100 năm Cách mạng tháng Mười (7/11/1917 – 7/11/2017)

Lê Phú Khải

I) Bối Cảnh

Ngày 7-11-2017 năm nay, loài người tiến bộ trên toàn thế giới muốn hay không cũng phải để thời gian suy ngẫm, hồi tưởng về cái ngày “rung chuyển thế giới” này. Ký ức tập thể của nhân loại không bao giờ phai lạt về một cuộc cách mạng đã để lại những dấu ấn hào hùng cùng những chấn thương vô cùng nặng nề cho nhân loại và còn để lại những di hại đến ngày nay, chưa biết đến bao giờ mới hết di căn…

Cách mạng Tháng 10 không phải là một “ngẫu nhiên lịch sử”. Nước Nga trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất là một nước tư bản trung bình với rất nhiều yếu tố lạc hậu. Với dân số 174 triệu người, Nga chỉ đạt 7,5 tỷ đô la tổng thu nhập quốc dân và 43 đô la bình quân đầu người. Trong khi đó, Mỹ với dân số hơn 97 triệu người đã đạt 34.4 tỷ đô la, gấp 5 lần Nga về bình quân thu nhập theo đầu người, các nước Anh (10,9 tỷ đô la và 237 đô la), Đức (10,5 tỷ đô la và 154 đô la), Pháp (7,3 tỷ đô la và 183 đô la).

Nói Nga là nước tư bản có trình độ phát triển trung bình là nói theo lối thống kê. Thực ra, Nga vốn là một nước nông nghiệp. Năm 1913, nông nghiệp chiếm 58% tổng sản phẩm quốc dân, nông dân chiếm 2/3 dân số. Nga mới thoát khỏi chế độ nông nô năm 1861. Nông thôn Nga rất lạc hậu và phụ thuôc vào đại địa chủ.

Ở thành thị, chủ yếu là ở các thành phố lớn như Pêtograt và Maxtcơva đã hình thành giai cấp công nhân có số lượng lên đến 10 triệu người. Giai cấp vô sản này bị bóc lột nặng nề và sống trong hoàn cảnh khốn cùng. Theo thống kê thời đó thì lương công nhân là 246 rúp, thì lợi nhuận làm ra cho tư bản là 252 rúp, tỷ số bóc lột là hơn 100%. Theo luật pháp thời đó thì thời gian làm viêc trong ngày là 11,5 giờ, nhưng thực tế họ phải làm 12 đến 14 giờ. Có thể nói, giai cấp vô sản Nga khổ cực nhất thế giới thời đó.

Chiến tranh thế giới 1914 – 1918 mà Nga tham chiến đã phá hoại nền công nghiệp Nga một cách nghiêm trọng. Hàng loạt nhà máy đóng cửa, công nhân thất nghiệp, phải đi lính đánh Đức. Quân đội của Nga hoàng Nicôlai đệ nhị lúc đó trang bị rất kém, liên tiếp thua trận, kỷ luật trong quân đội được xây dựng trên “cơ sở tàn bạo”. Nhục hình được thực hành rộng rãi trong quân đội. “Những người bị thương nặng đưa từ mặt trận về… Qua những người bị thương chúng tôi biết nhiều chuyện, trước hết là chuyện quân đội ta trang bị rất kém. Binh lính nói xấu các sỹ quan cao cấp, họ đồn là ở bộ chỉ huy tối cao có người được bọn Đức mua chuộc làm phản. Binh lính ăn uống rất cực khổ…” (Nhớ lại và suy nghĩ – Hồi ký của Zhukov – NXB.QĐND 2001 – trang 49).

Nguyên soái Zhukov từng đi lính thời Nga hoàng, đoạn hồi ký trên là ông ghi lại về tình cảnh quân đội Nga thời đó.

II) Lướt nhanh về cách mạng Tháng 10 – Liên Xô

Chế độ quân chủ chuyên chế ở Nga của dòng họ Rômanôp kéo dài đến 300 năm, đã đưa đất nước đến khốn cùng. Đại thi hào Puskin (1799–1837) xuất thân là quý tộc cũng phải thét lên: “Tôi muốn đạp vào những tật xấu gian tham đang nghiễm nhiên ngự trị trên ngai vàng.” Dưới ngai vàng của triều đại cuối cùng Nicôla II: nông dân thì chết đói, công nhân chết gục, binh lính bị nhục hình, đó là tất cả những gì để kết luận: cách mạng Tháng 10 không phải là một “ngẫu nhiên của lịch sử”. Năm 1905, cách mạng Nga lần thứ nhất đã nổ ra và bị tắm máu. Tháng 2 năm 1917 cách mạng Nga lần thứ hai lại nổ ra, tiêu diệt chế độ quân chủ chuyên chế Nga, Nicôla II thoái vị, nhưng chính quyền lọt vào tay giai cấp tư sản, thông qua chính phủ lâm thời do Kerenxki đứng đầu. Tám tháng giao tranh giữa tư sản và vô sản. Ngày 25 tháng 10 theo lịch Nga, tức 7–11 –1917, những loạt đại bác từ chiến hạm Rạng Đông nổ vang, mở đầu cuộc tấn công vào cung điện Mùa Đông ở Pêtrôgat, quân khởi nghĩa chiếm những mục tiêu quan trọng. 10 giờ sáng đài phát thanh Rạng – Đông phát đi lời kêu gọi của LêNin: “Chính phủ lâm thời đã bị lật đổ, chính quyền nhà nước đã chuyển qua tay các cơ quan của Xô Viết đại biểu công nhân và binh sỹ Pêtrôgat… Sự nghiệp mà nhân dân đã đấu tranh để thực hiện: đề nghị ngay tức khắc một hòa ước dân chủ, xóa bỏ quyền sở hữu ruộng đất của bọn địa chủ, thiết lập chế độ công nhân kiểm soát sản xuất thành lập chính phủ Xô–Viết, sự nghiệp đó đã được bảo đảm.

“Cách mạng của công nhân, binh sỹ và nông dân muôn năm!”. Ngay tối hôm đó, đại hội II toàn Nga các Xô–Viết đại biểu công nhân và binh sỹ họp đến tối hôm sau. Chính phủ công nông đã được thành lập do LêNin đứng đầu. Làn sóng cách mạng lan khắp nước. Chính quyền Xô–Viết được thành lập ở khắp nơi. Cách mạng Tháng 10 đã thành công rất mau chóng. Và đây là cuộc cách mạng ít đổ máu nhất trong lịch sử nhân loại đến lúc đó.

Cách mạng Tháng 10 thành công trong một thời gian rất ngắn trên một đất nước bao la rộng lớn như nước Nga không phải là một “ngẫu nhiên của lịch sử”, khát vọng ruộng đất, khát vọng hòa bình chấm dứt chiến tranh của nông dân, công nhân và binh lính nước Nga đã được Đảng Bôn–sê–vích tổ chức, lãnh đạo quần chúng nổi dậy dành thằng lợi.

Hai sắc lệnh đầu tiên của chính quyền Xô–Viết là sắc lệnh hòa bình và sắc lệnh ruộng đất. Phải vượt qua rất nhiều trở lực, “vô cùng nặng nề và vô cùng nhục nhã” như LêNin nói, nhưng đất nước đã được hòa bình: Hòa ước Brest Litốpxcơ được ký kết vào mùa xuân năm 1918. Hòa bình đã cứu sống cách mạng, là điều kiện phải có để tổ chức lại đất nước. Hãy bắt tay vào công cuộc “tổ chức, tổ chức và tổ chức”, đó là khẩu hiệu của LêNin và những người Bôn–sê–vích lúc đó. Nhưng không để cho nhân dân kịp hồi sức, những kẻ thù của cách mạng Tháng 10 bên trong và một cuộc can thiệp của bốn đế quốc bên ngoài đã gây nên nội chiến, tháng 3 năm 1918 Anh, Pháp, Mỹ đã đánh vào Muocmanxcơ, Nhật đánh vào Vladivoxtoc, Thổ Nhĩ Kỳ đánh vào Dacápcadơ. Cùng lúc đó, quân đội Tiệp Khắc do đồng minh tổ chức bạo loạn ở bên trong, gây ra tình thế trong đánh ra, ngoài đánh vào. Nước Cộng Hòa Xô Viết chỉ còn 1/4 lãnh thổ. Một mất một còn. LêNin tuyên bố: “Cách mạng không đáng một xu nếu không bảo vệ được mình”. Hồng quân công nông được thành lập, 1/2 đảng viên Bôn–sê–vích ra mặt trận đã có sức thuyết phục lớn quần chúng. Cả nước dồn sức cho Hồng quân; Từ 300 nghìn đầu năm 1918 dã tăng lên 5 triệu vào năm 1920. Các biện pháp “cộng sản thời chiến” được thực hiện, chính sách trưng thu lương thực, kỷ luật lao động bắt buộc được ban bố. Các vựa lúa mỳ bị kẻ thù chiếm, nạn đói hoành hành khắp nước. Tình cảnh nước Nga gần như tuyệt vọng. Nhưng dần dần những nổ lực phi thường của chính quyền Xô–Viết và quần chúng cách mạng, những nguy cơ hiểm nghèo nhất đã dần dần được vượt qua. Thắng lợi của nhà nước Xô–Viết non trẻ một phần quan trọng được nhờ sự ủng hộ của giai cấp vô sản các nước Phương Tây. Các cuộc mít–tinh, biểu tình, bãi công ở các nước nổ ra với khẩu hiệu: “Không can thiệp vào nước Nga”. Ở nhiều bến cảng, công nhân từ chối khuân vác vũ khí xuống tàu đi đánh nước Nga. Ngay cả thủy thủ cũng phản chiến.

Hiểm họa được đẩy lùi nhưng nước Nga bị tàn phá và nghèo khó đến tận cùng. Không một ngành công nghiệp nào còn hoạt động bình thường. Thành thị vơi hẳn người, hàng loạt công nhân trở về nông thôn kiếm miếng ăn. Giai cấp vô sản Nga gần như tan rã. Giao thông vận tải đình đốn. 31 đoạn đường sắt ngừng hoạt động. 1700 km đường sắt bị phá hoại. Hầu hết đầu máy hư hỏng. Lạm phát kinh khủng. Nhiều nơi chuyển từ trao đổi bằng tiền sang trao đổi bằng hiện vật. Ở tỉnh Cadan, lấy muối làm tiền. Bạo loạn nổ ra ở Krônxtat. Nạn đói đặc biệt nghiêm trọng ở vùng phía đông nước Nga. Báo Pravda công bố 25 triệu người đói. Aragông viết: “Trên một lãnh thổ rộng lớn hơn nước Pháp, đất đai nứt nẻ… trẻ con bụng ỏng, răng lòi chân ra, và những con người gầy đét kéo nhau đi, những người đàn ông rên rỉ vì bệnh sốt, đàn bà thì tóc cạo nhẵn, quỳ gục xuống trên đường, những đoàn người gồm các gia đình kéo nhau đi, dường như ở đâu đó có bánh đợi họ… đường xá đầy những xác chết…” (U.R.S.S Paris 1962. Trang 211).

Chính quyền Xô–Viết đứng trước những thử thách quá mức tưởng tượng, đã dốc hết sức lực của mình để cứu vãn tình thế. Từ một nước tư bản trung bình, sau nội chiến, nước Nga quay về một nước tiểu nông.

Chính sách kinh tế mới (NEP) của LêNin ra đời trong hoàn cảnh đó nhằm giành lại quần chúng công nông, không đẩy họ về phía thù địch. Chính sách đó được đại hội X của Đảng cộng sản Nga nhất trí thông qua và đưa vào thực hiện ngay, chính sách thu mua lương thực thừa thời chiến được bãi bỏ. Các xí nghiệp tư nhân được phép hoạt động. Các xí nghiệp vừa và nhỏ của nhà nước có thể cho tư nhân thuê. Tư bản nước ngoài được bỏ vốn vào sản xuất trong nước dưới hình thức tô nhượng, thuê chuyên gia nước ngoài làm việc cho Nga. Kinh tế quốc doanh áp dụng triệt để hạch toán kinh tế và gắn tiền lương vào lao động của mỗi người. Nhà nước đưa dự trữ vàng ra nước ngoài mau vật liệu và máy móc, mua những hàng tiêu dùng thiết yếu và đón nhận viện trợ từ nước ngoài. Hàng triệu pút lúa mỳ được giửi đến nước Nga. LêNin đề ra khẩu hiệu: “Phải học buôn bán!”.

