Ý kiến sau khi đọc hai bài viết của ông Ngô Thế Vinh và Tô Văn Trường

Lê Phú Khải

23-2-2018

Nhân đọc bài “Cống đập chặn mặn gây rối loạn hệ sinh thái và những cái giá phải trả” của tác giả Ngô Thế Vinh đăng trên báo Tiếng Dân ngày 12/2/2018 và “phản hồi” về bài viết này của tác giả Tô Văn Trường ngày 22/2/2018 trên trang Bauxite, xin có đôi dòng sau đây.

Ngay khi đọc bài của tác giả Ngô Thế Vinh, đọc rất kỹ, tôi đã thấy rõ, đây là một bài viết theo cảm tính, thiếu tính khoa học, võ đoán… nếu không muốn nói là thiển cận! Có lẽ do ghét chế độ độc tài cộng sản nên tác giả nhìn vào đâu cũng thấy cộng sản làm là sai trái, hay đội ngũ trí thức do chế độ cộng sản đào tạo không biết gì cả! Điều này chỉ đúng với những người được đào tạo trong những bộ môn khoa học xã hội như: triết học, sử học, văn học, mỹ học… nhưng không đúng với các trí thức thuộc các hệ khoa học tự nhiên như toán học, vật lý học, hóa học, thủy học, cơ học, v.v…

Tôi cũng chắc chắn, thế nào cũng có nhà khoa học ở trong nước lên tiếng. Tôi chờ. Và quả đúng như thế, ngày 22/02/2018, tiến sỹ Tô Văn Trường đã lên tiếng “Phản hồi…” về bài viết này.

Hơn 30 năm là người quan sát (observateur) Đồng Bằng Sông Cửu Long, quan sát từng bước đi, từng công trình, cả thành quả đến những khiếm khuyết được uốn nắn kịp thời, tiếp xúc từ người nông dân đến ông Thủ tướng vốn là nông dân sinh ra và lớn lên ở Đồng Bằng Sông Cửu Long là ông Võ Văn Kiệt…tôi xin nói rõ: Không dễ gì những ông chủ tịch tỉnh như ông Nguyễn Minh Nhị (7 Nhị), thủ tướng như Võ Văn Kiệt là những người có quyền lại dễ dàng nghe các anh “trí thức Bắc Kỳ” như tiến sỹ Tô Văn Trường, tiến sỹ Đào Xuân Học, Mai Văn Quyền “xui dại” trong việc trồng lúa, đắp đê bao vv…và vv… Hơn nữa, những trí thức như Võ Tòng Xuân, giáo sư Nguyễn Ngọc Trâm… họ đều là các chuyên gia được đào tạo từ chế độ Sài Gòn cũ và ở nước ngoài… đấy thôi (!)

Trong bài viết này, tôi chỉ đi vào trọng tâm là những “cống đập chặn mặn” mà tác giả Ngô Thế Vinh đã nặng lời phê phán nó ở Đồng Bằng Sông Cửu Long hơn 40 năm qua. Nếu nước ta là một đất nước bao la rộng lớn như nước Nga chẳng hạn, thì mặn xâm nhập “mặc kệ” nó! Khai thác được cái gì từ mặn thì khai thác. Nhưng nước ta lại là một quốc gia đất hẹp người đông vào bậc nhất thế giới. Mật độ dân số còn hơn cả Trung Quốc thì con đường sống còn là phải cải tạo nó để tồn tại.

Mặn được đánh giá là tài nguyên, nhưng mặn chỉ phù hợp với dải rừng đất ướt ven biển, với những nơi hội tụ đủ điều kiện nuôi trồng thủy sản đem lại lợi nhuận cao, nhanh và nghề làm muối. Trái lại, mặn hủy diệt cây trồng nông nghiệp và kìm hãm phát triển dân cư, gây trở ngại lớn cho cuộc sống con người. Vì thế mà các nước giàu có như Mỹ, Nhật chỉ tiêu thụ tôm chứ không nuôi tôm. Vì như Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã có lần nói: Ngọt là môi trường cao cấp và còn cần cho công nghiệp hóa.

