16-2-2019
Theo tác giả François Joyaux, trong tập “La Tentation Impériale – politique extérieure de la Chine depuis 1949” (Paris 1994), đến năm 1975 người Hoa ở miền Nam Việt Nam khoảng 1.200.000 người, phần lớn ở Chợ Lớn (800.000). Những người này kiểm soát huyết mạch kinh tế miền Nam. Thời tổng thống Ngô Đình Diệm đã có những chính sách hạn chế sinh hoạt kinh tế của ngoại kiều, như người nước ngoài không được làm một số ngành nghề, việc cấp Visa hạn chế. Điều này cũng áp dụng cho Hoa Kiều, khiến lớp người này hầu hết nhập tịch Việt Nam. Qua nhiều thế hệ lớp người “gốc Hoa” này không bị xã hội phân biệt hay kỳ thị. Họ trở thành người Việt, có đủ quyền lợi và nghĩa vụ không khác những người dân khác.
Số người Việt gốc Hoa ở miền Nam sau đó tăng thêm 200.000, là số Hoa kiều sống tại Kampuchia, sau 1975 chạy sang VN tị nạn.
Số người Hoa ở miền Bắc, khoảng 300 ngàn người. Vấn đề quốc tịch được Bắc Kinh và chính phủ VNDCCH đặt ra sau khi hiệp định Genève 1954 được ký kết. Việc thuơng thuyết gặp khó khăn, nhưng cuối cùng người Hoa tại VN (miền Bắc) được có những quyền lợi tương tự như người bản xứ với điều kiện những người này phải lần hồi lấy quốc tịch Việt.
Năm 1976, nhân việc tổ chức bầu cử toàn quốc, những người Việt gốc Hoa ở miền Nam bị bắt buộc khai quốc tịch. Việc này quan hệ đến đại đa số dân Hoa sống tại miền Nam. Từ thập niên 50 họ đã có quốc tịch Việt Nam, một phần do chính sách của ông Diệm, người Hoa muốn làm ăn ở VN phải vô quốc tịch.
Vấn đề là chính phủ MTGPMN đã có cam kết với Bắc Kinh về tình trạng của người Hoa sau chiến tranh. Ngày 24 tháng 5 năm 1965, lúc chiến tranh gia tăng cường độ, chính phủ lâm thời MTGPMN công bố một lá thư nhằm gởi đến Hoa kiều đang ở miền Nam, dĩ nhiên để lôi kéo khối dân chúng này vốn bất mãn các chính sách về quốc tịch của ông Diệm. Nội dung lá thư cho biết những người này có quyền tự do lựa chọn quốc tịch của mình sau khi chiến tranh kết thức.
Năm 1968 việc này được CP LTMTGPMN nhắc lại và Bắc Kinh tiếp nhận sự việc này. Như thế đây là một lời cam kết giữa hai chính phủ. MTGPMN đã “hưởng lợi” qua những viện trợ của Bắc Kinh về kinh tài lẫn vũ khí.
Sau khi “thống nhứt đất nước”, quốc gia VN lẽ ra phải có nhiệm vụ “kế thừa” các di sản của VNDCCH và CPLT MTGPMN, như về lãnh thổ, dân chúng, quan hệ ngoại giao với nước thứ ba…
Hai điều cam kết, một của nhà nước VNDCCH đối với khối dân người Hoa miền Bắc, một của CP LTMTGPMN đối với khối dân Hoa ở miền Nam. Các lời hứa nói trên đơn thuần bị “xóa bỏ”.
Dĩ nhiên, trước nhà cầm quyền Bắc Kinh, thái độ của VN buộc dân chúng gốc Hoa hồi tịch thể hiện sự “bội ước”, một điều cấm kỵ trong quan hệ ngoại giao.
Nhà nước CSVN không thể đơn phương “hồi tịch” toàn bộ người Việt gốc Hoa mà không có “thương thuyết” lại trước với Bắc Kinh. Thái độ này cũng là một sự xúc phạm ghê gớm đến danh dự của TQ, bởi vì VNDCCH khai sinh ra là nhờ vào vũ khí, quân trang quân dụng, lương thực lẫn tiền bạc của TQ giúp đỡ và viện trợ trong cuộc trường chinh “9 năm kháng chiến”. TQ là bên đã viện trợ cho VNDCCH đến 20 tỉ đô la, nhiều hơn bất kỳ viện trợ của quốc gia nào khác. Tài liệu bạch hóa gần đây cho biết số quân TQ hiện diện thường trực ở miền Bắc là 200.000 người, gồm cán bộ, bộ đội phòng không và nhân công các loại.
Vô hình trung lãnh đạo CSVN đã đem lại tính “chính đáng” cho cuộc chiến tranh “phản công tự vệ chiến” của TQ.