Nhưng chính sách kinh tế mới lại nảy ra tình trạng đặc quyền đặc lợi, nạn hối lộ, quan liêu thoái hóa, nạn mua chuộc các viên chức Xô Viết… Cuộc thanh đảng năm 1921 đã được thực hiện kiên quyết với sự tham gia tích cực của quần chúng công nông. 24% tổng số đảng viên lúc đó đã bị khai trừ. Kỷ luật đảng được cũng cố, uy tín của đảng Bôn–sê–vích được nâng cao. Với chính sách kinh tế mới, công cuộc khôi phục kinh tế tiến rất nhanh. Quần chúng được hồi sức đã nô nức sản xuất. Lương thực đã đủ cung cấp cho đất nước, giá lúa mỳ năm 1923 thấp hơn trước chiến tranh, sản xuất công nghiệp đạt 3/4 trước chiến tranh, nước Nga sống lại, năm 1925 công cuộc khôi phục kinh tế hoàn thành. Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết (Liên Xô) được thành lập trong thời kỳ này (1922). Nhà nước nhiều dân tộc và không có áp bức dân tộc đầu tiên trên thế giới ra đời.

Nhưng khi đất nước bắt đầu lấy được đà tiến lên mạnh mẽ thì Vi-la-đi-mia I-lích LêNin qua đời. Trước khi mất, trong khi dưỡng bệnh (bị thương vì bị ám sát trước đó) LêNin mới chỉ phác họa ra những đường hướng chủ yếu của công cuộc xây dựng CNXH ở Liên Xô. Ngày nay, những nhà nghiên cứu lịch sử, nhìn lại sự phát triển của Liên Xô từ sau khi LêNin mất, dù ở góc độ nào, cũng không thể không đồng cảm về sự mất mát này với sự phát triển của Liên Xô.

Với sự nhìn nhận tinh tường, trước khi mất, LêNin đã đề nghị (di chúc) với Đại hội XIII của Đảng cộng sản Liên Xô: “Stalin quá thô bạo, trong hoàn cảnh có thể dung thứ được trong môi trường chúng ta, trong quan hệ giữa người và người cộng sản chúng ta, nhưng lại trở thành một nhược điểm không thể dung thứ được trong cương vị tổng bí thư. Vậy tôi để nghị các đồng chí chuyển Stalin khỏi cương vị đó và cử một người khác vào cương vị đó, một người mà về mọi phương diện khác trội hơn Stalin ở một ưu điểm duy nhất, cụ thể là khoan dung hơn, từ tốn hơn, lịch thiệp hơn và quan tâm đến đồng chí nhiều hơn, tính tình ít thất thường hơn…” (LêNin toàn tập, tập 45, trang 396 – 397, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva, 1978)

Đầu năm 1926 thì các ngành kinh tế quốc dân đã trở lại hoạt động bình thường ở mức trước chiến tranh, những cơ cở đầu tiền của chủ nghĩa xã hội ra đời và phá triển. Nhà nước nắm trong tay giao thông vận tải, ngoại thương… Trên cở sở đó, Đảng cộng sản Liên Xô nghĩ tới một xã hội xã hội chủ nghĩa mà họ hằng mơ ước. Liên xô phải đứng vững trước vòng vây của chủ nghĩa tư bản. Muốn thế phải công nghiệp hóa đất nước. Đại hội lần thứu XIV của Đảng cộng sản Liên Xô tháng 12 năm 1925 đã thông qua nghị quyết về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, chủ yếu nhằm vào các ngành công nghiệp nặng. Đây là một công việc cực kỳ khó khắn, vì công nghiệp nặng đòi hỏi nhiều vốn, không sinh lời ngay. Khác hẳn với các nước tư bản, công nghiệp hóa từ xây dựng công nghiệp nhẹ, sinh lời ngay. Đảng cộng sản Liên Xô đã động viên nhân dân tích lũy vốn bằng sự chịu đựng gian khổ, lao động quên mình, nhà nước đã đầu tư hàng tỷ rúp vào công nghiệp nặng.

Từ năm 1928, Liên Xô chuyển sang kế hoạch 5 năm để thực hiện tốt hơn công nghiệp hóa. Cuối năm 1932, kế hoạch 5 năm đầu được thực hiên xong. Kế hoạch 5 năm lần thứ 2 đã hoàn thành trong vòng 4 năm 3 tháng, vào tháng 4 năm 1937. Liên Xô đã trở thành một cường quốc công nghiệp lớn sau hơn 15 năm công nghiệp hóa, đứng đầu Châu Âu về tổng sản lượng công nghiệp, đứng thứ 2 thế giới sau Mỹ. Công việc này các nước Phương Tây như Anh phải mất 200 năm tích lũy mà “mỗi lỗ chân lông của nó thấm đẫm máu và nước mắt” (Marx), Mỹ phải mất 120 năm, Nhật mất 40 năm… Sự thành công rực rỡ của Liên Xô công nghiệp hóa đã làm cả thế giới phải ngạc nhiên. Cách mạng Tháng Mười Nga đã trở thành một sự kiện lớn của thời đại, ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống chính trị và văn hóa của nhân loại nhiều thập kỷ của thế kỷ 20. Nó giải thích vì sao có một thời phong trào thiên tả, kỳ vọng ở Liên Xô, xem Liên Xô là “cái nôi” của cách mạng xã hội loài người đã lan rộng trong giới trí thức Phương Tây, điển hình như triết gia   Jean Paul Sartre ở Pháp, BerTrand Russel ở Anh, Jane Fonda ở Mỹ… Đề tài cách mạng Tháng Mười Nga và nước Nga Xô Viết chiếm một vị trí quan trọng trong sáng tác của nhiều nhà văn Phương Tây như Jôn Rít ở Mỹ, Hăngri Bácbuýt, Pôn Vaiăng Cuturiê,  Rômanh Rôlăng ở Pháp, Béckherơ ở Đức, Bécna Sô ở Anh… Bản thân cuộc sống đã cho phép họ nói đến cách mạng XHCN như một hiện thực trong tồn tại và phát triển. Hẳn nhân loại còn nhớ, nhà văn nổi tiếng của Pháp là Anatole France đã giành toàn bộ số tiền của giải thưởng Nobel để tặng cho quỷ cứu đói của nước Nga Xô Viết trong những năm sau nội chiến.

Nhưng trên bức tranh toàn cảnh của thành tựu kinh tế xã hội ấy, đã nẩy nở tệ sùng bái cá nhân Stalin. Vị ngọt ngào đã đượm mùi cay đắng. Tệ sùng bái cá nhân và những cuộc thanh trừng đẫm máu kéo dài ở Liên Xô là kết quả tất yếu của một xã hội độc tài toàn trị của một đảng độc quyền lãnh đạo, không có pháp luật không có nhân quyền và phản biện. Tất cả những thành tựu lao động quên mình và hy sinh không bờ bến của nhân dân Liên Xô đều được gắn với tên tuổi của Stalin. Công lao của Stalin đã được cả bộ máy tuyên truyền khổng lồ của chế độ độc tài Đảng trị tô vẽ, thổi phồng một cách vô lối. Để nắm được quyền hành tuyệt đối trong một đảng cầm quyền không có nhiệm kỳ với người lãnh đại tối cao, Stalin đã chuẩn bị “ngôi báu” của mình từ rất lâu. Ở cương vị tổng bí thư, Stalin vẫn cảm thấy nguy cơ bị thách thức từ những ngày đầu. Hầu hết những người Bôn–sê–vích (Bôlshevik) đồng chí với ông ta và LêNin từ thời kỳ đầu lần lượt sau này bị xử tử chỉ còn lại Molôtốp, Khalinin do khuất phục Stalin… chỉ trong năm 1933 đã có 400 nghìn đảng viên bị khai trừ. Việc khai trừ thường đồng nghĩa với bắt giữ, thẩm vấn và xử tử. Ngày 1 tháng 12 năm 1934 Sergei Kirov bí thư thành ủy Leningrad bị ám sát. Stalin lấy cớ đó để phát động thanh trừng hàng loạt, mở đầu bằng biệc xử tử 10 người cáo buộc có liên quan vào vụ Kirov, mặc dù họ ở trong tù vào thời điểm xảy ra vụ án. Nhiều nhân vật đương thời và nhà sử học về sau tin rằng chính Stalin đã ra lệnh giết Kirov. Tuy Kirov là một người theo đường lối Stalin, nhưng là một ngôi sao chính trị đang lên làm lu mờ vị trí của Stalin (!). Mặc dù Yagoda, Yezhov và Beria trực tiếp chỉ đạo việc thanh trừng nhưng Stalin là người lãnh đạo cao nhất và trực tiếp liên hệ chặt chẽ với họ. Trong một số trường hợp Stalin đã trực tiếp chỉ đạo thẩm vấn những người không chịu thú tội. (!) Trong suốt thời kì 1937 – 1938, Stalin đã tự tay kí 357 danh sách chuẩn y việc tòa án tuyên tử hình hàng nghìn người. Stalin đã chọn riêng Vasili Blokhing giám sát việc thi hành án tử hình các nhân vật quan trọng. Theo Ủy ban Schatunow, Skja điều tra theo ủy quyền của Nikita Chruschtschow dưới hầm của cơ quan KGB từ 1-1-1935 đến 7/1940 mật vụ Stalin đã bắt 19.840.000 người dân, 7 triệu trong tổng số đó hơn 1/3 đã chết trong các trại lao động nhà tù. Trong thời gian đại khủng bố 1936 – 1938 trung bình mỗi ngày có 1000 người bị giết. Trục xuất và di dân cũng là một thảm họa.

Thời kỳ Stalin cầm quyền đã diễn ra những đợt trục xuất và di dân lớn nhất trong lịch sử. Có hơn 14 triệu người đã bị buộc phải di cư, bị đưa đến những trại cải tạo từ năm 1929 đến 1953. 7 đến 8 triệu người bị trục xuất đưa tới những miền xa xôi và khí hậu khắc nghiệt. Định kiến của Stalin về lòng trung thành của những nhóm sắc tộc đặc biệt là lý do để trục xuất và di dân. Ước tính có hơn 3 triệu người bị đưa tới Siberia và miền Trung Á. Một phần ba những người tái định cư bị chết trong vòng 15 năm do mắc bệnh và đói ăn. Hậu quả còn kéo dài cho đến ngày nay. Ví dụ, cộng đồng người Tarta vốn là nhóm đa số ở Krym từ nhiều đời, bị trục xuất khỏi quê hương năm 1944 và người Nga trở thành đa số ở miền này. Trong cuộc khủng hoảng Krym năm 2014, nước Nga viện dẫn là ý nguyện của đa số người Nga rồi can thiệp quân sự, sát nhập Krym vào Nga! Cộng đồng người Tarta cho rằng, chính họ mới là người có quyền về vận mệnh của Krym chứ không phải người di dân Nga.

Chính ký ức đau thương sâu đậm trong tâm trí nhiều dân tộc thiểu số là động lực cho chủ nghĩa ly khai ở những vùng thuộc Nga như Chechnya ngày nay. Chiến dịch thanh trừng của Stalin còn vươn ra khỏi Liên Xô. Stalin gởi điệp viên để mưu sát những người chạy trốn. Trotsky bị mưu sát tại nơi ở của ông ở Mexico. Nhân danh Quốc tế cộng sản, Stalin chỉ đạo thanh trừng hàng loạt những người theo Trotsky trên thế giới. Lãnh đạo cộng sản Việt Nam Hồ Chí Minh đã từng bị điều tra và thẩm vấn theo những chủ trương trên. Quốc tế cộng sản dưới thời Stalin đã khuyến kích những cuộc bạo động sớm bị đàn áp đẫm máu mà Xô Viết Nghệ Tĩnh ở Việt Nam hay cuộc khởi nghĩa của cộng sản Indonesia là những ví dụ. Tới năm 1939 các giáo sứ từ 54.000 năm 1917 giảm xuống còn vài trăm. Nhiều nhà thờ bị đập phá, hàng chục nghìn linh mục, tu sĩ và sơ bị thẩm vấn bắt bắt giam hoặc hành quyết. Trên 100 nghìn người liên quan tới tôn giáo bị giết trong những đợt thanh trừng năm 1937 – 1938.

Chỉ khi lãnh đạo giáo hội công nhận uy quyền thế tục của Stalin thì Chính thống giáo ở Nga mới được hoạt động trở lại và bị lợi dụng trong chiến tranh thế giới lần thứ II. Với các nhân vật chính trị, trí thức, nghệ sỹ sau khi bị bắt đã được ông Đại Nguyên Soái Stalin dùng thủ đoạn bẩn thỉu là xóa sạch tên tuổi họ khỏi các văn bản, tranh ảnh… như họ chưa hề tồn tại trong xã hội Xô Viết!!! Nguy hiểm nhất là làm thiếu hụt đi các tướng lĩnh tài giỏi, các sỹ quan có kinh nghiệm chỉ huy chiến đấu khi chiến tranh thế giới lần thứ II sắp bùng nổ, Phát xít Đức đang ráo riết chuẩn bị tấn công là Liên Xô.

