27-7-2023
LGT: Nhân sự kiện ông Hoàng Phủ Ngọc Tường qua đời hôm 24-7, xin được đăng lại bức thư của người học trò cũ của ông là ông Liên Thành, từng là thiếu tá, cựu Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Cảnh sát Quốc Gia tỉnh Thừa Thiên và Thị xã Huế, gửi cho ông Tường năm 2010. Nội dung bức thư như sau:
Thưa Thầy,
Con là Liên Thành, là một học trò cũ của Thầy tại lớp Đệ Nhị B2, trường Quốc Học niên khóa 1958-1959. Có lẽ bây giờ vì tuổi đời đã cao hơn nữa thân mang bệnh tật nên Thầy không còn trí nhớ tốt, vì vậy con xin nhắc lại đây những kỷ niệm của bọn con lớp Đệ Nhị B2 niên khóa 58-59 tại trường Quốc Học Huế đối với Thầy.
Thưa Thầy,
Lớp Đệ Nhị B2 tụi con có khoảng 50 đứa. Tụi con học ban Toán nên môn Việt Văn thường không hấp dẫn và cũng không làm chúng con quan tâm lắm. Chúng con thỉnh thoảng bỏ lớp trốn học kéo nhau sang Lạc Sơn ngồi nhâm nhi ly café, cảm thấy thú vị hơn phải ngồi nghe giảng dạy môn Vạn Vật, Anh Văn v.v… Thế nhưng đối với môn Việt Văn của Thầy dạy thì lũ chúng con không thiếu một đứa nào trong lớp. Cả lớp im lặng ngồi há miệng say mê nghe Thầy giảng bài, nghe Thầy nói văn chương chữ nghĩa, nghe Thầy giải thích điển tích. Có thể nói trí nhớ của Thầy siêu đẳng.
Thầy có tài ăn nói lôi cuốn người nghe, và đặc biệt Thầy có một vóc dáng thư sinh, khuôn mặt hiền từ, mái tóc bồng bềnh của một thi sĩ, một người lãng mạn nhẹ nhàng.
Thầy vào lớp, không sách, không vở, không tài liệu cầm tay. Thầy nói thao thao bất tuyệt về văn chương, chữ nghĩa thơ phú, điển tích xa xưa, đến những bài thơ cổ, cả lớp vẫn ngồi im lặng say mê nghe Thầy nói. Và ngoài ra Thầy còn giảng dạy cho chúng con những điều phải trái, tư cách làm người, đạo đức. Thầy quả là có một tấm lòng nhân hậu thương yêu mọi người…
Rồi thời gian qua nhanh, đất nước không còn có được những ngày tháng thanh bình. Người Cộng Sản miền Bắc phát động cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam. Lũ chúng con, những thằng học trò cũ của Thầy, cùng với các thanh niên cùng trang lứa tại khắp bốn vùng chiến thuật Miền Nam, xếp bút nghiên xông vào chiến trận cùng nhau gánh vác khổ nạn của quê hương. Chúng con chiến đấu không mang mặc cảm làm tay sai cho ai, không bao giờ nghĩ mình là lính Ngụy. Chúng con chiến đấu không vì hận thù. Chúng con chiến đấu chỉ vì lý tưởng, vì quê hương, vì xứ Huế dấu yêu. Lớp Đệ Nhị B2 của Thầy có năm mươi thằng học trò. Thầy biết không, tàn cuộc chiến chúng con chỉ còn lại dăm ba thằng. Hầu như tất cả đã ngã gục ngoài chiến trường, ngã gục trước lằn tên mũi đạn của những đồng chí Cộng sản với thầy, để bảo vệ đồng bào làng xóm thân yêu, trong đó có cha, có mạ, có chị, có em, có hàng xóm gần, láng giềng xa, có xứ Huế, có sông Hương núi Ngự, có cầu Tràng Tiền sáu vài 12 nhịp.
Thầy còn nhớ Văn Đình Tùng không? Tùng có biệt danh Tây Lai bạn cùng lớp với con, Mễ, Huấn, v.v. Năm học Đệ Nhất B5 hắn đi khóa 18 Võ Bị cùng với Lê Văn Mễ, Lê Huấn, còn con ở lại học tiếp cho xong Tú Tài II sau đó quyết định vào Thủ Đức. Ra trường Võ Bị hắn làm sĩ quan Điều Không của Sư đoàn 18, sau đó đi Mỹ học khóa đại đội trưởng. Từ Mỹ về, Trung Úy Văn Đình Tùng ra làm Đại Đội Trưởng Đại đội Trinh Sát Sư Đoàn 2. Trong một cuộc hành quân đại đội hắn nhảy xuống vùng mà tin tức tình báo sai lạc, Đại Đội hắn bị hai tiểu đoàn quân thù vây kín, hắn bỏ súng nhỏ ôm súng lớn, súng đại liên bắn chận quân thù cho lính thoát thân. Lính chạy thoát được còn hắn bị quân thù đâm trên 100 nhát dao. Hắn chết đứng sừng sững giữa trời, hiên ngang như Từ Hải chết trong truyện Kiều mà thầy đã dạy tụi con.
