Không hòa giải thì làm sao đoàn kết?

FB Trương Nhân Tuấn

21-1-2018

Người Việt tại Đức biểu tình ngày 18/1/2014 phản đối TQ cưỡng chiếm Hoàng Sa 19/1/1974. Ảnh: internet

Trước những nỗ lực không ngừng nghỉ của những người VN yêu quốc gia dân tộc, trong cũng như ngoài nước, vài năm trở lại đây việc “tưởng niệm” cuộc hải chiến Hoàng Sa đồng thời vinh danh 74 chiến sĩ VNCH anh hùng vị quốc vong thân, dường như đã trở thành một “thủ tục”. Mặc đầu chỉ mới là “thủ tục không chính thức”, nhưng phải nhìn nhận đó là một sự nhượng bộ rất lớn của lãnh đạo CSVN. Đông đảo tầng lớp trí thức, cán bộ, đảng viên, tướng lãnh… xuất thân từ “bên thắng cuộc” hưởng ứng buổi lễ tưởng niệm đã khiến cho nhà cầm quyền CSVN, dầu thân thiện (hay lệ thuộc) với TQ như thế nào, cũng không thể nghiêm cấm, bắt bớ, phá rối… không cho mọi người tụ tập như vài năm về trước.

Ý chí của số đông thể hiện sức mạnh. Nhất là “ý chí” này thể hiện lòng yêu nước nồng nàn, nêu cao truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc. Nhưng công việc này không thể ngừng ở đó. Không phải mỗi năm mọi người tham gia làm lễ tưởng niệm thì vấn đề Hoàng Sa xem như “hoàn tất”.

Các cuộc tưởng niệm, các bài báo viết ra… dầu đề cao tinh thần chiến đấu, anh dũng hy sinh của các chiến sĩ VNCH đến cách nào, cũng không thể xem đó như là việc “khẳng định chủ quyền HS” của quốc gia VN. Bởi vì những vấn đề liên quan đến “chủ quyền lãnh thổ” tuy thuộc về toàn dân. Nhưng việc tưởng niệm chỉ có giá trị pháp lý, nếu và chỉ nếu, các cuộc tổ chức này do các cơ quan có thẩm quyền quốc gia đứng ra tổ chức.

Vấn đề “chủ quyền” quần đảo Hoàng Sa cực kỳ quan trọng. Giá trị các hòn đảo, không phải là “đảo chim ỉa” như ông Hồ đã từng nói. Từ Thế chiến Thứ II, giá trị “chiến lược” các đảo (HS và TS) đã được chứng minh. Quan điểm này đến nay không thay đổi. Ai nắm được HS và TS kiểm soát cả biển Đông đồng thời chế ngự các nước chung quanh. Ngoài ra hai quần đảo HS và TS còn có tiềm năng về kinh tế cực kỳ lớn lao.

Quốc gia có chủ quyền các đảo Hoàng Sa (và TS) còn có “quyền độc quyền – droit exclusive” khai thác kinh tế trong “vùng biển” phụ thuộc các đảo Hoàng Sa (và TS). Thuật ngữ pháp lý gọi đó là vùng biển “kinh tế độc quyền” (Zone Economique Exclusive-ZEE), có thể mở rộng ra đến 200 hải lý, tính từ “bờ”, hay đường cơ bản của quần đảo.

Quốc gia có chủ quyền các đảo này vì vậy được hưởng quyền độc quyền khai thác tài nguyên thuộc về thềm lục địa, cũng như trong cột nước (tôm cá), xây dựng các kiến trúc nhân tạo… trên mặt nước… giới hạn trong vùng biển này.

Diện tích vùng biển ZEE các đảo Hoàng Sa có thể từ vài chục ngàn cây số vuông, lên đến vài trăm ngàn, thậm chí hàng triệu cây số vuông.

Điều này phụ thuộc, thứ nhứt, vào “tư cách pháp lý” của các thực thể địa lý cấu thành “quần đảo Hoàng Sa”. Nếu các thực thể địa lý này được nhìn nhận là “đảo”, vùng ZEE của mỗi đảo có thể mở rộng đến 200 hải lý, tính từ đường cơ bản của đảo (hay của quần đảo).

Thứ hai, phụ thuộc vào “tương quan sức mạnh” của các bên yêu sách.

Nếu các đảo HS vẫn còn thuộc chủ quyền của VN, vùng ZEE của quần đảo này sẽ tạo ra một vùng biển “chồng lấn” rất lớn với vùng ZEE sinh ra từ lục địa (hay đảo Hải Nam) của TQ. Dĩ nhiên, TQ sẽ không chấp nhận cho các “thực thể địa lý” Hoàng Sa có hiệu lực như là “đảo”. Bằng “áp lực” của họ, về kinh tế và quân sự, TQ sẽ buộc VN nhìn nhận các “thực thể địa lý” ở Hoàng Sa chỉ là “đá”. Vùng biển tương ứng chung quanh gọi, là “lãnh hải”, là 12 hải lý theo qui định theo quốc tế công pháp.