Ngày 10 tháng 9 năm 1939 Đức tấn công Ba Lan mở đầu cho chiến tranh thế giới lần thứ II. Đức huy động toàn bộ tiềm lực chiến tranh của Đức và các nước Tây Âu bị Đức chiếm để chuẩn bị đánh Liên Xô thì “thiên tài kiệt xuất của nhân loại” như người ta đã ca ngợi Stalin, lại vẫn mơ màng và hy vọng vào khả năm ngoại giao để trì hoãn chiến tranh với Đức. Những cuộc thanh trừng tàn bạo của Stalin đã làm mất đi những tướng lĩnh tài giỏi của Liên Xô như Tukhasevxki, Bluikhe… rất cần cho chiến tranh giữ nước. Nguyên soái Vaxilexki đã viết: “Vì muốn trì hoãn thời gian chiến tranh nên Stalin đã đánh giá quá cao khả năng dùng ngoại giao để giải quyết nhiệm vụ ấy… đó là một thiếu sót hết sức nghiêm trọng về mặt chính trị của Stalin. Và do không kịp thời được đặt mình vào trình trạng sẵn sàng chiến đấu nên các lực lượng vũ trang Liên Xô khi xông vào trận chiến với bọn xâm lược đã phải ở trong những điều kiện rất bất lợi hơn nhiều và bắt buộc vừa đánh vừa rút lui vào trung tâm đất nước” (Sự nghiệp cả cuộc đời, Hồi ký quân sự, Nhà xuất bản Tiến Bộ, Mátxcơva, 1984, trang 28 – 32). Những thước phim, những bức tranh sau này đã mô tả những trận chiến không cân sức, nhưng cực kỳ anh dũng của các chiến sỹ biên phòng Liên Xô khi bị quân Đức bất ngờ ồ ạt tấn công. Có những đồn biên phòng của Liên Xô đã hy sinh 100% chỉ huy và chiến sỹ. Nhờ những hy sinh to lớn này mà các cuộc hành quân tưởng là chớp nhoáng của quân Đức bị chậm. Trong Hồi ức “Nhớ lại và suy nghĩ” của nguyên soái Zhukov, tác gải cũng phải “thú nhận”: “Stalin là một người cương nghị, như phương ngôn nói, không phải là người non gan. Chỉ một lần tôi thấy Stalin hơi bàng hoàng, đó là vào ngày 22 tháng 6 năm 1941: lòng tin tưởng của Stalin vào khả năng tránh được chiến tranh sụp đổ. (Trang 407 – Nhà xuất bản QĐND. Hà Nội 2001 in lần thứ 3). Trong một đoạn khác Zhukov viết: “Nếu bộ đội các quân khu biên giới được lệnh sẵn sàng chiến đấu hoàn toàn từ trước thì có thể gây cho địch tổn thất lớn hơn nữa ngay trong những ngày đầu chiến tranh, có thể kìm hãm chúng lâu hơn trên các tuyến phòng ngự phía tây. Nếu làm được như thế thì việc ra quân của các đơn vị từ các quân khu nội địa sẽ có tổ chức hơn (trang 590).

Ngày 22 tháng 6 năm 1941, Phát xít Đức bội ước xé bỏ hiệp ước không tấn công, cho ra quân một lúc 190 sư đoàn được trang bị tốt, 4900 máy bay, 3.712 xe tăng với 5,5 triệu quân. Một đạo quân như thế, lại đánh bất ngờ! Nhưng chúng đã thất bại. Chỉ có thể giải thích nguyên nhân chiến thắng của quân dân Xô Viết như Zhukov viết khi quân Đức tổng tiến công vào Mát-xcơ-va tháng 11 năm 1941: “Chính 1 triệu tên lính Phát xít tinh nhuệ đã vấp phải tinh thần vững như thép, lòng dũng cảm và khí phách anh hùng của các chiến sỹ Xô Viết có sự hậu thuẫn của nhân dân, của Thủ đô và Tổ Quốc.” (trang 522). Một nguyên nhân rất quan trọng nữa là nền công nghiệp quốc phòng hùng mạnh của Liên Xô lúc đó, đã cung cấp đầy đủ vũ khí cho quân đội. “chỉ tính từ ngày 1 tháng giêng năm 1939 đến ngày 22 tháng sáu năm 1941, Hồng quân đã nhận được của ngành công nghiệp 17.745 máy bay chiến đấu, trong đó có 3.719 chiếc thuộc loại mới” (Hồi ức Zhukov – trang 308). Thời tiết khắc nghiệt mùa đông nước Nga cũng góp phần “đánh” bọn phát xít. Để chống trọi với cái rét khủng khiếp, bọn lính Đức đã phải cướp quần áo của nhân dân để mặc và đi trong “những đôi giầy cao cổ kỳ qoái tự làm bằng rơm!!!” (Zhukov). Thật thiếu sót nếu không nói đến tài thao lược của các tướng lĩnh Liên Xô như Va-xi lepxki, Ma-lư-sép, Vatutin, Sapôsnicôp, Timôsencô… và tiêu biểu là phó tổng tư lệnh tối cao Zhukov…. Vậy mà, sau khi kết thúc chiến tranh, mọi công lao giữ nước đã được dồn hết mọi vinh quang cho “Đại nguyên soái” Stalin!

Stalin còn ra lệnh sử bắn hàng ngàn sỹ quan Balan bị bắt trong thế chiến thứ 2 khi Liên Xô cùng Đức quốc xã tấn công Balan. Năm 1990 Nga đã công nhận sự thật đó. Chiến thắng của Hồng Quân Liên Xô đánh bật phát xít Đức ra khỏi bờ cõi, truy đuổi chúng đến tận sào huyệt Berlin, không chỉ là chiến thắng của cuộc chiến tranh giữ nước vì đại mà nó là chiến thắng mang tầm vóc thời đại. Đội xung kích hung hãn nhất của chủ nghĩa đế quốc đã bị đập nát, sau chiến thắng ấy ở các nước thuộc địa và nữa thuộc địa phong trào giải phóng dân tộc dâng lên mạnh mẽ và giành được thắng lợi liên tiếp. Cách mạng Tháng tám ở Việt Nam thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “được như thế là nhờ sự thắng lợi vĩ đại của Hồng Quân Liên Xô, đã đánh bại phát xít Nhật” (Hồ Chí Minh – Tuyển tập, NXB Sự thật 1961. Trang 356).

Cái giá mà nhân dân Xô Viết đã phải trả cho sự nghiệp chiến thắng phát xít là quá lớn: 20 triệu người đã hy sinh, hàng trăm thành phố, 70 nghìn ngôi làng, 32 nghìn xí nghiệp bị phá hủy. Trong lịch sử nhân loại, chưa có nước nào chịu tổn thất nặng nề như thế vì chiến tranh. Trong chiến tranh, mọi người dân Xô Viết đã xiết chặt hàng ngũ thành một thành lũy kiên cố, họ chỉ có một ý chí quyết chiến thắng, những sai lầm ban đầu được bỏ qua. Chính Stalin trong một bửa tiệc mừng chiến thắng ở Matxcơva ngày 24-5-1945 đã phải thú nhận: “Chính phủ chúng tôi đã phạm không ít sai lầm, có những thời điểm, như từ năm 1941 đến 1942, tình huống thật tuyệt vọng. Một nhân dân khác hẳn đã có thể nói với chính phủ mình: các anh không xứng đáng để chúng tôi trông đợi, các anh hãy rút lui đi…” (Liên Xô – 70 năm trên đường khai phá – Nguyễn Khắc Viện – NXB Tổng hợp Phú Khánh – 1987 – trang 47). Đáng tiếc là đánh lẽ phải rút ra những bài học cay đắng để coi trọng hơn nữa vai trò lịch sử của nhân dân thì tệ sùng bái cá nhân Stalin lại được phát triển cao hơn nữa sau chiến tranh. Hãy nhắc lại ở đây những lời tung hô cuồng nhiệt nhất mà cả bộ máy tuyên truyền khổng lồ của chế độ độc tài toàn trị đã dành cho Stalin:   “Người cha của Tổ Quốc”, “nhạc trưởng của khoa học”, “thiên tài kiệt xuất của nhân loại”, “kiến trúc sư của chủ nghĩa cộng sản”, “người trông nom hạnh phúc của loài người.”… Lố bịch đến mức nhiều bức tranh và tượng ở nơi công cộng thường minh họa Stalin rất cao, ngang với Nga hoàng Aleksander III, trong khi thực tế ông chỉ cao khoảng 165 – 168cm!!!

Chính nhân dân Liên Xô đã tung hô cái đầu mối làm nên mọi thống khổ của mình!!!

Với niềm hân hoan sau chiến thắng giữ nước, nhân dân Liên Xô bằng lao động hết sức gian khổ đã băng bó những thương tích chiến tranh trong một thời gian ngắn nhất của kế hoạch 5 năm lần thứ 4 (1945-1950). Hàng vạn km đường sắt, hàng trăm thành phố, hàng vạn ngôi làng, hàng ngàn xí nghiệp đã được khôi phục. Hệ thống thương nghiệp quốc danh và hợp tác xã trở lại hoạt động bình thường. Cải cách tiền tệ được thực hiện. Đời sống của nhân dân Liên Xô được cải thiện vững chắc. Kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1950-1955) được hoàn thành trong 4 năm 4 tháng. Sản xuất công nghiệp của Liên Xô bằng 220% so với trước chiến tranh và tăn 95% so với năm 1950. Hàng loạt công trình mới ra đời. Trong lĩnh vực quốc phòng Liên Xô đã làm mất độc quyền của Mỹ về vũ khí nguyên tử. Sau này, trong công cuộc cải tổ Goocbachốp đã nhận định về giai đoạn sau chiến tranh và phục hồi kinh tế ấy bằng câu nói rất hình ảnh: “Mỗi ngôi nhà chứa một nỗi buồn, các thành phố mọc lên trên những đống tro tàn. Bao vây kinh tế. Chiến tranh lạnh. Nhưng chúng ta đã không gục xuống. Chúng ta đã lại đứng thẳng người dậy và đi lên đến tận vũ trụ.” (Người cộng sản, số 4, 1987, trang 24).

Nhưng cũng như trước đó, những kỳ tích trong phục hồi sau chiến tranh, xây dựng kinh tế lại đẩy tệ sùng bái cá nhân Stalin lên đến đỉnh cao nhất. Nhiều người lao động bình thường đã bị bắt một cách phổ biến, tùy tiện. Vụ 15 bác sỹ ở Leningrat bị vu cáo là mưu sát các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự là một điển hình. Đến lúc này thì Stalin không chỉ là người có tiếng nói cuối cùng trong lĩnh vực chính trị quân sự mà còn là người có tiếng nói cuối cùng, là “đỉnh cao nhất” trong cả các lĩnh vực khoa học như ngôn ngữ học, chính trị, kinh tế học, sinh học,…tất cả những tiếng nói ngược với ý kiến của Stalin điều bị coi là phản động, tư sản… các nhà khoa học trong lĩnh vực di truyền học, điều khiển học bị khủng bố. Chính Stalin là người đã kéo lùi nền nông nghiệp Liên Xô lạc hậu so với Phương Tây hàng chục năm bằng phủ nhận thuyết di truyền trong sinh học!

Không khí xã hội vô cùng ngột ngạt, bộ máy lãnh đạo tập trung quá mức cùng với tệ sùng bái cá nhân đã kìm hãm xã hội, tạo mâu thuẫn lớn giữa lãnh đạo và quần chúng nhân dân.

Ngày 5 tháng 3 năm 1953, Stalin mất.

Từ một cánh rừng nhiệt đới Châu Á xa xôi (Việt bắc), nhà thơ Việt Nam Tố Hữu viết:

Yêu biết mấy, nghe con tập nói

Tiếng đầu lòng con gọi Stalin!

Hôm qua loa gọi ngoài đồng

Tiếng loa xé ruột xé lòng biết bao

Làng trên xóm dưới xôn xao

Làm sao, Ông đã… làm sao, mất rồi!

Ông Stalin ơi, Ông Stalin ơi!

Hỡi ơi, Ông mất! Đất trời còn không?