Ở những vùng nhiễm mặn Đồng bằng Sông Cửu Long, từ lâu, mặn đã bị coi là “kẻ thù” của nông dân. Vì thế, từ chỗ hoàn toàn phụ thuộc nước trời mùa mưa, ở vùng mặn, người nông dân đã biết “luồn lách” để sống! Họ tìm cách be bờ giữ ngọt, quai đê lấn biển, đào kênh dẫn ngọt, trữ ngọt mùa mưa, tiết kiệm mùa khô…ở vùng mặn chỉ làm được một vụ lúa trông vào nước trời, năng suất thấp. Khát khao đổi đời của người nông dân vùng mặn Đồng bằng sông Cửu Long kéo dài theo năm tháng. Nhưng ngọt hóa cả vùng rộng lớn thì sức của người nông dân cá thể không làm nổi. Trước 1975 chính quyền Sài Gòn cũng đã có chương trình ngăn mặn, ngọt hóa Gò Công nhưng chưa làm được.

Từ năm 1975, bằng nỗ lực của Nhà nước và nông dân, sau nhiều năm phấn đấu, các công trình thủy lợi đầu mối: dẫn ngọt- ngăn mặn, nhằm ngọt hóa nhiều vùng đất rộng lớn đã hoàn thành. Phải lần lượt kể đến những chương trình ngọt hóa Gò Công cho 54.000 hecta, Tầm Phương-Trà Vinh cho 7.000 hecta, Vàm Đồn- Bến Tre cho 8.000 hecta… và các chương trình lớn, có tác dụng dẫn ngọt, ngăn mặn cho hàng trăm ngàn hecta như nam Măng Thít (Trà Vinh- Vĩnh Long), Quản Lộ- Phụng Hiệp (bán đảo Cà Mau) của Quyết định 99TTg do Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký vào ngày 9/02/1996 đã được thực hiện trong vòng 5 năm. Nước ngọt phù sa từ sông Tiền, sông Hậu đưa về đã xóa bỏ được bao cuộc đời mặn chát cơ hàn bấy lâu nay. Những ai đã từng chứng kiến mùa khô dài dằng dặc, đất nẻ tận đáy ao, gió chướng mang nặng hơi mặn từ biển dội vào, tàn phá làng mạc, mới thấy hết giá trị của những dòng nước ngọt đem đến cho nông dân vùng mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long. Lúa từ 1 vụ năng suất thấp đã ùa lên thành 3 vụ năng suất cao. Rồi vườn tược, cây trái mọc lên từ phù sa nước ngọt. Huyện Gò Công Đông đã nghèo đói xưa kia, nay làm lúa 3 vụ có chất lượng cao, bán được giá nhất tỉnh, hơn cả vùng Cai Lậy, Cái Bè ở phía Tây nổi tiếng giàu có xưa nay, đó là điều mới lạ ở Tiền Giang! Ở huyện Vĩnh Lợi nằm trong vùng ngọt hóa bán đảo Cà Mau, những tá điền nghèo khó của công tử Bạc Liêu xưa kia, nay bỗng nhiên nhà tường sáng choang nhờ nước ngọt sông Hậu đã về tới vùng hạ! Người viết bài này đã chứng kiến tận mắt những hình ảnh trên.

Các chương trình ngọt hóa đã làm thay đổi hẳn bộ mặt của một vùng đất đai rộng lớn có mật độ dân cư cao ở Đồng bằng sông Cửu Long những năm qua là sự thật không thể phủ nhận.

Tiêu biểu nhất là đê ngăn mặn của tỉnh Sóc Trăng. Nếu cho rằng Đồng bằng sông Cửu Long không cần đến một hệ thống đê điều nào cả là hoàn toàn không đúng.

Sóc Trăng là một trong những tỉnh nghèo nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long, với 319.000 hecta đất nông nghiệp ven biển nhiễm mặn chỉ làm được lúa 1 vụ năng suất thấp. Đời sống của đồng bào dân tộc Khmer ở đây rất khó khăn. Đêm 26 rạng ngày 27/10/1992 biển Sóc Trăng đã bất thần nổi giận. Một đợt sóng thần đã ngoạm vào khúc bờ dài hơn 70 km thuộc hai huyện Vĩnh Châu và Long Phú. Sóng thần dâng cao tới gần 2 mét nước chồm sâu vô bờ từ 500 đến 4000m. 13km đê ngăn mặn đã bị phá hủy hoàn toàn, cuốn trôi theo 11 cống ngăn mặn, 420 hecta cây đặc sản tỏi và hành tím, 160 hecta lúa và 4300 hecta nuôi tôm bị mất trắng.

