Kế hoạch của Trung Quốc để chiến thắng trong cuộc chiến ở Biển Đông là gì?

National Interest

Tác giả: James Holmes

Dịch giả: Trung Nguyễn

27-8-2017

Tàu chiến Trung Quốc 574. Nguồn: Reuters

Năm ngoái, bộ trưởng bộ quốc phòng Trung Quốc, tướng Thường Vạn Toàn, khẩn nài cả nước phải sẵn sàng cho một cuộc “chiến tranh nhân dân trên biển”. Mục tiêu của cuộc vận động này? Để “bảo vệ chủ quyền” sau phán quyết bất lợi của Tòa Trọng tài Quốc tế về luật biển. Tòa đã ủng hộ ý nghĩa rõ ràng của Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển (UNCLOS), phán quyết rằng tuyên bố của Bắc Kinh về “chủ quyền không thể tranh cãi” chiếm 80 tới 90% diện tích biển Đông là vớ vẩn.

Nói cách khác, một quốc gia mạnh có bờ biển dài, không thể đơn giản giành lấy vùng biển quốc tế hoặc vùng biển thuộc về các quốc gia láng giềng yếu hơn và nói rằng đó là của mình.

Hoặc, dù viện cớ gì, quốc gia đó cũng không thể làm như vậy một cách hợp pháp. Nó chỉ có thể làm điều đó qua xâm lược, cưỡng bức sau khi đã có sự hiện diện quân sự thường xuyên. Những người bảo vệ tự do hàng hải, do đó, phải lưu ý đến lời khẩn nài của tướng Thường. Đông Nam Á và các đồng mình bên ngoài phải xem những lời tuyên bố đó là nghiêm trọng, và phải nỗ lực suy nghĩ sâu xa về viễn cảnh một cuộc hải chiến trên biển Đông.

Đó là điểm đầu tiên về cuộc chiến tranh nhân dân trên biển. Một cuộc đụng độ có vũ khí là hoàn toàn có thể xảy ra. Các chính khách và các chỉ huy ở những nơi như Manila, Hà Nội, và Washington không thể xem nhẹ lời của tướng Thường chỉ là lời khoác lác ầm ĩ.

Thật vậy, rất đáng ngờ rằng Trung Quốc sẽ tuân thủ phán quyết của tòa UNCLOS vào thời điểm này, ngay cả nếu giới lãnh đạo đảng Cộng sản Trung Quốc muốn như vậy. Nghĩ về một hình ảnh thuần phục như vậy sẽ gây phản ứng ở trong nước. Hai thập kỷ qua, Bắc Kinh đã đầu tư rộng rãi vào lực lượng hải quân vĩ đại, và hỗ trợ hải quân với hỏa lực trên bờ dưới dạng máy bay chiến đấu, dàn hỏa tiễn chống tàu, tàu chiến tầm ngắn như tàu tuần tra nhanh và tàu ngầm chạy diesel.

Các lãnh đạo đảng ru ngủ dân chúng bằng cách làm thế nào họ sẽ dùng sức mạnh trên biển để biến những chuyện lịch sử giả mạo thành đúng và khiến quốc gia nổi tiếng về sức mạnh hàng hải. Bây giờ họ phải cuốn theo sự lừa dối đó.

Thật điên khùng khi gắn danh dự quốc gia và chủ quyền của Trung Quốc vào những tuyên bố chủ quyền biển đảo mâu thuẫn rành rành với nhau. Nhưng các lãnh đạo đảng đã làm như vậy. Và họ đã làm như vậy lặp đi lặp lại, công khai, và bằng những từ ngữ hùng hồn nhất có thể nghĩ ra được. Bằng ngôn từ của mình họ đã kích động tinh thần quốc gia, đồng thời cũng biến chính họ phải chịu trách nhiệm về việc đó. Họ đã khởi động một vòng xoáy độc hại của việc gia tăng kỳ vọng của dân chúng.