Thương cha, thương mẹ, thường chồng

Thương mình thương một, thương Ông thương mười!

(Trích “Đời đời nhớ ông” – 1953)

Trong những lần xuất bản tuyển tập thơ Tố Hữu sau này, bài thơ dài” Đời đời nhớ ông” với đoạn trích dẫn trên không thấy xuất hiện nữa (!).

Sau khi Stalin qua đời, chính trường Liên Xô nhiều xáo trộn. Malencốp giữ cương vị lãnh đạo Đảng và sau đó được cử làm chủ tịch hội đồng bộ trưởng Liên Xô. Bêria tập trung cả Bộ nội vụ và cơ quan an ninh trong tay. Ngày 14-3 năm đó, Hội nghị TW Đảng cử Khơrutsốp và Xuxlốp vào Ban bí thư, Malencôp thôi giữ chức Bí thư ủy ban TW Đảng nhà nước ân xá một số tù chính trị, 15 bác sỹ trong vụ “Áo choàng trắng” được tự do. Hạ giá một số mặt hàng. Các vụ trấn áp của cơ quan an ninh trước đây bị chính thức lên án. Tháng 6-1953 việc chống tệ sùng bái cá nhân được đặt ra một cách công khai, Bêria bị bắt và bị xử bắn. Tháng 9-1953 Khơrutsôp được Hội nghị TW Đảng cử làm Bí thư nhất của Đảng CS Liên Xô. Trên cương vị này, Khơrutsôp đã có những cải tiến sự lãnh đạo của Đảng về đối nội và đối ngoại.

Tại Đại hội lần thứ 20 vào tháng 2-1956, Khơrutsôp đã đọc văn bản báo cáo lịch sử, vạch ra những sai lầm với tinh thần tự phê dũng cảm của Đảng, hướng tiến mới của Đảng và xã hội Xô Viết. Trong một phiên họp kín, Khơrutsôp đã đọc bản báo cáo “Về tệ sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó”. Đại hội thông qua nghị quyết về tệ sùng bái cá nhân Stalin, khắc phục những phương pháp lãnh đạo hành chính quan liêu của Đảng. Một kế hoạch 5 năm mới được thông qua (1956 – 1960), với chỉ tiêu tăng sản xuất công nghiệp 55% so với năm 1955, tức là gấp 4 lần so với năm 1940, tăng nhanh sản xuất nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Đại hội đã tuyên bố có thể ngăn ngừa được chiến tranh thế giới, chiến tranh không phải là định mệnh. Chủ trương cùng tồn tại, chung sống hòa bình, con đường tiến lên CNXH ở các nước mang những hình thức khác nhau, bạo lực và không bạo lực. Đại hội 20 thổi một luồng gió mới vào xã hội Xô Viết sau những năm ngột ngạt. Đại hội cũng thổi một luồng gió mới vào phong trào quốc tế cộng sản. Sau đại hội lần 20 nhà nước Xô Viết đã tiến hành những cải tổ rộng lớn. Sức sáng tạo của nhân nhân được giải phóng, khởi dậy mạnh mẽ. Liên Xô đã tiến tới những đỉnh cao trong phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật. Tiêu biểu nhất là phóng vệ tinh nhân tạo vào tháng 10-1957. Phóng người du hành vũ trụ đầu tiên trên thế giới (tháng 4-1961).

Tháng 1-1959 Đại hội lần thứ 21 của Đảng CSLX đã tuyên bố, chủ nghĩa xã hội đã thắng lợi hoàn toàn và triệt để ở Liên Xô. Kế hoạch 7 năm được thông qua (1959-1965) để xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa cộng sản.

Thời kì đó, như nhà Xô Viết học Nguyễn Kiến Giang của Việt Nam, người có mặt ở Liên Xô những năm tháng đó, sau này nhớ lại và đã tâm sự: Trong không khí xã hội cởi mở, khi đưa được Gagarin lên vũ trụ, người Xô Viết có tâm lý say xưa, người ta dường như đã bắt đầu sờ thấy được… ngày mai cộng sản, như sắp sờ thấy được… mặt trăng (!)

Nhưng sự việc không đơn giản, thực tế diễn ra khắc nghiệt nhiều hơn so với mong đợi của nhân dân. Cuộc đấu tranh để thay đổi trạng thái xã hội theo chiều hướng mới đã vấp phải sức kháng cự quyết liệt và dai dẳng của những thế lực bảo thủ và quan liêu trong bộ máy Đảng và nhà nước.

Những kẻ quen sống đặc quyền đặc lợi về cả vật chất và tinh thần, những kẻ núp bóng tệ sùng bái cá nhân bị những cải cách đụng chạm trực tiếp. Sau một thời gian co lại, họ đã lợi dụng những nhược điểm và sai lầm của những người lãnh đạo mới, mà trước hết là của Khơrutsôp để phản kích. Trong khi phá cái cũ, Khơrutsôp đã không đề ra được những giải pháp mới đúng đắn, nóng vội và duy ý chí. Ví dụ như áp đặt việc thay đổi cơ cấu nông nghiệp, chia tổ chức đảng ở các cấp thành hai bộ phận khác nhau: công nghiệp và nông nghiệp. Trong khi phá vỡ các cũ, lại dùng những biện pháp cũ, như khai trừ nhà thơ lớn của đất nước là Paxtecnăc ra khỏi hội nhà văn vì viết cuốn bác sỹ Givago, đề cao vai trò của Luxencô trong lĩnh vực nông học ..v..v..v và ..v..v.. Dưới chiêu bài “chống chủ nghĩa xét lại ở Liên Xô”, họ đả kích tất cả những chủ trương đối nội và đối ngoại của Liên Xô, chia rẽ phong trào cộng sản quốc tế ..v..v.. chúng gây ra những cuộc khủng hoảng quốc tế mà sự kiện vùng Caribê tháng 10 năm 1962 đặt thế giới bên bờ chiến tranh hạt nhân là một ví dụ điển hình.

Trong hoàn cảnh hết sức phức tạp ấy, quá trình dân chủ hóa do đại hội 20 đề xướng bị chặn đứng. Tháng 10-1964 hội nghị Trung ương đảng Cộng sản Liên Xô đã phê phán cái gọi là “chủ nghĩa chủ quan duy ý chí”, gạt Khơrutsôp ra khỏi chức vụ bí thư thứ nhất và đưa Brêgiơnep lên thay. Lịch sử Liên Xô lại chuyển sang một thời kỳ phức tạp mới.

20 năm cầm quyền của Brêgiơnep là 20 năm trì trệ mà “cơ chế kìm hãm” chiếm ưu thế. Từ sau khi Khơrutsôp bị gạt khỏi chức vụ bí thư thứ nhất, Liên Xô bị giằng xe giữa hai xu thế đối lập nhau mà xu thế quan liêu bảo thủ thắng thế. Bọn quan liêu bảo thủ xuất hiện và cũng cố địa vị, thế lực từ trên xuống dưới, từ cao đến thấp, chúng dung dưỡng bọn tham nhũng, thói bịp bợm, nạn nghiện ngập thâm nhập cả vào giới lãnh đạo cao cấp. Trong công tác cán bộ, sự đề bạt theo nguyên tắc trung thành với cá nhân. Khuyến khích thói xu nịnh và tâng bốc, tách rời nói là làm. Trong xã hội xuất hiện tâm lý tiêu dùng, “sùng bái cái tầm thường”. Quần chúng chán nản, thờ ơ với mọi thứ. Có thể nói, dưới triều đại Brêgiơnep, xã hội Liên Xô “tan rã về đạo đức.”! Về năng lực sản xuất, sự phát triển theo chiều rộng bị cạn kiệt. Chi phí sản xuất ngày một tăng mà hiệu quả ngày một thấp. Xã hội Liên Xô không vượt qua được sự trì trệ và đình đốn.

Ngày 7-11-1982 theo thường lệ, Matxcơva tổ chức diễn binh kỷ niệm CM Tháng Mười. Brêgiơnep cùng các lãnh đạo đứng trên lễ đài vẫy tay chào quần chúng. Ba ngày sau Brêgiơnep chết. Mấy ngày sau nhân dân hân hoan đoán nhận tin Anđropop được cử làm tổng bí thư mới của đảng. Những yêu cầu đổi mới CNXH ở Liên Xô đã trở nên chín muồi, vì vậy những người cộng sản Liên Xô hân hoan khi TBT mới Anđropop tuyên bố khi nhận chức: “Từ rất lâu chúng ta đã quen bằng lòng với những biện pháp nữa vời – bây giờ là lúc phải giành lại những thời gian đã mất”. Anđropop bắt tay vào những công việc cải cách với một nghi lực hiếm thấy. Bắt đầu là lập lại kỷ cương trong lao động, chặn đứng tình trạng tham nhũng đang lan rộng, hoàn thiện và cải tổ cơ cấu kinh tế,… Một số lãnh đạo từ cơ sở đến cao cấp bị thay thế. Xã hội Xô Viết bắt đầu rung chuyển…

Nhưng ngày 9-2-1984 Anđropop từ trần trong sự bàng hoàng của nhân dân Xô Viết.

Trecnenkhô được cử lên thay thế. Cái đà khởi động dưới thời Anđropop “dần dần chựng lại” nhưng nhận xét của một nhà quan sát nước ngoài.

Ngày 10-3-1985 Trecnenkhô mất!

Goocbachôp, người trẻ nhất trong Bộ chính trị (54 tuổi) được cử lên thay. “kỷ nguyên Goocbachôp” bắt đầu.

Ngày 23-4-1985, tức chỉ ít ngày sau khi lên nắm quyền Goocbachôp triệu tập hội nghị Ủy ban trung ương đảng, một hội nghị được coi là một bước ngoặt lớn trong lịch sử Liên Xô. Tại hội nghị đó, Goocbachôp đề ra chiến lược phát triển xã hội và kinh tế, được gọi là “chiến lược gia tốc”.

Từ đó đến lúc Liên Xô tan rã, Goocbachôp đọc diễn văn 7 phút trên truyền hình từ chức, công cuộc cải tổ, đổi mới ở Liên Xô đã diễn ra như thế nào thì tất cả chúng ta, những người Việt Nam và nhân loại tiến bộ đã thấy và đã không biết bao nhiêu tranh cãi, bao nhiêu bút mực đã đổ ra để lý giải về sự sụp đổ, tan rã của “đế quốc” Liên Xô.

Đó cũng là mục đích chính của bài viết này – nhân 100 năm ngày “rung chuyển thế giới”. (7/11/1917 – 7/11/2017)

III) Những gì mắt thấy tai nghe

May mắn cho người viết là được có mặt ở Liên Xô đầu năm 1991 trong một chuyến đi “công tác” được chứng kiến tận mắt, nghe tận tai, do các bạn Nga trong ban Tiếng Việt của Đài Phát thanh đối ngoại Liên Xô nói tiếng Việt rất thạo, nói về tình hình Liên Xô lúc đó. Tức tình hình Liên Xô lúc gây cấn nhất và chỉ vài tháng sau, Liên Xô tan rã. Sở dĩ tôi đặt chữ “công tác” trong dấu nháy (“”) vì thực chất là đi chơi, nói đi công tác để cho oai mà thôi (!) hai nước với danh nghĩa trao đổi phóng viên, hàng năm có những cuộc giao lưu. Lúc vui vẻ thì người ta đi hết rồi, nay mới đến lượt tôi, kẻ thường trú tận mãi đồng bằng Sông Cửu Long xa xôi.

Từ TP.HCM, tôi ra Hà Nội và nằm chờ máy bay để đi Matxcơva. Gia đình, bạn bè trong giới báo chí văn nghệ, ai cũng ái ngại cho tôi. Vì lúc đó Liên Xô rất khổ, cái gì cũng thiếu thốn, còn thiếu thốn và “nghèo” hơn cả Việt Nam lúc đó! Có bạn thật thà hỏi tôi: Nghe nói ông ở trong ấy, viết lách cũng được, bài gửi ra, Đài phát thanh liên tục, báo Nhân dân đăng liên tục, vậy mà sao người ta lại kỷ luật đầy ông đi Liên Xô lúc này?! Trước lúc bay, tôi lên Bộ Thủy sản gặp Bộ Trưởng Nguyễn Tấn Trịnh. Ông Trịnh cho tôi 10 chai Lúa mới, 10 cây thuốc lá Vinataba để làm quà cho các bạn trong Ban Tiếng Việt Đài Mátxcơva. Ông Trịnh còn viết cho tôi một lá thư bằng tiếng Nga gửi cho Bộ Trưởng Bộ nghề cá Liên Xô đề phòng có khó khăn gì thì tôi gặp Bộ trưởng nghề cá Liên Xô nhờ giúp đỡ. Sở dĩ có sự ưu ái này vì tôi tuy không ở trong ngành thủy sản nhưng được Bộ trao nhiều bằng khen và sau này còn trao “Huy chương vì sự nghiệp phát triển nghề cá”. Lúc đó ở Liên Xô Goocbachôp đang cấm rượu nên ông Bộ trưởng tặng “Lúa mới” Việt Nam là tâm lý lắm!