Nhưng nếu chủ quyền HS thuộc về TQ, như thực tế từ 43 năm nay, với “tương quan lực lượng” áp đảo, không tính quân sự, TQ chỉ cần gây áp lực trên những vấn đề kinh tế, văn hóa, chính trị… như hiện thời, VN sẽ phải chấp nhận các “thực thể địa lý HS” là các đảo, kể cả đảo Tri Tôn, có hiệu lực vùng ZEE 200 hải lý. Đường “chữ U chín đoạn” (còn gọi là đường lưỡi bò) của TQ mặc nhiên được VN nhìn nhận.

Điều này xảy ra VN có thể mất hàng trăm ngàn cây số vuông biển. Một mặt, vùng biển của các đảo HS, lý ra là của VN. Mặt khác, vùng chồng lấn ZEE giữa ZEE của HS với ZEE thềm lục địa của VN, tính từ bờ.

Nói ra những chi tiết “kỹ thuật” này để nhấn mạnh cho mọi người thấy là vấn đề Hoàng sa (và Trường sa) là hết sức quan trọng, vừa về kinh tế, vừa về an ninh chiến lược. Mà việc “tưởng niệm” hàng năm chỉ nghiêng về mặt “biểu tượng”, về “lịch sử”, không có giá trị pháp lý.

Việc này thể hiện tình ở bề ngoài tình “đoàn kết” của dân tộc, nhưng chỉ có hiệu lực “tâm lý”, tuyên truyền.

Thực chất là Hoàng Sa đang ở trong tay TQ. Trong khi TS, một số thực thể địa lý ở đây đã bị TQ chiếm (trên tay VN) từ năm 1988. Vụ TQ đe dọa khiến VN rút giàn khoan ở lô 136-03 ở phía tây-nam TS cho ta thấy đe dọa chiếm lĩnh TS cùng toàn thể Biển Đông của TQ rất là lớn.

Thể hiện tình “đoàn kết dân tộc”, như cái cách đã thấy, không hề có giá trị “kế thừa” di sản pháp lý của VNCH. Ở Hoàng Sa là “danh nghĩa chủ quyền”.

Biết bao lần tôi đặt câu hỏi: Làm thế nào nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa VN “kết thừa” Hoàng Sa từ Việt Nam Cộng Hòa?

VN hôm nay không thể “kế thừa” cái mà VNCH đã “mất”, không còn nữa. TQ đã chiếm HS trên tay VNCH trước khi miền Bắc “giải phóng” miền Nam.

Vả lại, trong thủ tục kế thừa, những câu hỏi nhức nhối từ phía các học giả, chuyên gia về quốc tế công pháp… đặt ra cho VN.

Trường hợp học giả Joële Nguyên Duy-Tân, người hết lòng với VN về vấn đề chủ quyền HS và TS. Bà đặt câu hỏi (nội dung đại khái): Làm thế nào mấy anh có thể kế thừa ở thực thể mà anh không nhìn nhận?

Tức là, ngay ở những học giả nước ngoài có lập trường thân với VN, họ cũng hoài nghi về việc “kế thừa di sản” VNCH. Huống chi các học giả TQ, họ nói, họ viết “trong ruột” nhà cầm quyền Hà nội.

Từ nhiều năm nay tôi hô hào việc “hòa giải dân tộc”, xem đó như là một “điều kiện” không thể thiếu để “kế thừa” danh nghĩa chủ quyền của VNCH tại HS. Sau này tôi đổi thành “hòa giải quốc gia”, vì việc “hòa giải dân tộc” để “kế thừa” dễ ngộ nhận với việc “hòa hợp hòa giải dân tộc”, một “vấn đề chính trị”.

Nhưng vấn đề khó khăn hiện nay của VN ở HS (và TS) không chỉ đơn thuần ở vấn đề “kế thừa” VNCH.

Quốc gia tên gọi Cộng hòa XHCN Việt Nam hôm nay là quốc gia “tiếp nối” của thực thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trên quan điểm pháp lý quốc tế, nước CHXHCNVN có nghĩa vụ phải tôn trọng và thực thi những kết ước mà VNDCCH đã ký kết với các quốc gia khác trong quá khứ.

Như vậy nước CHXHCNVN hôm nay phải có nghĩa vụ tôn trọng “công hàm 1958” của Phạm Văn Đồng, theo đó VNDCCH nhìn nhận yêu sách vùng lãnh hải 12 hải lý cũng như yêu sách chủ quyền của TQ ở HS và TS.

Để hóa giải các hứa hẹn này, khiến VN bị vướng “Estoppel” hay “Acquiescement” nếu vụ việc được đưa ra tòa quốc tế phân xử, tôi đã đề nghị lý thuyết “quốc gia chưa hoàn tất”. Theo đó VNDCCH và VNCH chỉ là “các bên” thuộc về một quốc gia “duy nhứt” là VN. Tương tự Nam Hàn, Bắc Hàn; Đông Đức, Tây Đức… Điều này tôi có đề cập trong lá thư gởi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nhân vụ giàn khoan HD 981 đặt trên thềm lục địa của VN, tháng Năm năm 2014.