Còn nữa, một thằng học trò nữa mà thầy không thể quên hắn, vì hắn là thằng phá phách nhất lớp Đệ Nhị B2, năm sau lên Đệ Nhất B5 và đi Khóa 18 Võ Bị. Hắn là Lê Huấn. Hành quân Hạ Lào hắn là Trung Tá Tiểu Đoàn Trưởng, và hắn cũng trở thành Cố Đại Tá Lê Huấn Vị Quốc Vong Thân.
Thưa Thầy, năm mươi đứa học trò của thầy ở lớp Đệ Nhị B2 đa số đều như Văn Đình Tùng, Lê Huấn.
Trước tháng 6/1966, con ở lính tại Chi Khu Nam Hòa. Tình cờ trong một lần hành quân để di tản đồng bào từ làng Lương Miêu, Dương Hòa, mật khu của Việt Cộng, đưa đồng bào về vùng an ninh của VNCH, cuộc hành quân phối hợp với một trung đoàn của Sư Đoàn I Bộ binh, con gặp một vài thằng bạn trong lớp Đệ Nhị B2 như Trung Úy Nguyễn Tần, Đại Đội Trưởng, Thiếu Úy Trần Vĩnh, Tiền Sát Viên Pháo Binh, và một vài thằng nữa. Trên bước đường xuôi ngược của người trai thời loạn, gặp nhau quả thật xúc động. Chúng con ngồi kể chuyện xưa, chuyện học trò, chuyện trường Quốc Học. Chúng con nhắc đến tên Thầy với niềm kính trọng và trìu mến như chạm vào một kỷ niệm đẹp của tuổi học trò.
Thế nhưng, định mệnh thật trớ trêu. Bẵng đi vài năm, vào tháng 6 năm 1966 khi cuộc phản loạn của Trí Quang, Đôn Hậu tại Huế đang ở giai đoạn cao điểm, con từ Chi Khu Nam Hòa về giữ chức vụ Phó Trưởng Ty Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc Ty CSQG Thừa Thiên-Huế, một đơn vị nhỏ trong đại đơn vị của Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan dẹp loạn Miền Trung. Con quá ngỡ ngàng Thầy lại ở trong hàng ngũ phản loạn tiếp tay cho Cộng sản tàn ác chống lại chính quyền Quốc Gia..
Đời sống thật quả thật có những tình cờ oái ăm làm cho con người gặp nghịch cảnh phải cứng họng, cứng lưỡi chẳng thốt lên được một lời nói nào. Đó là trường hợp của con lúc bấy giờ. Vì hai người nguy hiểm nằm trong hàng ngũ địch phá rối trị an tại Huế lúc bấy giờ, một người là Thầy của con, Thầy Hoàng Phủ Ngọc Tường, và người kia là bạn học từ những năm học tiểu học tại trường tiểu học Nam Giao là Nguyễn Đắc Xuân.
Con sẽ phải đối phó với họ bằng những hành động thẳng tay nhất. Những kẻ theo giặc, nếu bắt sống được họ, thì phải bỏ tù họ và đày đi Côn Đảo với đề nghị bản án nặng nhất, còn nếu phải chạm súng, con sẽ phải dùng hỏa lực mạnh nhất để triệt hạ ngay.
Trong hồ sơ cá nhân của Thầy và Nguyễn Đắc Xuân mà lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt do con chỉ huy đã sưu tầm cập nhật, thì Thầy là cán bộ trí vận hoạt động trong giới học sinh, sinh viên tại Đại Học Huế, và trong lực lượng phản loạn của Trí Quang và Đôn Hậu. Thầy là người của Khu Ủy Khu 5 Việt Cộng, và cán bộ Cộng Sản chỉ đạo của thầy là Hà Kỳ Ngộ bí danh Thành, có phải vậy không Thầy?
Về Nguyễn Đắc Xuân thì hắn cũng hoạt động trong tổ trí vận của cơ quan Thành Ủy Huế. Hắn phụ trách về học sinh, sinh viên Đại Học Huế. Cán bộ Cộng sản chỉ đạo hắn là Hoàng Kim Loan, Thành Ủy Viên Thành Ủy Huế.