Vợ tôi mua cho tôi son phấn, bút kẻ lông mày… để tặng Irina, nữ trưởng ban Việt ngữ đài Mátxcơva. Cô em dâu họ mua hộ tôi 10 cái đồng hồ điện tử để “bán lấy tiền tiêu vặt”! Riêng tôi mua 2 bình hoa sơn mài Việt Nam và 10 cây viết “bic” Mỹ tặng Ban Việt ngữ đài Mát. Cái vali đi “công tác” của tôi nặng như cái cùm! Chỉ nhìn vào những thứ mà tôi mang đi Liên Xô, cũng đã nói lên sự khan hiếm hàng hóa ở Liên Xô lúc đó.

Mátxcơva tháng 3-1991, đi trên đường phố, lên xe buýt, xuống tàu điện ngầm thấy một không khí rất trầm uất. Người Nga nào mặt mũi cũng đăm chiêu, hình như trong đầu họ chứa chấp nung nấu, dồn nén một cái gì ghê gớm lắm. Không ai nói với ai một câu nào, không thấy một nụ cười nào trừ những nụ hôn say đắm của những cặp trai gái siết chặt lấy nhau dưới ga tàu điện ngầm! không khí xã hội oi bức như đêm trước của một ngày giông bão lớn hôm sau. Nhìn những bà già buồn bã xếp hàng mua dưa chuột muối, những người đàn ông Nga to lớn xếp hàng rồng rắn để mua những cái pin nhỏ bé cho chiếc đồng hồ điện tử đeo tay của mình. Tôi không khỏi ngậm ngùi cho số phận của nhân dân Xô Viết. Chính những bà cụ già kia là mẹ của những chiến sỹ Hồng quân đã hy sinh trong chiến tranh giữ nước vĩ đại. Chính những người công dân Nga to lớn đang xếp hàng mua pin cho chiếc đồng hồ điện tử của mình là những người đã bay lên vũ trụ đầu tiên trong lịch sử con người. Tôi hỏi một bạn trong ban Việt ngữ đài Mátxcơva thì được đồng nghiệp của tôi trả lời (bằng tiếng Việt): thời Brêgiơnep thì cái gì chúng tôi cũng có, nhưng chẳng bằng ai. Còn bây giờ cải tổ thì chẳng có cái gì cả!

Tôi muốn dừng ở đây để nói về cái vế “cái gì cũng có nhưng chẳng bằng ai”! Đúng là như thế. Tôi nhờ một đồng nghiệp là phóng viên nhiếp ảnh, và khó khăn lắm, anh mới mua hộ tôi một cái máy ảnh nhãn hiệu Zenit nổi tiếng của Liên Xô còn tương đối mới để làm kỉ niệm cho chuyến đi. Nhưng cái máy ảnh này không có đèn fax. Muốn chụp có đèn phải gắn cái đèn vào máy, và cái đèn fax đó, lại có dây điện để mỗi khi muốn chụp có đèn thì dùng dây cắm vào ổ điện. Mỗi khi di chuyển, phải rút ổ cắm ra, rồi lại cắm vào ổ khác mới chụp có đèn được! Làm được vệ tinh, vũ khí hạt nhân… nhưng hàng tiêu dùng cho nhân dân thì tồi tệ đến thế. Cái đồng hồ điện tử bấy giờ ở Hà Nội trẻ em đi học cũng có để đeo tay. Thế mà ở Mátxcơva lúc đó là thứ thời thượng với đàn ông Nga. Vì thế mới có cảnh xếp hàng rồng rắn để mua pin cho đồng hồ điện tử!!! Lúc đi, cái vali của Trần Kiên trưởng đoàn của tôi đã ắp những quần lót phụ nữ hàng Thái Lan. Ông Trưởng đoàn của tôi có vợ đang lao động làm thuê bên Nga nên ông đem sang cho vợ bán. Vì thế, khi Ban Tiếng Việt đài Mát mời tôi và Trần Kiên phát biểu cảm tưởng trên đài, tôi đã nói: Khi đi từ Hà Nội sang Mát, tôi thấy mọi người đều đem quần áo lót phụ nữ sang Liên Xô để bán. Điều đó chứng tỏ rằng, Liên Xô chỉ vĩ đại ở tầm vĩ mô, nhưng phần vi mô thì cái quần lót phụ nữ lại thiếu!!! (qua tấm kính phòng thu âm, tôi thấy các bạn Nga đều gật gù tán đồng). Nhưng khi tôi nói tiếp: Tôi tin là công cuộc cải tổ ở Liên Xô hiện nay sẽ khôi phục những nguyên tắc Lêninnít của CNXH… (nói đến đấy, tôi thấy mọi người bên ngoài đều lắc đầu, xua tay)!!!

Thì ra chính các bạn Nga, đã không tin gì công cuộc cải tổ sẽ đi đến đích. Có bạn còn hỏi tôi: Anh có biết vì sao LêNin là người nói đến dân chủ nhiều nhất ở Liên Xô không? Còn chưa biết trả lời thế nào, thì anh bạn đó đã nói: Vì có người thứ hai nói đến dân chủ thì đã bị ông ta đập đầu chết rồi! Chính người Nga đã chán ghét lãnh tụ của họ đến thế cơ mà! Thời gian ở Đài Mát, tôi còn được nghe rất nhiều giai thoại về CNXH ở Liên Xô, có thể thu gom để viết thành một cuốn sách “Tiếu lâm thời cộng sản”!

Tôi học thuộc mấy câu tiếng Nga. Lên xe buýt, tôi đứng ở đầu xe nói lớn: tôi là nhà báo Việt Nam, xin hỏi các bạn: Goocbachôp? Cả xe đều lắc đầu, xua tay. Tôi lại hỏi: Enxin? Mọi người gật đầu tán thưởng. Lúc đó nhân dân đã chán Goocbachôp vì đời sống quá khó khăn và lại trông đợi vào Enxin.

Ở các cuộc biểu tình, người ta trưng biểu ngữ: Enxin là nước Nga!

Sắp đến ngày về Irina hỏi tôi: thế anh Phú Khải không định tìm hiểu cái gì à? Sở dĩ Irina hỏi thế vì ngày làm việc đầu tiên, Irina hỏi về các yêu cầu tìm hiểu của đoàn. Trưởng đoàn Trần Kiên nói một thôi. Irina ghi chép đầy đủ. Đến lượt tôi, tôi trả lời: Chẳng tìm hiểu cái gì cả! Irina hỏi tại sao? Tôi nói: Đi máy bay của hãng Liên Xô Airoflôt thấy các cô tiếp viên đẹp như sao trên trời, sang đây thấy nhà cao cửa rộng, ga tàu điện ngầm như cung điện… là tìm hiểu rồi chứ còn gì nữa!

Mọi người đã cười vui vẻ! Nhưng lúc này thấy Irina thật tình, tôi mới nói: Có định tìm hiểu, nhưng khó lắm! Chị tiếp lời: thì anh Phú Khai cứ nói đi. Tôi trình bày rằng, muốn gặp một trí thức hàng đầu ở Mátxcơva để tìm hiểu về công cuộc cải tổ đang diễn ra đầy kịch tính ở Liên Xô, mà người phiên dịch phải là Irina! Tôi không ngờ chị cười và nói ngay: Dễ thôi, đi ngay bây giờ! Lên đến xe rồi, Irina bảo: Em đưa anh đi gặp viện sỹ, giáo sư X, người đang là Trưởng ban cải cách Hiến pháp Liên Xô. Đến lúc này thì tôi hoàn toàn bị Irina thuyết phục. Đúng như người ta đã ca ngợi chị là người xông xáo, là một nhà báo toàn năng, một nhà “Việt Nam học”, chị vừa là Trưởng ban Việt ngữ, vừa là nhà phát thanh viên Tiếng Việt số 1 của Ban Việt Ngữ. Cặp đôi phát thanh viên Trần Phương giọng Nam bộ, Irina giọng Hà Nội đã thu hút được người nghe đài đối ngoại Mátxcơva. Bà con nghe đài ở Chợ lớn TP.HCM đã mê giọng phát thanh viên Irina và Trần Phương nên đã mời Irina sang TP.HCM đến 17 lần.

Ở Ban Việt Ngữ đài Mát có hai nữ là Irina và Tanhia. Tanhia bố người Nga, mẹ người Việt, dân Bến Tre. Bố Tanhia đi lính lê dương Pháp, chạy sang hàng ngũ Việt Nam và lấy vợ Bến Tre. Đến khi Tanhia hơn 10 tuổi mới theo cha về Nga, nhưng Tanhia nói tiếng Việt và hiểu tiếng Việt kém Irina xa. Ngồi trên xe, tôi mừng thầm là chuyến đi này đã đạt mục đích ở ngày cuối cùng. Duy có cái tên ngài viện sỹ dài như cầu Long Biên thì tôi không thể nhớ nổi! Tôi chào ông viện sỹ có vẻ bề ngoài rất quắc thước này bằng tiếng Pháp. Ông đứng hẳng dậy bắt tay tôi và lại ngồi xuống cái ghế bành bề thế. Irina giới thiệu tôi với ngài, tôi không hiểu nàng đã nói những gì mà lâu đến thế (!) Sau đó giục tôi: Anh hỏi đi. Tôi hỏi: Thưa ông viện sỹ, chúng tôi thường đọc sách và thấy Lênin nói, nền dân chủ XHCN ở Liên Xô gấp triệu lần nền dân chủ ở các nước tư bản. Vậy bây giờ Liên Xô cải cách hiến pháp là dựa trên nguyên tắc, nguyên lý nào? Irina dịch và ngài viện sỹ trả lời qua dịch của chị: Chúng tôi đang nghiên cứu Montesquieur! Tôi nghe xong câu ấy thì đứng lên, cúi đầu rất thấp để cám ơn và chào ngài viện sỹ đáng kính này và nói với Irina: Thôi, thế là đã rõ. Chúng ta về thôi.

Ra đến cửa, tôi bảo với Irina: Vậy là quay lại thế kỷ 18 để thực hiện tam quyền phân lập. Chúng ta đã đi lộn đường mất hai thế kỷ rồi! Irina không nói gì cả. Lúc vào thang máy tôi nói: Việt Nam đi theo Liên Xô nên mới khổ thế này. Irina than: Thì nước Nga chúng em cũng đang rên xiết chứ sung sướng gì! Tôi lại bất ngờ vì từ “rên xiết” của chị. Đến một cô gái Hà Nội chính cống cũng không chọn được từ “rên xiết” chỉ cái tình cảnh nước Nga lúc này! Nhưng Irina lại đưa tôi đi tiếp, vì theo chị, còn nhiều thời gian. Đến một ngôi nhà cao tầng trong một khu phố không lấy gì là sang trọng, chị bảo tôi: Em đưa anh đi gặp Tổng Bí thư của một đảng đối lập, tầng lầu mà chúng ta sắp lên là chính Đảng Cộng sản thuê cho đảng đối lập này làm trụ sở. Vậy là tôi lại hiểu thêm một “kênh” chính trị nữa ở Liên Xô lúc đó.

Tổng bí thư đảng đối lập là một người đàn ông trung niên tầm thước, gương mặt hiền hòa nhưng có đôi mắt rất sáng. Trong cuộc trao đổi với ông, tôi nhớ hai câu nói đầy ấn tượng của chính trị gia tuổi trung niên này. Câu thứ nhất nói về Liên Xô: Liên Xô chúng tôi là một cái chiến hạm mắc cạn còn Việt Nam là một chiếc thuyền thúng không biết trôi dạt về đâu (!) Câu thứ hai nói về xã hội Xô Viết: Thằng I-Van nó không có gì cả thì nó không thể nên người được. Nó phải có gia sản thì mới nên người. (I-Van là cách nói tượng trưng chỉ người đàn ông Nga, như người Việt nói: anh Ất, anh Giáp – LPK). Khi chỉ còn tôi và Irina trong thang máy, chị lấy tay gỡ cái huy hiệu biểu tượng của đảng đối lập mà ông Tổng Bí thư vừa gắn lên ngực áo tôi để làm kỷ niệm, vừa gỡ vừa nói: Em tịch thu của anh cái huy hiệu này!