Và đây là bài học thứ nhứt: sự “bội ước”. Học giả, sử gia VN có “nhìn nhận” sự việc này hay chưa và có quan điểm gì về sự kiện lịch sử này?
*****
Ý kiến từ các học giả nước ngoài, nguyên nhân vấn đề “nạn kiều” xuất phát từ việc Việt Nam lo ngại TQ sẽ sử dụng người Hoa tại VN như một “đội quân thứ năm”. (Robert S. Ross, The Indochina Triangle: Vietnam Policy, 1975-1979 – David Elliot, The Third Indochina Conflict).
Dưới thời VNCH người ta cũng thường nghe lập luận như vậy đối với những Hoa kiều đang sống ở Chợ Lớn. Ý kiến cho rằng “đạo quân thứ năm” sẽ hành động như những “du kích nằm vùng”, mục đích phá hoại nền kinh tế cũng như gây xáo trộn về các phương diện chính trị, xã hội.
Điều lo ngại này đến nay cho thấy là vô căn cứ. Nhân số người Hoa sống ở VN so sánh còn ít hơn số người Hoa sống tại Mã Lai, Thái Lan, Singapour… Không thể phản biện rằng tất cả những quốc gia thịnh vượng vùng Đông Nam Á, nền kinh tế phồn thịnh hôm nay là nhờ vào sự đóng góp tích cực của khối dân Hoa kiều. Cũng không thể phản biện rằng TQ phục hưng kinh tế sau này là nhờ sự đầu tư của khối Hoa kiều hải ngoại, đứng đầu là Hồng Kông và Đài loan. Chưa thấy bằng chứng nào cho thấy những người này làm việc như một nhân tố của “đạo quân thứ năm”.
Điều quan trọng khác, sau khi bị buộc “hồi hương”, số Hoa kiều rời khỏi VN lên đến hàng triệu người. Nhưng chỉ có 40.000 người trong số đó nhận sự trợ giúp của Bắc Kinh. Con số chấp nhận sống ở lại TQ không thấy thống kê, nhưng có lẽ không có bao nhiêu người. Những người Hoa sau khi được trợ giúp đến được lục địa cũng tìm cách rời bỏ nơi này để tìm đến quốc gia thứ ba. Điều này khẳng định khuynh hướng chính trị “ưa chuộng tự do” của đại đa số Hoa kiều hải ngoại.
Vấn đề “nạn kiều”. Thử tưởng tượng, một đứa trẻ sinh ra, lớn lên tại VN, không biết nói tiếng Hoa, không biết tổ tiên là ai, nguồn gốc đến từ đâu. Những người là chủ tập đoàn xí nghiệp, làm chủ ngân hàng, nhà thương, trường học… Những người chỉ biết nói tiếng Việt, có bằng cấp VN, đi làm phục vụ cho lợi ích của đất nước VN. Chỉ trong một giây đồng hồ, họ có lệnh phải từ bỏ quốc tịch Việt, từ bỏ mọi của cải, vàng bạc, nhà cửa ruộng đất…. Sau đó họ phải rời khỏi đất nước VN, tay không, bằng phương tiện tự túc!
Hãy xem câu chuyện thương tâm của một cô bé người Hoa nhưng sinh ra và lớn lên tại VN đăng trên BBC hôm qua!
Thảm cảnh “thuyền nhân” làm chấn động lương tâm nhân loại các năm 1978-1990. Những người này vừa là nguyên nhân khiến cả thế giới tự do (và LHQ) quay lưng với VN. Vừa là động lực để TQ quyết định chiến tranh “phản công tự vệ chính đáng”.
Nhưng thực tế họ vừa là nạn nhân của tinh thần kỳ thị chủng tộc quốc gia chủ nghĩa cực đoan mù quáng cùng với các chính sách kinh tế “phi nhân” mang tên “xã hội chủ nghĩa” của đảng và nhà nước CSVN.
Bằng cái nhìn “kinh tế” và “xã hội” hôm nay, đảng và nhà nước CSVN đã “thắt cổ” con gà đẻ trứng vàng của đất nước mình. Con gà đẻ trứng vàng, không chỉ là các nhà tư bản gốc Hoa hay thuần Việt. Mà còn là tài sản văn hóa, vật chất, khoa học kỹ thuật, đạo đức, luân thường xã hội… đã cấu thành xã hội VNCH, nền tảng để xây dựng một quốc gia VN tương lai phú cường. Nền tảng xã hội này không khác gì với các xã hội tiên tiến “cường quốc bậc trung” Nam Hàn, Đài loan, Singapour, Mã Lai, Thái Lan…
Con gà đẻ trứng vàng chết uất ức không nhắm mắt…
Đây là bài học cay đắng đầu tiên. Học giả và sử gia VN đã học gì từ bài học này?