Ý kiến của tôi được các “học giả” VN mượn lại. Tuy có “chế biến” để khác đi, dầu sao cũng là điều mừng, nếu mục đích nhằm phục vụ cho quyền lợi của đất nước và dân tộc VN.

Nhưng điều lo ngại, như “thông lệ”, những gì tuy có lợi cho đất nước, cho dân tộc, nhưng “có hại” cho quyền lợi của đảng, thì vấn đề sẽ khác đi.

Khi tôi làm nghiên cứu, viết về “biên giới, lãnh thổ” thì lập tức có những “học giả” VN cũng nghiên cứu chủ đề này. Nhưng mục đích của họ không phải để đi tìm “sự thật”, mà để lấp liếm, che đậy những hành vi nhượng đất của lãnh đạo CSVN. (Điều này có dịp thuận tiện sẽ quay trở lại).

Khi tôi viết về chủ quyền HS, TS, về hải phận… thì cũng có học giả VN viết về chủ đề này. Dĩ nhiên cũng để lái vấn đề qua chỗ khác, không để ai nhìn thấy những sai lầm, những việc nhượng bộ mờ ám của lãnh đạo CSVN ở Biển Đông.

Điều này thể hiện trên thực tế, thí dụ tôi đề nghị lý thuyết “quốc gia duy nhứt” thì họ cũng lặp lại y như vậy. Nhưng với quan điểm “giải phóng và thống nhứt dân tộc”.

Tôi đề cập nhiều lần, có người dân miền Nam nào muốn CSVN “giải phóng” mình hay không? Ngay cả quan chức CSVN, ông Đinh La Thăng cũng nhìn nhận Sài gòn đã từng là “Hòn ngọc Viễn Đông”. Đây là sự thật, và sự thật là dân miền Nam giàu có, văn minh hơn miền Bắc. Thì chính nghĩa của “giải phóng” ở đây là cái gì?

Khi tôi viết “hòa giải quốc gia” thì họ nhập nhằng “hòa hợp hòa giải dân tộc” hay “đoàn kết dân tộc”. Làm thế nào hai bên còn “hận thù”, còn đầy dẫy gút mắc, nếu chưa thông qua thủ tục “hòa giải” thì làm sao có thể “đoàn kết” hay “hòa hợp” được?

Kể ra thì rất dài, khi tôi viết luật pháp quốc gia, về “nhà nước pháp trị” thì các “học giả” cũng viết về luật, nhưng mục đích để bênh vực “nhà nước pháp quyền” của đảng CSVN v.v…

Mình làm cái gì thì các “chiến sĩ văn hóa” cũng làm cái nấy.

Cá nhân tôi, lâu nay làm gì cũng chỉ có “một mình”. Mặc dầu làm việc hữu ích cho “lịch sử”, cho dân tộc VN, nhưng chưa hề có cá nhân, đảng phải, tổ chức, cơ quan báo chí… nào ủng hộ hết cả. Từ khi có internet, có facebook, các ý kiến của tôi mới được một số bạn bè chia sẻ. Thật tình rất cám ơn.

Đến nay vấn đề đã “cấp bách” lắm rồi, nếu không nói là đã quá trễ rồi. Những gì cần phải viết về chủ quyền HS và TS tôi đã viết nhiều lần, hôm nay chỉ là lặp lại.

Dầu sao thì lương tâm của mình cũng nhẹ nhàng, mặc dầu không thiếu những người xem tôi là “thế lực thù địch”, hay chỉ trích “làm lợi cho TQ”. Ngay cả khi Biển Đông và TS không còn thuộc VN, tôi nghĩ mình đã xong bổn phận.

Bởi vì sức lực và trí tuệ của mình có hạn. Mà cả vú còn lấp được miệng em. Huống chi…

Bình Luận từ Facebook

1 BÌNH LUẬN

  1. Với VC,hoà hợp,hoà giải dân tộc là một khúc xương hóc.Nuốt vào đã khó,nhả ra thì không được.
    Chính họ là tác giả của chia rẽ dân tộc,làm cho dân một nước căm thù nhau.Nếu nay mà họ kêu gọi hoà giải thì khác nào họ phải nuốt vào cái mà họ đã nhổ ra.
    Khó lắm.Quá khó để làm điều này đối với VC.
    Không một đất nước nào đi lên được khi mà dân tộc đó còn chia rẽ.
    Trước đây họ mạt sát VNCH đến tận cùng của thứ ngôn ngữ hạ cấp thì hôm nay làm gì có kế thừa VNCH.
    Đừng có mơ!
    Chừng nào không còn VC chừng ấy mới mong đất nước đi lên.
    Rừng rú thắng văn minh khác với văn minh thắng rừng rú.

Comments are closed.