Về đến Đài, để ăn mừng thắng lợi của buổi sáng, tôi lấy từ túi xách ra chai Lúa mới, khao các bạn Nga. “Lúa mới” Việt Nam tại Nga rất được ưa thích. Một lần vợ trưởng đoàn Trần Kiên đưa đến một bạn hàng của chị là một người đàn ông Nga. Tôi cũng mời anh ta một ly cối Lúa mới. Anh ta làm một hơi hết sạch, chùi ria mép, rồi ba hoa: “Nước Nga của chúng tao bao giờ cũng là một cái làng lớn đầy hủ tục (!)” Người Nga thật thà như một tảng đá, không che dấu cái sức ỳ của chính mình!!!

Khi chúng tôi rời Liên Xô về Hà Nội, “kết thúc tốt đẹp chuyến công tác” thì các nước cộng hòa vùng Bantích đang biểu tình đòi ly khai khỏi Liên Bang Xô Viết.

Không tiễn chúng tôi được, Irina gửi cho tôi một là thứ ngắn. Tôi không ngờ chữ của chị đẹp như thế (xem bút tích của Irina).

Ảnh 1: Tác giả trên cầu Mátxcơva (1991). Nguồn: Lê Phú Khải

Ảnh 2: Tác giả với các bạn Nga (1991). Nguồn: Lê Phú Khải

Ảnh 3: Biểu tình ở Mátxcơva với biểu ngữ “Enxin là nước Nga”. Nguồn: Lê Phú Khải

Ảnh 4: Tanhia và Irina (phải) (1991). Nguồn: Lê Phú Khải

Ảnh 5: Bút tích của Irina (1991). Nguồn: Lê Phú Khải

Về đến Hà Nội, gặp tù nhân vụ án Xét lại năm xưa Nguyễn Kiến Giang, ông khen bài phát biểu của tôi trên Đài Matxccơva là “được”! Đến báo Nhân Dân, nhà báo Hữu Thọ biết tôi mới đi Liên Xô về dặn: Cậu đừng viết chửi Goocbachôp, người ta là nguyên thủ quốc gia, sẽ không có lợi cho ngoại giao hai nước. Tôi vừa đi Bắc Triều Tiên về. Kim Hạnh Tổng biên tập Tuổi Trẻ cũng đi, về đã viết bài chửi Triều Tiên, sứ quan người ta đang kiện mình kia kìa! Về đến thành phố bên sông Tiền nơi tôi đang thường trú vùng đồng bằng Sông Cửu Long, phó tổng biên tập báo địa phương là anh KT cũng nói nghe được bài phát biểu của tôi trên đài Mát. Lúc đó, trí thức Việt Nam quan tâm đến thời cuộc theo dõi tình hình diễn biến ở Liên Xô rất chặt chẽ qua chương trình phát thanh tiếng Việt của Liên Xô.

Ảnh 6: Nhà Xô Viết học Nguyễn Kiến Giang (trái) và tác giả. Ảnh chụp năm 2003. Nguồn: Lê Phú Khải

Ảnh 7: Tượng Nguyễn Kiến Giang, do điêu khắc gia Phạm Văn Hạng thực hiện. Nguồn: Lê Phú Khải

IV) Thử lý giải

Một buổi sáng đẹp trời cuối tháng 8 năm 1991, tôi đang ngồi làm việc tại nhà riêng, nơi tôi thường trú tại TP.Mỹ Tho bên bờ sông Tiền êm ả, một người lao xe máy vào sân nhà, hối hả đưa tin về cuộc đảo chính Goocbachôp ở Liên Xô. Anh ta là một cán bộ của văn phòng ủy ban tỉnh. Anh cho biết, thường vụ tỉnh ủy đã cho dắt 1 con bò về buộc ở trụ sở tỉnh ủy. Đợi đến chiều nay (21-8-1991) Goocbachôp bị bắt thì sẽ mổ bò ăn mừng (!) Anh hỏi ý kiến tôi, một nhà báo mới đi Liên Xô về, liệu Goocbachôp có bị bắt không? Tôi trả lời dứt khoát: Chiều nay sẻ thả bò ra!

Chiều tối hôm đó căn nhà nhỏ của tôi ngồi trật cứng các vị, tạm gọi là trí thức của tỉnh. Mọi người hỏi tôi vì sao nhà báo lại trả lời một cách chắc mẩm như định đóng cột là “chiều nay sẽ thả bò”?!

Tôi phân giải: Đầu năm tôi có ở Liên Xô và đã thấy tận mắt, nghe tận tai người Xô Viết đã chán ngán chủ nghĩa XH như thế nào. Tôi đã nhìn thấy những sỹ quan và binh lính đứng gác trên quảng trường đỏ Mátxcơva vẻ chán trường đến tột độ. Họ sẽ không bắn vào ai cả. Cho dù ông giám đóc KGB hay ông Bộ trưởng quốc phòng Liên Xô ra lệch cho họ. Bây giờ giữa người lính cầm súng và người chỉ huy cao nhất của họ không còn là một nữa. Vì thế cuộc đảo chính do Phó tổng thống Javanev, ông thủ tướng Palov, ông bộ trưởng quốc phòng YaRov, ông giám đốc KGB Kryuchkov ra tay thì cũng chẳng có ai nghe theo lệnh của “Ủy ban nhà nước về tình trạng khẩn cấp” do các ông ấy nặn ra cả. Vậy thôi, Liên Xô sụp đổ không phải do một cá nhân nào như Stalin độc tài mà nó sai từ những nguyên tắc tồn tại, nguyên tắc cai trị, nguyên tắc cấu trúc quyền lực. Tôi đưa ra nhận xét nôm na rằng, giống như người vợ đã quá chán chét người chồng của mình sau nhiều năm chung sống. Người vợ dù không biết tương lai sẽ ra sao, cuộc hôn nhân mới sẽ xấu hơn hay tốt hơn, nhưng rứt khoát phải ly dị, rứt khoát từ bỏ người chồng của mình. Rứt khoát. Tôi cảm nhận toàn thân điều đó nên mới trả lời rứt khoát: “chiều nay sẽ thả bò!!!” Mọi người đã ra về…

Ngày 20-8-1991; 5 vạn người Matxcơva đã tụ tập để bảo vệ nhà trắng Quốc hội Nga và văn phòng tổng thống Nga Boris Enxin. Một kế hoạch tấn công vào trụ sở quốc hội Nga của nhóm Anpha, lực lượng đặc nhiệm được trang bị vũ khí hạt nhân cầm tay của KGB bị hủy bỏ khi toàn bộ đội Anpha nhất trí từ chối lệnh. Một đơn vị xe tăng đã rời bỏ hàng ngũ chính phủ, đến bảo vệ quanh nhà quốc hội; chĩa tháp pháo ra ngoài. Tổng thống Nga Boris Yeltsin đã đứng trên một chiếc xe bên ngoài nhà trắng để chống lại cuộc đảo chính.

Ngày 22-8-1991, Goocbachôp đang bị giam lỏng ở khu nghỉ mát Krym đã về Matxcơva nắm lại quyền tổng thống và tuyên bố từ chức Tổng bí thư Đảng CS Liên Xô, yêu cầu Ban chấp hành TW đảng giải thể. Ngày 25-12-1991 Tổng thống Liên Xô Goocbachôp từ chức và bàn giao mật mã kích hoạt tên lửa hạt nhân của Xô Viết cho Tổng Thống Nga Boris Yeltsin vào 7 giờ 32 phút tối cùng ngày. Liên Xô chính thức chấm dứt tồn tại vào ngày 26-12-1991 bởi tuyên bố số 1420-H của Hội đồng tối cao Liên Bang Xô Viết công nhận quyền độc lập của 12 nước cộng hòa còn lại.

Liên Xô tan ra (sau 74 năm) đã khiến nhiều người cộng sản trên thế giới chết lặng trong đau đớn, bàng hoàng, trong đó có những người Cộng sản Việt Nam.

Nhiều người cộng sản Việt Nam, đặc biệt là những thành phần đặc quyền đặc lợi đã căm phẫn nói với tôi rằng, nếu gặp Goocbachôp thì sẽ… đâm chế ngay tên phản bội đó! Cả một dàn hợp xướng của giới lãnh đạo và tuyên huấn ở Việt Nam đã đồng ca sự “phản bội” của Goocbachôp! Chỉ có 1 người mà tôi biết – đã viết thành văn bản – quá trình tự sụp đổ của Liên Xô, đó là đại tá công an, nguyên cục trưởng cục nghiên cứu tổng hợp Bộ công an Việt Nam: Lê Hồng Hà.

Vì sao Liên Xô, siêu cường hạt nhân hàng đầu thế giới lại sụp đổ tan tành.

Đó là câu hỏi không dễ trả lời, cũng không khó với những người biết “lắng nghe tầm hồn mình” (NTB).

Trong phần mở đầu của Tuyên ngôn Cộng sản (1848) ở ngay chương I viết: Lịch sử tất cả các xã hội cho đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp.

Người tự do và người nô lệ, quý tộc và bình dân, chúa đất và nông nô, thợ cả của phường hội và thợ bạn, những kẻ áp bức và những người bị áp bức luôn đối kháng với nhau đã tiến hành một cuộc đấu tranh không ngừng, lúc ngấm ngầm lúc công khai, một cuộc đấu tranh bao giờ cũng kết thúc bằng một cuộc cải tạo cách mạng toàn bộ xã hội, hoặc bằng một cuộc diệt vong của cả hai giai cấp đấu tranh với nhau (TNCS.NXBST – 1983, trang 42, 43).

Ở đoạn kết Tuyên ngôn viết: Những người cộng sản không tự hạ mình mà đi giấu giếm những ý kiến và dự định của mình. Họ công khai tuyên bố rằng mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện có. Mặc cho giai cấp thống trị run sợ khi nghĩ đến một cuộc cách mạng Cộng sản Chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy những người cách mạng chẳng mất gì hết, ngoài siềng xích trói buộc họ. Trong cuộc cách mạng ấy, họ giành được cả một thế giới cho mình. Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại! (Sách đã dẫn trang 100)

Lênin sau này định nghĩa đấu tranh giai cấp là: cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống người hữu sản hay giai cấp tư sản.

Học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Marx đã trở thành kim chỉ nam là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc cách mạng Tháng 10 do Lênin lãnh đạo và những năm xây dựng XHCN Liên Xô.

Và, nó chỉ có thể tiến hành bằng “bạo lực” chống những người “hữu sản”… Liên tiếp những cuộc thanh trừng đẫm máu từ cách mạng Tháng 10 cho đến những năm dưới chính quyền Xô Viết đều được nhân danh vô sản chống hữu sản. Bây giờ đọc lại những tác phẩm văn học như “Đất vỡ hoang” của Sô lô khốp, “Một ngày dài hơn thế kỷ” của Ai ma tốp …v…v.. Người ta thấy không chỉ giai cấp tư sản, đại địa chủ mà cả những người phú nông (cu lắc) cần cù năng động chỉ vì có ít ruộng đất, tài sản để lao động kiếm sống mà trở thành kẻ thù của những người cộng sản. Số phận của họ vô cùng bi thảm trong công cuộc hợp tác hóa nông nghiệp. Bi kịch của CNCS là tư bản (nhà máy, xưởng thợ, ruộng đất) sau các cuộc đấu tranh giai cấp mà vô sản “giành được cả một thế giới cho mình” thì những người nhân danh nhà nước vô sản quản lí khối tài sản khổng lồ đó lại trở thành giai cấp đặc quyền đặc lợi thành tư bản đỏ, quý tộc đỏ, sử dụng bộ máy toàn trị để đàn áp nhân dân một cách bạo liệt nhất. Giai cấp tư sản quý tộc đỏ không hề có năng lực nâng cấp xã hội Xô Viết lên cấp độ văn minh. Nguyên nhân sâu xa là giai cấp vô sản nghèo khó và thất học khi có chính quyền rồi thì “bao nhiêu lợi quyền về tay mình” (Quốc tế ca) và chỉ có thế. Khác hẳn với cách mạng tư sản, tiêu biểu là cách mạng Pháp 1789 giai cấp tư sản đã hình thành và lớn mạnh, vua Louis 16 còn phải vay tiền của các chủ nhà băng để trang trải công nợ cho triều đình. Giai cấp tư sản Pháp chỉ dựa vào bạo lực của số đông nông dân để lật đổ bọn quý tộc và tăng lữ, sau đó họ đủ trí tuệ và bản lĩnh để nâng xã hội Pháp từ phong kiến lạc hậu lên xã hội công nghiệp văn minh.