Tóm lại Thầy và Nguyễn Đắc Xuân là hai tay nằm vùng thứ thiệt của Cộng sản từ năm 1963 và cũng là hai tay rường cột của Trí Quang và Đôn Hậu trong mọi cuộc dấy loạn từ 1963 đến 1966, và Mậu Thân 1968 tại Huế.
Thưa Thầy,
“Đã có điều gì làm cho Thầy bất mãn trong đời sống hằng ngày của một sinh viên Đại Học Sư Phạm thuộc trường Đại Học Sàigòn? Chính phủ VNCH thời đó đã cấp học bổng cho Thầy ăn học với số tiền là một ngàn năm trăm đồng (1500$) mỗi tháng, như Thầy đã viết trong hồi ký:
“Năm 1957, tôi vào ở Sàigòn, trọ tại cư xá sinh viên Miền Trung ở đường Bùi Quang Chiêu (nay là đường Đặng Thị Nhu). Sáng nào cũng ăn phở Bắc Hà ở tiệm Trường Ca đường Yersin ngay đầu phố. Học bổng sinh viên Đại học Sư Phạm khóa I được 1500$ một tháng, mà trong khi đó tô phở chỉ có một đồng (1$), nên xem ra tôi sung sướng hơn sinh viên bây giờ. Sáng nào cũng ăn phở, mỗi tháng chỉ mất 30$.”
(Hoàng Phủ Ngọc Tường tuyển tập 1. Trang 28)
“Đã có điều gì làm cho Thầy bất mãn trong đời sống hằng ngày sau khi tốt nghiệp trở thành một thầy giáo trung học đệ nhị cấp? Chính phủ VNCH bổ nhiệm Thầy dạy các trường lớn như trường Quốc Học, Đồng Khánh, và với đồng lương của một giáo sư có bằng Đại Học Sư Phạm bốn năm Thầy có thể ăn bao nhiêu ngàn tô phở buổi sáng?
Thầy cũng đã sống, đã hưởng những ngày tháng sung túc về vật chất, và thanh bình tốt đẹp của Miền Nam Việt Nam, bên cạnh người tình xinh đẹp dịu dàng Tôn Nữ Bảng Lãng. Vậy thì tại sao và cái gì đã biến đổi Thầy từ một vị thầy giáo được học trò kính mến, một nhà trí thức đúng nghĩa, một nhà giáo đạo đức hiền lành trở thành kẻ tàn bạo vong ơn bội nghĩa, trở thành người Cộng sản sắt máu man rợ, tại sao vậy Thầy? Tại sao? và Tại sao?…
Chúng con, những thằng học trò cũ của Thầy, nghĩ mãi không ra, không có lý lẽ nào nghe được. Chỉ có thể kết luận có lẽ Thầy bị bệnh hoang tưởng, bệnh ảo tưởng nghĩ rằng Cộng Sản Miền Bắc là thiên đàng hạ giới, là chế độ biết chiêu hiền đãi sĩ, là nơi để cho Thầy phát huy tài năng hiếm có của mình chăng? Chủ thuyết Cộng sản lôi cuốn mê hoặc Thầy đến thế hay sao? Và một điều ngạc nhiên lạ lùng là cái gì đã biến đổi Thầy từ bản chất của một người hiền lành, nhân hậu, thành một tên dối trá không ngượng miệng, một ác quỷ giết người không gớm tay. Thầy say máu người còn hơn ác quỷ Dracula.
Chẳng lẽ thầy bị bệnh điên loạn, bệnh “thần kinh thương nhớ”? Hay Thầy cũng giống như tên PolPot lãnh tụ Khmer Đỏ, một trí thức cũng như Thầy, đã ra tay giết gần 2 triệu đồng bào Khmer của hắn ta để thực hiện Chủ Nghĩa Cộng Sản sắt máu mới thỏa lòng hả dạ. Thật tình chúng con không hiểu nổi tại sao Thầy lại biến đổi nhanh như vậy.
Thưa Thầy chắc hẳn Thầy không bao giờ quên sau năm 1975 tại Huế, trong một buổi trà dư tửu hậu tại một nhà người bạn với rất đông bạn bè của Thầy tham dự. Một trong những người bạn thân nhất của Thầy, người đã từng hoạt động với Thầy trong tổ trí thức vận, kẻ đã từng chuyển tờ báo “Việt Nam Việt Nam” của Thầy vào Quy Nhơn, vào Sàigòn là Giáo sư Bửu Ý, cũng là thầy dạy Pháp Văn của tụi con ở lớp Đệ Nhất B5 tại trường Quốc Học, ông ta đã chỉ vào mặt Thầy và nói rất nặng lời. Con xin lỗi thầy phải nói lại nguyên văn lời Thầy Bửu Ý nói với Thầy như sau:
“Tường, mi là một thằng trí thức sắt máu hèn hạ, giờ nầy mi chưa sáng mắt, còn chạy theo liếm đít Đảng nữa hay sao?”