Khác với lũ đầu nguồn sau khi nước rút còn để lại phù sa mới an ủi cho đồng ruộng mùa sau. Trái lại, sóng thần đem hàng vạn tất cát vô đồng, vùi lấp, xáo trộn địa hình và nước mặn sẽ làm cho đất chai cứng, mùa sau còn tiếp tục mất mát. Ngay sau trận sóng thần kinh hoàng đó, khi các nhà báo phỏng vấn chủ tịch Sóc Trăng Nguyễn Thanh Bình (Sáu Bình) là: Sóc Trăng có cần Trung ương hỗ trợ gì không? Chủ tịch Sóc Trăng đã trả lời một câu bất ngờ đến thú vị “Sóc Trăng không xin TW gì cả, chỉ xin TW một… con đê!”.

Có lẽ trên đời này chỉ có các “anh Hai Nam bộ” mới có lối xin “kỳ lạ”, “một con đê”!. Nhưng xét cho cùng thì Chủ tịch Sóc Trăng thật là khôn ngoan. Cái xứ Sóc Trăng này lạ lắm, ở Vĩnh Châu, trẻ con chơi đùa với nhau nói ba thứ tiếng: Việt, Khmer, Hoa… Nhưng TW lấy đâu ra một con đê ngăn mặn dài hàng trăm km để cho Sóc Trăng. Vì thế sau hơn một năm trời dồn sức, dồn của nhân dân các dân tộc (Việt, Khmer, Hoa) ở Sóc Trăng đã làm nên một kì tích là hoàn thành tuyến đê biển và đê dọc theo cửa sông dài hơn 200 km. Hệ thống đê ngăn mặn này có chiều rộng 6m, cao 1,5m; xe bốn bánh có thể đi lại dễ dàng vào mùa khô, có đê ngăn mặn, Sóc Trăng thay da đổi thịt. Từ 64.000 hecta lúa hai vụ đã tăng lên 90.000 hecta ngay năm sau. Đến hè thu 1995, Sóc Trăng có hơn 100.000 hécta lúa hai vụ. Có nước ngọt, hoa màu cây trái, nghề mới (làm nấm rơm) được mở ra. Dân Khmer có công ăn việc làm không phải bỏ xứ đi tha phương. Sau 4 năm Sóc Trăng đã gia nhập thành viên “Câu lạc bộ 1 triệu tấn”, sánh vai cùng các bậc đàn anh An Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang ở Đồng bằng sông Cửu Long.

Trong việc làm đê ngăn mặn ở Sóc Trăng, có một câu chuyện đáng được ghi lại. Đó là sự việc xảy ra ở xã Thạnh Thái Thuận huyện Mỹ Xuyên. Gia đình bác Tám Tiệm, một nông dân cần mẫn đã để dành nhiều năm để lên một ngôi nhà tầng. Khi bác Tám Tiệm khởi công xây nhà thì cán bộ thủy lợi đã đến năn nỉ bác đừng xây. Vì đê biển sẽ chạy qua chính giữa nền nhà bác! Nhưng bác Tám không thể tin được đê có thể chạy đến tận nơi xa xôi này. Bác tuyên bố: Nếu các chú làm được đê chạy đến tận nơi đây thì tui sẽ tự tay phá nhà! Vừa ăn tân gia được hơn tuần lễ thì đê chạy tới thiệt. Thắp hương khấn vái ông bà xong, bác Tám đã tự tay cầm búa phá nhà cho con đê…phóng thẳng! Chuyện con đê ngăn mặn ở Sóc Trăng là như thế!

Thời Pháp thuộc, có băng đảng cướp ở Sài Gòn đều là nông dân Gò Công bị nhiễm mặn, không đường sống phải đi… ăn cướp!