Bẻ gãy vòng xoáy này gần như là không thể. Nếu Bắc Kinh giảm bớt đòi hỏi chủ quyền trên biển bây giờ, người dân Trung Quốc sẽ – một cách đúng đắn – phán xét giới lãnh đạo bằng chính những tiêu chuẩn mà họ đã đặt ra. Các lãnh đạo đảng có thể sẽ bị tố cáo là những người nhu nhược đã nhượng bộ lãnh thổ thiêng liêng, thất bại trong việc báo thù thế kỷ ô nhục của Trung Quốc mặc cho Trung Quốc đang tiến lên thành một siêu cường, và để cho các luật gia và các quốc gia láng giềng nhỏ hơn được chống lưng bởi một vài siêu cường chế nhạo ý chí ngông cuồng và xấu xa của Trung Quốc.

Không lãnh đạo nào thích thú với việc bị nhìn nhận là nhu nhược. Điều đó rất nguy hiểm ở Trung Quốc. Như những nhà ngoại giao vĩ đại đã dạy, rất khó để những nhà thương thuyết hoặc các lãnh đạo chính trị xuống thang từ những cam kết với công chúng. Đã hứa thì phải giữ lời. Nếu thất hứa thì bạn đã tự làm mất uy tín – và chuốc lấy tai họa trong cuộc thương lượng.

Như những lãnh đạo đúng mực khác, Bắc Kinh thích đạt được mục đích mà không phải tiến hành chiến tranh hơn. Chiến đấu, tuy thế, có thể là lựa chọn ít tồi tệ nhất mà các lãnh đạo đảng đã để dành lại. Đó là tình trạng khó khăn mà họ đã tự tạo ra.

Điều đó cũng dẫn tới điểm thứ hai. Phán xét từ lời nói của tướng Thường, nền ngoại giao cây gậy nhỏ đã hoàn thành sứ mạng. Ngoại giao cây gậy nhỏ là triển khai Lực lượng Bảo vệ bờ Biển Trung Quốc và những bộ phận không vũ trang trên biển để tuần tra các vùng biển mà Bắc Kinh đã tuyên bố chủ quyền. Nó vẽ ra chủ quyền của Trung Quốc ở biển Đông như là một thực tế, và sẽ chiến thắng mọi đối thủ dám đảo ngược thực tế này.

Không ai chống lại chuyện đó, chủ quyền trên thực tế của Trung Quốc – gần như độc quyền trong việc sử dụng vũ lực trong vùng biên giới vẽ ra trên bản đồ – sẽ ngày càng được củng cố qua thời gian. Một khi nó đã trở thành một điều bình thường mới, nó thậm chí có thể tạo ra luồng hào quang về tính hợp pháp giữa các quốc gia đi biển.

Tòa án UNCLOS đã giáng một đòn đau vào cách tiếp cận của Trung Quốc, làm sụp đổ luận điểm gần như hợp pháp để hỗ trợ cho ngoại giao cây gậy nhỏ. Quyết định của tòa cho thấy rõ ràng rằng lực lượng trên biển của Trung Quốc hoạt động ở, ví dụ như, vùng đặc quyền kinh tế của Philippines là những kẻ xâm lược hoặc kẻ chiếm đóng – chứ không phải là cảnh sát.

Nếu Bắc Kinh không thể vượt qua các tàu tuần tra bờ biển màu trắng, nó sẽ để cho quân đội. Các quốc gia có chủ quyền triển khai các hoạt động đảm bảo thực thi pháp luật để giám sát những gì hợp pháp thuộc về họ. Họ triển khai lực lượng quân đội để chiến đấu giành lấy những gì đang tranh cãi. Kiểu nói chuyện như trong thời chiến của tướng Thường ngụ ý rằng Bắc Kinh đã từ bỏ lối tiếp cận mềm dẻo và ngầm công nhận rằng Đông Nam Á là một vùng tranh chấp.

