắt đứt thô bạo mối liên hệ cân bằng hệ sinh thái sông – biển – đồng bằng, qua công trình cống đập Ba lai đã chứng minh là không tạo được lợi ích và giải quyết được chuyện gì cho cư dân ĐBSCL mà còn đảo lộn điều kiện thiên nhiên, phá vỡ hệ sinh thái của cả một vùng châu thổ.
Như một nhắc nhở và nhấn mạnh, người viết ghi nhận lại nơi đây một đề nghị cụ thể với Thủ Tướng chánh phủ kiến tạo Nguyễn Xuân Phúc: hãy cho hoãn ngay Dự án xây hệ thống cống đập Sông Cái Lớn – Sông Cái Bé một thời gian/ time frame ít nhất là 5 năm, trích 5% ngân sách 3,300 tỷ dự trù cho dự án để thành lập ngay một nhóm nghiên cứu ĐTM độc lập [có thể bao gồm cả các chuyên gia Hoà Lan, họ đã có kinh nghiệm và có công lớn thực hiện một số chương trình khảo sát cơ bản cho ĐBSCL], và bảo đảm rằng Đánh giá Tác động Môi trường được thực hiện một cách công tâm, thận trọng bởi những người không có liên hệ gì tới chủ đầu tư hay nhóm lợi ích, để sau thời gian 5 năm đó, nhà nước sẽ có được một bản tường trình lượng giá ảnh hưởng môi trường đầy đủ khách quan và minh bạch, với tất cả mọi tình huống pros & cons để từ đó mới có quyết định “nên hay không nên” triển khai dự án được mệnh danh là công trình của Thế Kỷ ấy. Cũng trong bản tường trình ấy, cũng không thể thiếu phần điều tra cơ bản về nguyên nhân nào đã khiến 2 triệu cư dân ĐBSCL phải rời bỏ quê hương ra đi tìm kế sinh nhai. Được như thế thì sẽ phù hợp với tinh thần Nghị quyết 120 về ĐBSCL [17/11/2017] trong đó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nhấn mạnh nguyên tắc: “thuận thiên, tôn trọng quy luật tự nhiên, tránh can thiệp thô bạo vào thiên nhiên.”
NGÔ THẾ VINH
ĐBSCL 12.2017 – 02.2018
______
Tham Khảo:
1/ Có còn con sông nước lớn, nước ròng? Lê Quỳnh. Báo Người Đô Thị online Thứ hai, 20/06/2016
2/ Thiếu vốn, dự án ngọt hóa sông Ba Lai trở thành … mặn quá. Phạm Văn Tri, TTXVN 06.08.2016
3/ Chuyên gia đề nghị tạm dừng dự án thuỷ lợi 3,300 tỷ đồng ở Miền Tây. Huỳnh Xây, Dân Việt, 03.06.2017
4/ Phát triển ĐBSCL: Tốn tiền tỷ mà trái quy luật thì trả giá đắt. Nguyễn Hữu Thiện; VietnamNet 27.11.2017
5/ Ngăn đập sông Cái Lớn – Cái Bé: ĐBSCL sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ. Phạm Anh; Tiền Phong 02.06.2017
6/ Băn khoăn xây cống Cái Lớn – Cái Bé, Sáu Nghệ. Ánh Sáng và Cuộc Sống; 26.06.2017
_____
Mời đọc lại: Những ngày châu thổ trở lại thăm Đồng Tháp — Từ điện gió Bạc Liêu, tới nhà máy điện than Sóc Trăng, Trà Vinh * — 300 năm ĐBSCL, đến với con kênh Vĩnh Tế — Cống đập chặn mặn gây rối loạn hệ sinh thái và những cái giá phải trả (TD).