Có lẽ bấy nhiêu cũng là đủ để “bào chữa” cho các “cống đập ngăn mặn gây rối loạn…” mà tác giả Ngô Thế Vinh đã lên án nó.

Nếu cứ “để yên” thực tại mà sống với nó thì nước Ít-xra-en việc gì phải cải tạo sa mạc để sống, để trồng cây và nuôi gia súc! Xin thưa tác giả Ngô Thế Vinh (!)

Trang Bauxite e ngại ngày Tết mà nói chuyện mặn ngọt khô khan. Nhưng tôi lại hứng thú đọc bài viết dài “khô khan” của TS Tô Văn Trường. Sự đời nó thế.

Bình Luận từ Facebook

4 BÌNH LUẬN

  1. Trích ‘Nếu cứ “để yên” thực tại mà sống với nó thì nước Ít-xra-en việc gì phải cải tạo sa mạc để sống, để trồng cây và nuôi gia súc! Xin thưa tác giả Ngô Thế Vinh”
    Chẳng lẽ trình anh Khải chỉ tới đây thôi nhỉ ? Thất vọng anh thật .
    Anh nên nhớ phản biện với cái đập Balai không đồng nghĩa là không làm gì nhé, nó khác nhau lắm anh ơi.
    Ở đây sai lầm là cải tạo vùng đồng bằng SCL không đúng.
    Cũng giống như ông Trường đổ thừa là những năm từ 76 đến 80 sản lượng lúa gạo thấp ,dẫn đến phải nhập khẩu lương thực là do không cải tạo đồng bằng SCL và sau khi cải tạo thì sl tăng .
    Nên nhớ 76 đến 80 là do chính sách htx và kt quốc doanh kiềm hãm cả nền kinh tế trong đó có nông nghiệp.
    Sau khi bỏ chính sách htx thời N.V.Linh thì tự nhiên dân không còn đói cơm nhé ,sl lúa tăng cao có dư gạo . Sau khi thỏa thuận với Đ.Mười , ông Linh nhường ghế cho Đ.Mười , thì ô Kiệt mới lên làm thủ tướng thay Đ.Mười.
    Ông Trường bảo vì trước 75 không cải tạo nên diện tích đb SCL rất nhỏ,và hoanh hóa là không trung thực .
    Ông thừa biết vì sao diện tích nhỏ ,đất bỏ hoang mà. Là do chiến tranh và những khu hoang hóa là khu vực mấy ông kiểm soát hoặc vùng sôi đậu .
    Vài lời với anh Khải và anh Tường ,lớn tuổi trải đời nhiều nên trung thực và khách quan ,đừng vì cái tự ái mà viết không khách quan như bọn trẻ trâu nhé.
    Nếu ông N.T. Vinh trong bài không có 1 đoạn …… thì chắc các anh không nhột và không phải viết lấy cho được .

  2. Ông T.V.Trường chê bài ông Vinh cảm tính nhưng chính ông ngụy biện nguy hiểm về sản lượng nông nghiệp năm 76-77 và 80. Ông cho rằng vì ko có cống ngăn mặn nên sản lượng lúa gạo các năm ấy thấp dẫn đến phải nhập khẩu lương thực.
    Sản lượng thấp chả liên quan gì đến đất bị hoang hóa ,mà là do chính sách hợp tác xã nông nghiệp.
    Bằng chứng thuyết phục hơn nữa là sau đổi mới ,bỏ chính sách htx và chưa có đê ngăn mặn thì VN không cần nhập khẩu lương thực và có dư ra chút ít xuất khẩu .
    Về bài viết ông khải cũng quá nhiều hạt sạn ,đầy cảm tính .
    1,Khi đề cập GS V.T.Xuân 1 cách mập mờ khó hiểu y như là nếu dự án sai tại sao ông Xuân ủng hộ ? Nhưng thật ra chính trong bài của Trường có nó ông Xuân không đồng ý là con đê .Vả lại ông Xuân tự biết thân phận ,ông cố gắng đào tạo nhân lực thôi còn chính sách thì ông tránh xa.
    2, Nói ông N.T.Vinh thù ghét chính quyền càng sai lầm .Nên nhớ trước 75 ông du học và tham gia phản đối chính phủ MN , cảm tình MB .Ngay bây giờ ông vẫn cảm tình và kêu gọi hãy dành thời gian cho chính quyền giải quyết các vấn đề kt, xh .
    3, Cho rằng trừ trí thức đào tạo về xh là không biết gì ,còn về khoa học TN thì giỏi ! Thật ra trí thức Xh hay TN đều có người giỏi và dỡ tuy nhiên giỏi và hiểu biết thường ưa cãi không được trọng dụng , 1 số thì không cãi nhưng sống yên phận .Nguy hiểm nhất là số không giỏi nhưng rất hồng và làm hăng say nên mới mệt.