Thứ tiếng lóng mà ông ta dùng cũng quan trọng. Chiến tranh nhân dân là câu nói của Mao nhằm truyền tải một vài ý tưởng chiến tranh. Hồng quân của Mao Trạch Đông đã phát động chiến tranh nhân dân để chiếm đóng những vùng tranh chấp từ quân xâm lược Nhật Bản và Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Có vẻ như Trung Quốc hiện tại đang nhìn biển Đông với cùng một thuật ngữ – như một chiến trường ngoài khơi nơi mà đối thủ phải bị chiến thắng bằng vũ lực.

Nhưng không phải chỉ bởi sức mạnh quân sự. Bắc Kinh sẽ không rút lại lực lượng tuần duyên, các ban ngành chấp pháp hàng hải, hoặc đội tàu cá – một dạng dân quân không chính thức – từ những vùng biển tranh chấp. Họ sẽ ở đó như là một bộ phận của tổ hợp đội tàu của chính quyền. Nhưng Hải quân và Không quân của Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) sẽ đóng vai trò nổi bật trong tổ hợp chiến đấu này.

Trong những ngày thực thi ngoại giao cây gậy nhỏ, cây gậy lớn của hải quân là mối đe dọa ngầm ẩn từ chân trời. Những thủy thủ Philippines hay Việt Nam biết rằng lực lượng tuần duyên Trung Quốc có chỗ dựa nếu họ thách thức chúng. Khả năng lớn là các chỉ huy Trung Quốc sẽ sử dụng cây gậy lớn bừa bãi hơn trong tương lai – cho thấy sự đe dọa công khai và rõ ràng hơn là ngấm ngầm và khó nhận biết.

Đây là điểm thứ ba. Một chiến lược chiến tranh nhân dân trên biển sẽ đối đầu với một liên minh đa dạng trong đó những nước bên ngoài – Mỹ, và có thể thêm Nhật Bản hoặc Úc – cung cấp phần lớn sức mạnh chiến đấu. Philippines hoàn toàn không đủ lực. Việt Nam có quân đội dũng cảm và ghê gớm, nhưng cũng khó có thể kháng cự người khổng lồ phương Bắc mà không có giúp đỡ.

Bản chất kì lạ của liên minh này sẽ cung cấp cho Bắc Kinh các cơ hội để phá vỡ chúng. Trung Quốc có thể nhận xét rằng bất kỳ xung đột nào ở biển Đông cũng sẽ trở thành “cuộc chiến bởi đội ngũ” đối với Hoa Kỳ, một cuộc chiến trong đó Washington cố định độ lớn của lực lượng được gửi tới để hỗ trợ các đồng minh trong vùng và chỉ đạo các chỉ huy của lực lượng đó làm tất cả những gì có thể với nguồn lực họ có.

Các chiến lược như vậy có thể rất tuyệt vời để gây rối nhưng hiếm khi mang tính quyết định. Ví dụ như ngài Wellington dẫn đầu một đạo quân cập bờ Iberia năm 1807. Đoàn quân viễn chinh đã cho Napoleon một “khối ung nhọt Tây Ban Nha,” một sự tham chiến rầy rà trên một mặt trận mới. Tuy nhiên Wellington chưa bao giờ tự lừa dối mình rằng ông sẽ thắng cuộc chiến tranh trải dài trên khắp lục địa với một lực lượng viễn chinh khiêm tốn được tăng cường bởi những đội du kích và Hải quân Hoàng gia.

Với cách tiếp cận như vậy, nói cách khác, sẽ phản bội lại một nửa sự chân thành từ phía Washington. Sau tất cả, nước Mỹ sẽ tham gia vào một cuộc phiêu lưu thử thách có cái kết mở ở một chiến trường xa xôi, ngoài khơi của đối thủ mà không hề có ý nghĩ sẽ giành nổi chiến thắng. Sự trung thành một nửa sẽ dập tắt những cuộc phiêu lưu như vậy.