Về tầng lớp tinh hoa mà bất cứ đất nước nào cũng cần có ánh sáng của nó dự báo và soi đường, xin nhắc lại lời của Sartre: Nếu ai chế ra quả bom nguyên tử thì người đó là Bác học nhưng không phải là trí thức. Chỉ khi nào người đó nhận ra cái xấu của bom nguyên tử và kêu gọi loại trừ nó, thì từ đó trở đi anh ta mới được gọi là trí thức.

Liên Xô là đất nước có nhiều nhà bác học nhất thế giới 1/4 các nhà bác học thế giới là của Liên Xô. Liên Xô có tiềm năng khoa học – kỹ thuật rất lớn, đã đạt đỉnh cao về vật lý hạt nhân, cơ học lượng tử, chinh phục vũ trụ… Đất nước có nhiều bác học nhất thế giới đó lại không có trí thức. Hay nói đúng hơn không có tầng lớp trí thức, không có tầng lớp tinh hoa có khả năng “đánh thức không cho xã hội ngủ” (CHT). Dưới chế độ độc tài, Liên Xô chỉ có một lớp người “thông minh béo tốt và dễ bảo” (Irina) để đảng sai khiến, “lãnh tụ thiên tài” dậy bảo. Josep Pulitzer, một ký giả danh tiếng của làng báo Hoa Kỳ đã nói về nghề ký giả như sau: “Một ký giả là một người canh chừng trên chiếc cầu của con thuyền nhà nước. Anh ghi nhận mỗi cánh buồm lướt qua, những dấu hiệu nhỏ nhoi, cần phải chú ý ở chân trời khi thời tiết còn tốt. Anh đứng tường thuật những cái gì đang nổi lềnh bềnh mà chiếc tàu có thể cứu vớt được. Anh xuất hiện qua sương mù và bão tố để dẫn đầu và báo trước những hiểm nguy… Anh đứng đó để canh chừng an ninh và hạnh phúc của nhân dân tín nhiệm ở nơi anh.” (Ký giả chuyên nghiệp – John Hohesnberg – Viện Đại học Columbia New York) Vai trò dẫn đầu và báo trước hiểm nguy của báo chí ở thế kỷ văn minh lại hoàn toàn vắng mặt ở Liên Xô. Văn học, nghệ thuật là “niềm vui thích cao nhất mà con người tự mang lại cho mình” thì ở xã hội Xô Viết, nó chỉ là công cụ để ngợi ca kẻ cầm quyền. Chính Marx đã từng viết: Nguyên tắc duy nhất của chủ nghĩa chuyên chế là khinh miệt con người, là con người bị làm mất nhân tính… Kẻ độc tài bao giờ cũng nhìn thấy con người thấp hèn. (Mác và Angghen, Toàn tập, tập 1, Sự thật. HN)

Chính mắt người viết bài này đã nhìn thấy con người bị “kinh miệt” và “thấp hèn” trên những tượng đài hoành tráng được xây dựng ở thủ đo Matxcơva. Tôi đã nhìn thấy một bức phù điêu lớn ở trung tâm Mátxcơva, trên bức phù điêu vĩ đại đó là hình LêNin phanh ngực áo nhô người về phía trước, dưới chân của LêNin là lớp lớp nhân dân bé nhỏ li ti xếp hàng đi ở dưới! Tôi đã nhìn thấy tượng Gagarin, toàn thân nhà du hành vũ trụ này được mô phỏng là cái tên lửa đang lao vút lên bầu trời, dưới chân là quả địa cầu bé xíu… Nhìn tượng Gagarin, người ta thấy cả nhân loại này như bị người Xô Viết dẫm đạp dưới chân mình! Nó hãnh tiến và khoa trường một cách vô lối! Tôi đã nói với Irina rằng, cái đáng buồn là chính các nghệ sĩ Nga, bộ phận tinh hoa nhất của nhân dân lại tư duy như thế, lại bị kẻ độc tài tha hóa đến thế. Nàng nghe tôi nói và yên lặng!

Nhà văn sinh ra để chăm chú nhìn xã hội, “họ nhìn thấy những gì mà người ta bỏ qua không phát hiện ra” (Nguyên Ngọc), nhà văn là “nhà thiên văn học của những luồng khí quyển lưu hành trong xã hội” (Stefan Zweing) nhưng trong xã hội toàn trị (totalitarisme) Liên Xô thì giới văn nghệ sỹ có “mật độ” tự tử cao nhất so với các tầng lớp khác! Con chim báo bão của đất nước đã trở thành “con chim ca hót quanh Lăng” thì con tàu đất nước đâm xuống vực là tất yếu. Đấy là nguyên nhân chủ yếu đã dẫn đến sự “tự sụp đổ” (Lê Hồng Hà) của Liên Xô, không có “kẻ phản bội” nào có thể xô đổ Liên Xô, không có thế lực nào có thể phá nát một đảng có 17 triệu Đảng viên như Đảng cộng sản Liên Xô.

Chính vì thế mà nhà tương lai học nổi tiếng của Mỹ Alvin Toffler, tác giả của bộ ba sách: Cú sốc tương lai (Future shock), Làn sóng thứ ba (The Third Wave) Thăng trầm quyền lực (Power shift), trong cuốn Làn sóng thứ ba, từng được xem là “kinh thánh” của giới trí thức phái cải cách của Trung Quốc, tác giả đã chỉ nhìn cuộc cách mạng Tháng 10 Nga năm 1917 như một “làn sóng” tăng tốc hệ thống công nghiệp quy mô lớn, mà không nhìn nhận nó như một tiến trình xã hội bền vững văn minh: “Ở nước Nga, sự va chạm giữa những lực lượng Làn sóng thứ nhất và thứ hai cũng nổ ra. Cuộc cách mạng năm 1917 là bản dịch của Nga về cuộc nội chiến Mỹ. Nó được chiến đấu không phải cho chủ nghĩa cộng sản, mà là cho vấn đề công nghiệp. Khi những người Bônsêvich quét sạch những dấu vết cuối cùng của chế độ nông nô và nền quân chủ phong kiến, họ đẩy nông nghiệp ra phía sau và tăng tốc hệ thống công nghiệp quy mô lớn. Họ trở thành Đảng của làn sóng thứ 2. (Làn sóng thứ ba – Alvin Toffler – Nhà xuất bản thông tin lý luận Hà Nội – 1992 – trang 23).

Nhận định của tác giả “Làn sóng thứ ba” cho chúng ta cơ sở để suy nghĩ, lý giải vì sao Đại hội 14 của Đảng cộng sản Liên Xô tháng 12 năm 1925 quyết định công nghiệp hóa trước tiên, nhắm vào công nghiệp nặng. Và chỉ sau hơn 15 Liên Xô đã trở thành cường quốc công nghiệp, đứng đầu Châu Âu về tổng sản lượng công nghiệp. Công cuộc tập thể hóa nông nghiệp chỉ được tiến hành sau đó, và cũng chỉ để phục vụ sự phát triển nhanh công nghiệp. Stalin cũng dùng những biện pháp hành chính để ưu đãi chế độ cộng sản (hưởng theo nhu cầu) đối với đội ngũ các nhà bác học (không phải trí thức); để lập nên thành phố Ngôi sao, biệt đãi họ ở đó, nhờ thế mau chóng đưa được người lên vũ trụ. Nhưng lên được vũ trụ rồi vẫn phải quay về đất nước mà ở đó thiếu nhân văn, ở đó đã tan rã về đạo đức, thiếu lương tâm công dân, những kẻ có hành vi tồi tệ lại nắm giữ những cương vị then chốt. Những điều đó mọi người Xô Viết đều biết và im lặng. Lương tâm người Xô Viết đã im lặng. Ở Liên Xô thời cải tổ xuất hiện khái niệm “nền chuyên chính của lương tâm “thay cho” chuyên chính vô sản”. Nhà văn Xô Viết Đamien Granin đã viết về sự sói mòn lương tâm qua câu chuyện như sau: “Mẹ một người quen của tôi bị ốm. Bà phải mổ. Anh ta nghe nói phải “lót tay” cho bác sỹ. Anh ta vốn tính rụt rè, nhưng nỗi băn khoăn về người mẹ đã làm cho anh ta vượt qua được tính rụt rè ấy, và lấy cớ phải mua thuốc thêm, anh ta định đưa cho bác sỹ 25 rúp. Bác sỹ khoát tay nói: “Tôi không lấy chừng ấy”. “Phải bao nhiêu ạ?”, “gấp mười”! Người quen của tôi là một kỹ sư bình thường, không giàu có gì. Nhưng đây là sức khỏe của mẹ, anh ta chạy đủ số tiền và ngượng ngịu đưa phong bì cho bác sỹ, và người bác sỹ này điềm nhiên rút tiền ra đếm lại. Sau ca mổ, người mẹ chết. Người bác sỹ giải thích cho người quen của tôi: – tôi đã kiểm tra lại, mẹ anh chết không do mổ, mà vì tim bà không chịu đựng nổi, vì thế tôi vẫn giữ lại số tiền kia. Anh ta nói với vẻ tin chắc vào sự ngay ngắn của mình: nếu người phụ nữ kia chết vì mổ, anh ta sẻ trả lại tiền. Tôi nhắc lại trường hợp này không phải vì nó đặc biệt gì, mà vì người ta không coi nó là đặc biệt” (Lòng nhân từ – Báo văn học, số 12, 3-1987. Liên Xô). Tình trạng xã hội ấy đặc biệt trở nên nghiêm trọng khi tầng lớp đặc quyền đặc lợi biến địa phương được giao phụ trách là những vương quốc riêng, họ lập những “góc thiên đường” dành riêng cho mình. Khi các quan ở TW về, họ mời “lên thiêng đường”! Tình trạng này đã phổ biến ở thời Brêgiơmép và tiếp tục kéo dài… Hai nhà báo Lôsat và Nuôcmaxôp đã tả “góc thiên đường” của các vị quý tộc mới ở nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Cadaxtan trong bài “Quét dọn” đăng trên tuần báo tin Mátxcơva, 26-4-1987 như sau.

“Thanh chắn đường ấy không ăn nhập gì với cảnh vật: Một khu vường táo đâm hoa dọc hai bên đường, những con gà lôi vàng óng dạn dĩ, những con nai đứng im khi người ta đến gần… Xa hơn đó một chút là mặt hồ Kaptfagai, bên bờ hồ đầy lau sậy… Chúng tôi vừa vượt quãng đường 80km từ Anma-Ata đến đây và một thanh chắn đường hiện ra trước mắt. Stop: Khu săn bắn Kagataighin thuộc ban quản lí bất động sản thuộc Hội đồng bộ trưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Kadaxtan. Xe otô và mọi người đi bộ không được đi qua đây… Cái cơ quan bí mật nào nằm khuất sau cảnh đẹp mê ly ấy ở phía bên kia thanh chắn đường? Đây là nơi nghỉ ngơi và săn bắn của các nhà lãnh đạo cao nhất trước đây của nước cộng hòa. Có lẽ nhiều trong số đó bây giờ không muốn nhớ lại những buổi nghỉ cuối tuần vui vẻ diễn ra ở nơi thiên đường vui vẻ này.

Nhưng không thể chối cải được, những chứng từ và số liệu nằm trong chương “chi tiêu về thiết bị thể thao đang lên án họ, đó là những khoản tiền trả cho những chiến lợi phẩm được mua làm kỷ niệm: những con nai, những con lợn lòi, những con phượng hoàng nhồi rơm. Mấy chục con người phục dịch thắng cảnh Katataighin này từng biết rõ, những ai đã đến ngôi nhà nghỉ một tần sang trọng này, những ai từng dạo bước trên những tấm thảm êm như nhung này, những ai đã chụm đầu lên những bàn bi-a nơi đây.

Khi xem danh sách các vị khách thường xuyên đến giải trí ở bên kia thanh chắn đường, có thể thêm chữ “cựu” trước mỗi chức vụ của họ.

Nước cộng hòa Kadaxtan đang trải qua một thời kỳ khó khăn, một cuộc cách mạng lương tâm, và đó không phải trường hợp duy nhất xảy ra.”

Ở nước cộng hòa này, trong khi hàng vạn gia đình xếp hàng chục năm trời để được cấp nhà ở, thì hàng trăm căn hộ sang trọng đã được phân chia một cách tùy tiện, chỉ cần một vị lãnh đạo nào gọi một cú giây nói là xong!!!