  3. Trich ” Ngay khi đọc bài của tác giả Ngô Thế Vinh, đọc rất kỹ, tôi đã thấy rõ, đây là một bài viết theo cảm tính, thiếu tính khoa học, võ đoán… nếu không muốn nói là thiển cận! Có lẽ do ghét chế độ độc tài cộng sản nên tác giả nhìn vào đâu cũng thấy cộng sản làm là sai trái, hay đội ngũ trí thức do chế độ cộng sản đào tạo không biết gì cả! Điều này chỉ đúng với những người được đào tạo trong những bộ môn khoa học xã hội như: triết học, sử học, văn học, mỹ học… nhưng không đúng với các trí thức thuộc các hệ khoa học tự nhiên như toán học, vật lý học, hóa học, thủy học, cơ học, v.v…” (Le Phu Khai)

    Đâu cần tới mấy tiến sĩ bò Liên xô từ nước cộng sản VNDCCH theo gót đòan quân viễn chinh cộng sản VNDCCH tàn ác, lực lượng vũ trang của đảng việt cộng mao-ít “lao động”, đánh thuê cho giặc tàu xâm lăng, chiếm đóng VNCH phục vụ giặc tàu cộng phu lá co búa liềm tội ác lên người dân VNCH, rồi thì người dân DBSCL mới biết, rằng thì là mà, nếu đắp đê ngăn mặn thì sẽ tăng diện tích trồng lúa!

    Người DBSCL cung biết “nếu đắp đê ngăn mặn thì sẽ tăng diện tích trồng lúa”, nhưng người ta không làm cái “đắp đê ngăn mặn” ấy, vì, trong khi lúa gạo là một sản phẩm đáng kể của DBSCL, lúa gạo không phải là nguồn lợi duy nhất,

    vì thế không có lý do gì phải hy sinh các nguồn lợi khác để chỉ duy trì, để chỉ phát triển diện tích trồng lúa gạo, bất kể cái sự vụ mở rộng diện tích trồng lúa gạo có thể làm hại các nguồn lợi khác của DBSCL.

    Rất có thể các tiến sĩ bò Liên xô suất phát từ nước cộng sản VNDCCH cũng biết nguồn lợi của DBSCL không chỉ là lúa gạo, rất có thể các tiến sĩ bò Liên xô VNDCCH cũng biết cái sự đắp đê ngăn mặn tăng diện tích trồng lúa sẽ làm hại DBSCL,

    nhưng họ vẫn làm cái sự “đắp đê ngăn mặn” vô cùng tai hại cho DBSCL vì “đó là chủ trương của đảng”, đảng cộng sản mao-ít bắc kỳ “lao động” con đẻ của giặc tàu chiếm đóng VNCH,

    vì suốt 20 năm chiếm đóng miền bắc Quốc Gia Việt Nam (từ sau khi việt cộng Minh đánh trận đống đa ngược mở đường cho giặc tàu nhà Mao tiến vào VN trả thù cho giặc tàu nhà Thanh, từ sau khi việt cộng Minh rứoc giặc tàu vào Hà Nội cắm cờ búa liềm, đặt “cờ tổ quốc” sao vàng bệnh hoạn (1) trên mảnh vải nhuộm đầy máu nạn nhân CCRD, nhuộm đầy máu nạn nhân của bộ trửong đồ tể VNG, xuống dứoi đít cờ búa liềm, mở ra một thời kỳ bắc thuộc mới, chống lưng đỡ đầu việt cộng Minh ly khai Quốc Gia Việt nam, dựng nên nhà nước tổ quốc xã hội chủ nghĩa tội ác/dân chủ cộng hoà bìm bịp “VNDCCH” sinh ra từ bản hiệp định giơ ne vơ 1954 ô nhục, chống lưng đỡ đầu Minh áp đặt chủ nghĩa mác lê & chế độ cộng sản tàn ác lên nhân dân miền bắc)