Chiến tranh nhân dân nói về việc dẻo dai hơn các kẻ thù mạnh hơn trong những hoàn cảnh như vậy. Nếu người tranh chấp yếu hơn là Trung Quốc, được trang bị các nguồn dự trữ sức mạnh dồi dào để sử dụng, vậy thì người tranh chấp đó cần thời gian. Lực lượng vũ trang Trung Quốc sẽ kéo dài chiến dịch, vừa để câu giờ vừa để tập hợp nhiều sức mạnh hơn và bào mòn sức mạnh chiến đấu của kẻ thù.

Một cách ngắn gọn, Trung Quốc có thể thắng ngay cả khi họ yếu hơn nước Mỹ về tổng thể. Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) có thể thu hẹp hoặc đảo ngược cán cân lực lượng trên chiến trường – áp đảo đội quân của Mỹ tại không gian và thời gian thật sự quan trọng. Nó có thể làm Washington mất tinh thần. Các lãnh đạo Mỹ có thể tuyệt vọng trong việc duy trì cam kết không có thời hạn. Hoặc, Trung Quốc có thể duy trì chiến tranh lâu hơn Hoa Kỳ – gây ra nhiều trận thua chiến thuật qua thời gian dài, do đó sẽ đẩy cái giá phải trả để giữ gìn tự do hàng hải cao hơn những gì mà các lãnh đạo Hoa Kỳ sẵn sàng trả. Nếu nước Mỹ cuốn gói về nước, cuộc phiêu lưu sẽ sụp đổ.

Làm thế nào, bằng các thuật ngữ chiến dịch và chiến thuật, các chỉ huy của PLA làm được điều đó? Bằng cách chặt bỏ truyền thống chiến tranh của chính họ. Trung Quốc có thể dự đoán được về mặt chính trị và chiến lược ở biển Đông nhưng không thể dự đoán được về mặt chiến dịch và chiến thuật. Dự đoán được về mặt chính trị hoặc chiến lược bởi vì các lãnh đạo đảng tự đẩy họ vào chân tường với dân chúng trong nước. Không dự đoán được về mặt chiến thuật bởi vì đó là cách mà lực lượng vũ trang Trung Quốc đã chiến đấu từ thời Mao.

Thật vậy, “phòng thủ tích cực”, một khái niệm nhờ đó mà Mao đã hệ thống hóa ý tưởng của mình về chiến tranh nhân dân, vẫn là trung tâm của chiến lược quân sự Trung Quốc. Hãy hỏi Bắc Kinh. Để đơn giản hóa một chút, hình ảnh kỳ lạ phía sau phòng thủ tích cực là một nước Trung Quốc yếu hơn có thể nhử một võ sỹ mạnh hơn vào việc kéo dài và tiêu hao sức lực của hắn trước khi ra đòn phản công quyết định. Hãy nhớ lại “Cuộc ẩu đả trong rừng rậm” của võ sỹ vĩ đại Muhammad Ali và bạn sẽ hiểu ý tưởng này.

Nếu lối tiếp cận tiêu hao sinh lực địch như vậy có thể thực hiện ở phạm vi rộng lớn, lực lượng vũ trang Trung Quốc có thể gây ra những thất bại chiến thuật làm suy yếu kẻ thù qua thời gian. Phòng thủ tích cực, như thế, là việc tiết chế tấn công chiến thuật để dành sức cho các chiến dịch phòng thủ chiến lược.

Để theo đuổi chiến thuật đó, các chỉ huy Trung Quốc sẽ tìm các đội quân kẻ thù đang bị cô lập mà họ có thể tấn công ở “đường biên ngoài”, bao vây và nghiền nát chúng. Tác dụng dồn lại của việc bị thua trận chiến thuật lặp đi lặp lại sẽ bào mòn kẻ mạnh – và có thể khiến giới lãnh đạo của kẻ mạnh tự vấn về nỗ lực có còn xứng đáng cho khó khăn, nguy hiểm và cái giá phải trả. Nếu không, logic giá phải trả/phần thưởng sẽ đẩy lãnh đạo Hoa Kỳ về hướng thoát thân – và Trung Quốc sẽ chiến thắng ngay cả khi không có một thắng lợi trực tiếp và rõ ràng trên các lực lượng của liên quân.