Đất nước bây giờ có hàng trăm “đạo quân thứ năm” chi phối đất nước, như sự “tưởng tượng” của CSVN thế kỷ trước. Tất cả huyết mạch kinh tế VN đều nằm trong tay tài phiệt nước ngoài. Nhật, TQ, Mỹ, Pháp, Nam Hàn, Đài loan, Singapour, Thái lan…
Ngày xưa đổ máu đánh “tư sản mại bản”. Bây giờ dân cả nước tròng đầu vào ách “thực dân kiểu mới”.
VN, quốc gia chiến thắng, trở thành kẻ làm công cho những “kẻ thù” đã từng thua thảm hại ngày xưa.
Học giả và sử gia VN đã ý thức được việc này hay chưa?
Kính chào quý vị, Xin cho tôi đăng lại bài này ở: https://nuocnha.blogspot.com
Cám ơn quý vị nhiều
Haha, Việt Long, Nguyễn Tuấn Khoa & 1 số trí thức xã hội chủ nghĩa khác nhân dịp này tỏ rõ mình là hậu duệ của những người như Tiến sĩ Nguyễn Quang A, bằng cách biện hộ cho đánh tư sản ở miền Nam sau 75. Có nghĩa trí thức xã hội chủ nghĩa có vẻ tự hào với những chuyện như vậy, & có lẽ đây là những bài học họ rút ra cho chính mình; nên làm lại (ít nhất) 1 lần nữa .
“Con gà đẻ trứng vàng, không chỉ là các nhà tư bản gốc Hoa hay thuần Việt. Mà còn là tài sản văn hóa, vật chất, khoa học kỹ thuật, đạo đức, luân thường xã hội… đã cấu thành xã hội VNCH, nền tảng để xây dựng một quốc gia VN tương lai phú cường. Nền tảng xã hội này không khác gì với các xã hội tiên tiến “cường quốc bậc trung” Nam Hàn, Đài loan, Singapour, Mã Lai, Thái Lan…
Con gà đẻ trứng vàng chết uất ức không nhắm mắt…
Đây là bài học cay đắng đầu tiên. Học giả và sử gia VN đã học gì từ bài học này?”
Hihi, ô Trương Nhân Tuấn hỏi 1 điều khá là vô lý . Các trí thức xã hội chủ nghĩa, ngay cả Hoàng Hưng & các “đảng viên hoạt động nội thành” đã đồng ý nhất trí di sản của VNCH là những thứ Đảng của các vị ấy không cần tới . Nếu họ thật sự trân trọng di sản của VNCH, họ đã không cắt cổ nó . Đồng chí Nguyễn Danh Dy quote Einstein, “không thể tạo dựng bằng chính tư duy phá bỏ”. Đòi hỏi trí thức xã hội chủ nghĩa hối hận những gì họ lấy làm tự hào … Nếu dễ thế thì nên bảo họ đừng yêu Đảng của mình nữa, tui nghĩ còn dễ hơn đòi hỏi họ 1 lời hối hận . Chính vì vậy, câu hỏi của Trương Nhân Tuấn trở thành vô lý & rất đỗi dô diên .
Các sử gia học giả ăn lương nhà nước thì không làm việc gì khác hơn là hót…theo chỉ thị của đảng chó. Che đậy, vu khống, nói không thành có, nói có thành không, nói láo mãi và còn in sách để thế hệ sau tăm tối mãi, bước “đi theo đảng”…. là nghề của chàng.
Người ta bảo chính trị là lưu manh. Lịch sử luôn được che đậy bởi kẻ mạnh. Phải đấy. Nhưng đánh cược với quốc tế bằng trò đem dân ra làm CON TIN thì chỉ có ĐCS Việt Nam. Và đó là trò chính trị bẩn thỉu và khốn nạn nhất thế giới !!
Đảng chó là tổng hợp của lươn lẹo, xảo trá, bội ước, phản thùng. Trí tuệ ngắn ngủn chỉ biết làm mọi giá để đạt mục tiêu trước mắt bất chấp liêm sỉ. Có cần phải nhắc lại danh ngôn của cựu tổng thống Nguyễn văn Thiệu không ??
Còn để đảng chó trên đầu điều hành quốc gia ngày nào, thì dân Việt còn thấy NHỤC ngày đó. Đảng đang xả xú bắp hướng về chiến tranh biên giới Việt- Trung để dân tình quên đi chuyện Venezuela. đó thôi. Chúng đang sắp hàng thụng vái Trung quần què từng thằng một mong được lãnh nón thái thú…thế đấy, nói thêm chỉ thấy nhục.
Trích: “Học giả và sử gia VN đã ý thức được việc này hay chưa?”
Hỏi học giả hay sử gia như cái ông giáo sư Tung gì đó thì khác nào đi hỏi đống …..phân của bác Mao !?