    Vì suốt 20 năm đảng cộng sản mao-it bắc kỳ “lao động” chiếm đóng miền bắc Quốc Gia Việt Nam, suốt 20 năm việt cộng hồ chí minh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc, suốt 20 năm kinh tế xã nghĩa của tiến sĩ bò, là 20 năm triền miên nhân dân miền bắc (tất nhiên không có bọn ăn gà tôn đản) ăn độn, đói rã họng

    vì cái ám ảnh “đói cơm” ấy, vì sau khi học tập theo VNCH, để cho người nông dân được tự do làm lúa gạo, (bọn cộng sản hồ chí minh bắc kỳ mao-ít “lao động” trơ trẽn tự xưng là “đổi mới”), thấy rõ sức sản suất lúa gạo của DBSCL, chúng bèn dở trò “COMECON” của Liên xô (2), cữong bức người dân DBSCL phải hy sinh các nguồn lợi khác, chỉ còn được “quyền” phục vụ bọn cộng sản bắc kỳ & VNDCCH thoát khỏi nỗi ám ảnh về cái đói kinh niên của chúng trong suốt 20 năm việt cộng Minh & bọn cộng sản mao ít bắc kỳ “lao động” dựa vào giặc tàu chống lưng đỡ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội tội ác trên miền bắc

    Nói tóm lại “đắp đê ngăn mặn” không chỉ là thiển cận (chữ của LPK) còn là cái độc ác của bọn cộng sản hồ chí minh bắc kỳ đối với người nam, đói với người dân DBSCL sau khi DBSCL bị chúng chiếm đóng

    (2) “COMECON” tổ chức kinh tế “chung” của các quốc gia cộng sản do Liên xô thời đó cầm chịch, một trong nhiều trò độc của Liên xô, khiến các nước cộng sản nhỏ phải phục vụ cho Liên xô, phải lệ thuộc vào Liên xô, đó là qua “COMECON” cưỡng bức một nước cộng sản nhỏ nào đó chỉ được sản suất một hoặc một số sản phẩm nào đó, và theo đó thì nứoc cộng sản VNDCCH ở phía bắc vỹ tuyến 17 chỉ được sản suất luong thực, nông nghiệp.

    Nghĩa là nếu cái thành đồng Liên xô, một nước mẹ của việt cộng Minh, tố hĩu còn đó, thì người dân VN sẽ mãi mãi “bán lưng cho trời, bán mặt cho đất”, để cho việt cộng Minh đựoc tiếng là học trò giỏi của Mác Lê Mao Sít

    (1) Trong hàng hải, lá cờ hình vuông, màu vàng, là tượng trưng cho chữ Q, đọc là “Quebac”. Cũng trong hàng hải, lá cờ “Quebac” được chọn làm biểu hiệu cho “kiểm dịch”. Khi một chiếc tàu treo cờ “Quebac”, nghĩa là chiếc tàu đang ở trong tình trạng bị kiểm dịch y tế, “nội bất xuất, ngoại bất nhập” tránh lây lan,

    vì thế, ngoài ý nghĩa “huy hoàng xán lạn”, màu vàng cũng có khi mang ý nghĩa “bệnh hoạn”.

    Bọn cọng sản hồ chí minh, trí thức việt cộng thì rất xính dùng màu vàng với ý nghĩa xấu, chỉ biết gán ý nghĩa “bệnh họan” cho màu vàng, chẳng hạn để tỏ ý coi thường các ca khúc của VNCH, chúng gọi đó là “nhạc vàng”.

    Nói “sao vàng bệnh họan” là nói theo ngôn ngữ “tâm đắc” cuả trí thức cộng sản mao-ít hồ chí minh “lao động”

  4. Neu che do CSVN quan tam den viec bao ve moi truong, dat nuoc dau cotut hau nhu ngay hom nay

Comments are closed.