Hoa Kỳ và các sỹ quan không quân, hải quân của liên quân, theo đó, phải nghiên cứu truyền thống chiến tranh của Trung Quốc, lượm lặt cái nhìn vào bên trong để biết việc phòng thủ tích cực ngoài khơi sẽ như thế nào ở biển Đông. Nếu bạn là Bắc Kinh và đang xây dựng lực lượng dân quân đi biển, một lực lượng bảo vệ bờ biển ấn tượng, lực lượng hải quân bản địa lớn nhất châu Á, và một lượng vũ khí khổng lồ trên mặt đất để khống chế cục diện trên biển, bạn sẽ pha trộn các thành phần lại thành một công cụ chiến đấu sắc bén như thế nào – và củng cố sự kiểm soát vùng biển đóng một nửa?

Cố gắng nhìn vào những vấn đề như vậy có thể sẽ được tưởng thưởng xứng đáng nếu Trung Quốc cố gắng đưa khái niệm chiến lược của tướng Thường và Mao vào thực tiễn.

Một lời khuyên cuối từ Mao Trạch Đông. Tướng Thường đã sử dụng thuật ngữ truyền thống Trung Quốc, xoay quanh chiến tranh nhân dân, để miêu tả cách mà Bắc Kinh giải quyết vấn đề với Đông Nam Á. Nhưng nhớ rằng chiến lược của người yếu thích hợp với Mao ở thời điểm đó chứ không phải là chiến lược ưa thích của ông ta. Ông ta viết điều đó cho một Trung Quốc ốm yếu, bị tàn phá bởi nội chiến và sự xâm lược của ngoại bang.

Nó khó có thể làm khác. Nhưng mục đích của việc phòng thủ tích cực – hay chiến tranh nhân dân – là để biến Hồng quân thành một đối thủ mạnh hơn. Một khi lực lượng của Mao đảo ngược được cán cân sức mạnh, họ sẽ tổng phản công và chiến thắng trên chiến trường quy ước.

Đây không phải là Trung Quốc thời Mao. Nước này đã là một cường quốc kinh tế và quân sự, và sẽ chiến đấu trên mảnh đất của họ. Ngày nay, PLA có nhiều lựa chọn tấn công hơn Hồng quân của Mao rất nhiều. Thay vì trở lại với khái niệm chiến tranh nhân dân nguyên bản thời Mao, các chỉ huy của PLA có thể theo đuổi sự phối hợp giữa các đơn vị tham chiến lớn và nhỏ để chống lại liên quân dẫn đầu bởi Hoa Kỳ.

Chiến tranh nhân dân, như vậy, có thể bắt đầu giống như một trận hải chiến quy ước nếu Bắc Kinh tin rằng cán cân quân sự và xu thế có lợi cho Trung Quốc.

Bằng mọi giá, hãy xem xét cách thức chiến tranh của Trung Quốc, nhận thức rõ những gì chúng ta có thể biết về thói quen và suy nghĩ tiến hành chiến tranh của người Trung Quốc. Nhưng đó không phải là sự lặp lại kịch bản của Mao từ những năm 1930 và 1940. Làm thế nào họ chuyển dịch học thuyết của Mao về bối cảnh ngoài khơi – và làm thế nào mà một liên quân lỏng lẻo có thể vượt qua một thách thức như vậy – là câu hỏi đặt ra với những người ủng hộ tự do hàng hải.

James Holmes là Giáo sư Chiến lược ở Trường Hải quân và là đồng tác của cuốn sách “Cờ Đỏ trên biển Thái Bình Dương” (Red Star over the Pacific). Ông là học giả nổi bật trong chương trình Van Beuren tại đại học Georgia, trường Sự vụ Công và Quốc tế mùa hè này. Quan điểm đưa ra ở đây là của tác giả.

© Copyright Tiếng Dân – Bản tiếng Việt

Bình Luận từ Facebook