Xã hội XHCN ở Liên Xô trong nhiều năm tháng dưới chế độ toàn trị (totalitarisme), bệnh quan liêu mệnh lệnh, giai cấp đặc quyền đặc lợi quyết bán trụ, thực chất là một xã hội phong kiến trá hình do quý tộc đỏ nắm giữ sau “làn sóng thứ hai”. Vì thế, nó hung bạo hơn bất cứ chế độ độc tài nào trong lịch sử. Nó gia cố tệ sùng bái cá nhân, xây dựng uy quyền tuyệt đối nhằm kiểm soát toàn đời sống xã hội: Văn hóa, kinh tế, quân sự, chính trị… đến đời sống dân sinh và tư duy cá nhân. Mọi suy nghĩ cũng bị kiểm soát chặt chẽ, phục tùng tuyệt đối, trung thành tuyệt đối với “lãnh đạo vĩ đại”, với “người cha của tổ quốc”, “nhạc trưởng của khoa học”, “thiên tài kiệt xuất cảu nhân loại”, “kiến trúc sử của chủ nghĩ cộng sản”, “người trông nom hạnh phúc của loài người”… Vì thế, người ta có thể giải thích được, vì sao Stalin lại có thể trị vì lâu đến thế và giết nhiều người đến thế”… Trong thời gian ở Liên Xô (1991) tôi đã được các bạn Nga nói rằng: ở Liên Xô, không một gia đình, một dòng họ nào không có người bị Stalin giết hại. Hiện tượng này cũng là một đặc điểm của tất cả các chế độ cực quyền. Ở Trung Quốc, Mao Trạch Đông từng được ca ngợi là: người dẫn đường vĩ đại, người lãnh đạo vĩ đại, người cầm lái vĩ đại, người tham mưu trưởng vĩ đại (Grand guide, Grand dirigeant, Grand timonier, Grand commandant en chef…), ở Cuba, ở Bắc Triều Tiên cũng thế… Giết người không xét xử, đó là đặc điểm nổi bật nhất của chủ nghĩa cộng sản. Vì thế, trong bia tưởng niệm những nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản ở thủ đô của nước Mỹ có dòng chữ, chủ nghĩa cộng sản là “Chủ nghĩa giết người, đàn áp đối lập và khinh bỉ tự do…”

Nếu đến bây giờ ai đó còn nghi ngờ gì về sự sụp đổ của Liên Xô thì xin đọc lại diễn văn từ chức dài 7 phút của Goocbachốp trên truyền hình Liên Xô mà thông tấn xã Việt Nam đã in trong tài liệu tham thảo thời điểm đó: “Tôi có thể làm Nga Hoàng 20 năm nữa, nhưng như thế là vô đạo đức, vì thế tôi cải tổ… “Liên Xô sụp đổ vì cái xã hội không có đạo đức, sụp đổ niềm tin, chính những người lãnh đạo cao nhất đã nhận ra điều đó và họ tự diễn biến… Vì thế cũng như Cách mạng Tháng 10, nó ít đổ máu nhất. Liên Xô sụp đổ còn vì 3 nguyên nhân nữa:

Một là, Đảng cộng sản liên Xô áp đặt quyền lực tuyệt đối lên nhà nước, làm thay bộ máy nhà nước khiến bộ máy Đảng rất cồng kềnh, già cỗi, kém hiệu lực. Không có thiết chế kiểm soát lãnh đạo của Đảng và cá nhân lãnh đạo Đảng. Nhóm cải cách Goocbachốp vừa không thoát khỏi cách làm cũ, vừa mắc sai lầm mới, không kiểm soát được xã hội.

Hai là, hệ thống kinh tế quan liêu bao cấp, mô hình kinh tế không động viên được sức lao động. Kế hoạch hóa kinh tế cưỡng ép, chủ quan, đi ngược quy luật kinh tế. Tình trạnh quan liêu, tham nhũng do ai cũng có quyền ra lệnh, can thiệp vào các hoạt động kinh tế và không ai chịu được trách nhiệm về các kết quả kinh tế cuối cùng.

Ba là, chính quyền vi phạm các quyền tự do dân chủ của công dân. Các hoạt động văn hóa, nghệ thuật trở thành nhạt nhẽo, đơn điệu, nghèo nàn, “niềm vui thích cao nhất mà con người tự đem lại cho mình” không còn nữa. Tâm hồn người Xô Viết khô héo!!!

Một nguyên nhân nữa phải nhắc đến là Liên Xô đã “sập bẫy” chạy đua vũ trang với Mỹ trong chiến tranh lạnh khiến ngân sách kiệt quệ…

Thể chế chính trị thối nát, lòng tin khủng hoảng, tài chính kiệt quệ, chế độ suy tàn thì vũ khí hiện đại cũng trở nên vô dụng. Liên Xô sụp đổ hoàn toàn. Nói như En-xin Cộng sản không thể sửa chữa mà chỉ có thể vứt bỏ!

Một trăm năm đã đi qua kể từ cái ngày “rung chuyển thế giới” 7-11-1917. Từ một nước tư bản trung bình, cách mạng Tháng 10-1917 đã ra đời nhà nước Xô Viết đưa đất nước này trở thành một siêu cường hạt nhân hàng đầu thế giới, hình thành phe XHCN làm đối trọng với thế giới tư bản khiến nó phải điều chỉnh mọi mặt để dần hình thành một thế giới văn minh. Người dân Liên Xô được hưởng thành quả của “làn sóng thứ hai” công nghiệp hóa một nước rộng lớn, con người được hưởng văn minh vật chất. Nền công nghiệp hàng đầu thế giới của Liên Xô đã giúp nhân loại góp phần đánh bại chủ nghĩa Phát xít trên toàn thế giới, đó là một sự thật không thể bác bỏ. Cách mạng Tháng 10 thành công không phải là một ngẫu nhiên lịch sử thì sự sụp đổ của Liên Xô cũng không phải là một ngẫu nhiên, do những nguyên nhân đã được phân tích ở trên. Đảng Bônsêvích đã chiến đấu không phải cho chủ nghĩa cộng sản với những lí tưởng tốt đẹp mà là cho vấn đề công nghiệp như Alvin Toffler đã chỉ ra. Thảm họa của nhân loại chính là ở chỗ đó. Nhân vật Ăng-giô-rát trong “Những người khốn khổ” của Victo Hugo đã tuyên bố trên chiến lũy: – Lí tưởng ơi, chỉ có mày là có thật! Lí tưởng thiên đường cộng sản mà bao chiến sỹ cách mạng trên thế giới đã hy sinh vì nó là không có thật. Chỉ có cái con người mơ ước về nó (tức lí tưởng) là có thật. Vì thế nhà xã hội học Nguyễn Kiến Giang mới giải thích, các tôn giáo không đề ra kế hoạch 5 năm nào để tiến đến thiên đường cả. Vì thế tôn giáo cứ tồn tại mãi. Cộng sản Xô Viết đề ra các kế hoạch 5 năm để tiến tới chủ nghĩa cộng sản nên có nhà thơ đã viết “Những thiên đường vỡ chợ, những học thuyết đứng đường!” (Trần Mạnh Hảo). Năm 1963 khi bác sỹ Nguyễn Khắc Việt bị Pháp trụ xuất về nước, về đến ga Hàng Cỏ Hà Nội, ông đã nói một câu nỏi tiếng với các nhà báo ra đón ông: Nếu mở mắt ra, nước Việt Nam thành nước Pháp thì tôi đi theo chủ nghĩa tư bản. Nếu phải đi 200 năm “đầy máu và nước mắt” (Marx) để Việt Nam thành nước Pháp thì tôi đi theo Liên Xô. Đúng một cái Liên Xô sụp đổ tan tành. Đầu năm 1992, trí thức TP.HCM họp mặt ở nhà khách Viện Pasteur Tp.HCM để mừng ông vừa được giải thưởng lớn Pháp văn (grand prix francophonie) tôi hỏi ông: Bây giờ Liên Xô sụp đổ rồi, bác nghĩ sao đây? Ông Viện đã thẳng thắn trả lời: Bây giờ thì tôi đi theo chủ nghĩa tư bản văn minh, chứ không đi theo tư bản hoang dã (sauvage). Tôi hỏi ông: Tư bản hoang dã là những nước nào? Ông trả lời: Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore.., ông giải thích thêm: các nước này mới nổi lên, chưa qua tư bản văn minh nên vào ta đầu tư thì bọn tư bản hoang dã chỉ phá hủy môi trường mà thôi!

Năm nay là vừa tròn 20 năm bác sỹ Viện qua đời, nghĩ đến những lời tiên tri của ông chúng ta thấm thín với Bột ngọt Vedaen và sông Thị Vải, Formosa vũng Áng đầu độc biển Miền Trung; vụ hối lộ dự án đường sắt ở Việt Nam của các nhà thầu Nhật Bản… Cái tư bản hoang dã Phương Tây mau chóng trở thành tư bản văn minh là do nó có khả năng thích ứng cao, tự vận động để chuyển hóa và một phần nhờ có đối trọng Liên Xô. Tất cả những gì không có đối trọng thì sớm muộn cũng trở thành hoang dã. Đó là quy luật tất yếu khách quan của vận động xã hội.

Liên Xô tan ra nhưng để lại một nước Nga trì trệ do người dân sống quá lâu trong bao cấp cả tư duy lẫn vật chất. Cái xã hội có bản năng bầy đàn rất mạnh ấy ở Liên Xô rất cần đến một anh đầu đàn dẫn dắt. Putin đã được chọn. Anh chàng KGB láu cá mà báo chí dân chủ gọi là anh hề chính trị (policchinelle de la politique) này đầu độc dân chúng bằng chủ nghĩa Sô-vanh nước lớn “Đại Nga”. Nhưng trì trệ vẫn hoàn trì trệ. Cái xe ôtô La-đa và Vonga của Liên Xô cũ bây giờ vẫn như thế. Người Nga bây giờ đi toàn xe đời mới của nước ngoài. Những công việc lao động nặng nhọc người Nga không bao giờ làm, hộ đấu thầu – và chỉ người Nga chính phủ mới cho đấu thầu – như làm vệ sinh đường phố, lái xe buýt, xe cẩu… rồi họ cho dân nhập cư thuê lại, ngồi hưởng chênh lệch và rung đùi uống rượu VốtCa! Các nhân viên công vụ thì ăn hối lộ là “chuyện thường ngày ở huyện”! Chính phủ của Putin tồn tại được là nhờ nguồn tài nguyên vô cùng giàu có của nước Nga và nhờ bán vũ khí, thừa hưởng công nghệ vũ khí từ thời Liên Xô cũ. Và, nước Nga mênh mông của Pus-kin vẫn là “một cái làng lớn đầy hủ tục”. Nó “luôn đội trên đầu mình cái mũ mà Châu Âu đã vứt bỏ” như chính LêNin đã nhận xét về nước Nga trước CM Tháng 10-1917!

Đúng 100 năm sau cái ngày “rung chuyển thế giới”, thế giới lại chuyển rung khi nước Mỹ đã bầu lên một chỉ huy thế giới là một anh con buôn chính trị (Politicailleur), chỉ có nghiệp vụ “chia lô bán đất” như chính người Mỹ đã nhận xét. Anh con buôn này tuyên bố: Nước Mỹ là trên hết! Chưa có vị tổng thống Mỹ nào lại hạ nhục nước Mỹ như thế trong lịch sử nước Mỹ. Nước Mỹ chỉ lo cho chính mình thì ngọn cờ dẫn dắt thế giới sẽ rơi về đâu nếu không phải vào tên thổ phỉ Tập Cẩm Bình đang muốn làm bá chủ… Nhân loại đang “đi giật lùi đến tương lai.” (NTB)

Chưa bao giờ lời cảnh báo của Phu-Xích lại cần phải nhắc lại như lúc này: Nhân loại hãy cảnh giác.

Chưa biết sẽ ra sao, nhưng những gì mà Donal Trump đã tuyên bố cho phép người ta cảnh báo như thế (!)

TP.HCM 4/2017

Tài liệu tham khảo:

– Liên Xô – 70 năm trên đường khai phá – Nguyễn Khắc Viện. NXB Phú Khánh 1987.

– Nhớ lại và suy nghĩ – hồi ký của Zhukov – NXB QĐND – 2001.

– Làn sóng thứ ba. Alvin Toffer – NXB thông tin lý luận Hà Nội 1992.

– Cách mạng 1789 và chúng ta – Nguyễn Khắc Viện – NXB TH, TP.HCM – 1989.

– Stalin – Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.

– Và nhiều bài báo, báo hình VN – Trung Quốc như Báo LeMonde

Bình Luận từ Facebook