Có lẽ Thầy Bửu Ý vẫn chưa hiểu hết con người Thầy Tường, vì Thầy Tường hoạt động cho Cộng sản từ trước năm 1963. Đến năm 2003 mặc dầu đã cố gắng phục vụ Bác và Đảng, tạo được biết bao nhiêu thành tích, bao nhiêu công trạng hiển hách, giết được vô số Mỹ Ngụy, trong đó phải kể đến công trạng to lớn nhất của Thầy Tường đối với Bác và Đảng là tàn sát dân Huế trong Mậu Thân 1968, lập Tòa Án Nhân Dân chôn sống cả trên 200 tên phản động, vậy mà vẫn chưa được Bác Đảng cho Thầy trở thành đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam. Công chưa thành danh chưa toại, nên Thầy Tường phải tiếp tục sự nghiệp dang dỡ, tiếp tục hạ mình luồn cúi đến cùng để đạt được cái thẻ Đảng. Chỉ vậy thôi thưa thầy Bửu Ý! Xin cho con trả lời câu hỏi trên của Thầy về Thầy Tường.
Mấy năm gần đây khi Thầy lâm trọng bệnh phải ngồi xe lăn, nghe nói Thầy đã được bọn chúng cho Thầy vào Đảng. Thầy đã có thẻ đảng trở thành đảng viên Cộng sản, con cũng mừng cho Thầy là dù sao cuối đời cũng đạt được ý nguyện. Chúc mừng Thầy!…. Chúc mừng Thầy!…
Có lẽ mong ước của một kẻ trí thức như Thầy muốn lưu lại một cái gì đẹp đẽ cho đời sau về mình, về dòng họ mình. Nhưng thưa Thầy, Thầy đã khôn một thời và dại một đời. Thầy và thằng em ruột của thầy là Hoàng Phủ Ngọc Phan đã lưu lại cho hậu thế và lịch sử những nguyền rủa, phỉ nhổ, kinh tởm vào cá nhân hai anh em Thầy và làm xấu hổ cho dòng họ của Thầy. Những nấm mồ tập thể của dân Huế còn đó thì tội lỗi của cả hai anh em Thầy nhúng tay vào máu dân lành vô tội Huế Mậu Thân 1968 vẫn còn đó. Cái mà Thầy đã làm cho dòng họ mình đó là dòng họ Thầy phải gánh chịu tội ác không bao giờ tẩy rữa được này.
Thưa Thầy, dân chúng làng Bích Khê, quận Triệu Phong tỉnh Quảng Trị, nơi nguyên quán của Thầy, họ đã từng hãnh diện là tại làng Bích Khê có được một dòng họ Hoàng Phủ.
Lịch sử đã ghi vào năm 1882, Henri Rivière hạ thành Hà Nội lần thứ hai, Tổng Đốc Hoàng Diệu thắt cổ tử tiết vì không giữ được thành. Vị phụ tá Tổng Đốc Hoàng Diệu là quan Tuần Vũ Hoàng Hữu Xứng đã tuyệt thực để tạ tội với Vua, tạ lỗi với đồng bào vì đã không làm tròn nhiệm vụ Vua giao, và ông chỉ ngưng tuyệt thực khi Khâm Sai Đại Thần Trần Đình Túc mang Chiếu Chỉ của Vua Tự Đức ra Hà Nội lệnh cho Tuần Vũ Hoàng Hữu Xứng ngưng tuyệt thực.
Thưa Thầy, Thầy có biết quan Tuần Vũ Hoàng Hữu Xứng là ai không? Quan Tuần Vũ Hoàng Hữu Xứng chính là Nội Tổ của hai anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan.
“Nội Tổ của Thầy danh giá như vậy đó, trung liệt như vậy đó, thì tại sao hai anh em của Thầy nỡ lòng nào bôi xấu dòng họ mình, làm nhục tổ tiên mình, làm hoen ố tên tuổi quan Tuần Vũ Hoàng Hữu Xứng, để đến nỗi sau Mậu Thân 1968, các vị bô lão của làng Bích Khê vì quá hổ thẹn với hành động sát hại đồng bào Huế do hai anh em Thầy gây ra, họ đã phải buộc miệng nói rằng: “Thói đời, hổ phụ sinh hổ tử, tại sao lại có chuyện nghịch đời hổ phụ sinh cẩu tử”.
Thưa Thầy,
Thầy có biết không, đã bốn mươi hai năm trôi qua, hằng năm mỗi lần Tết đến, khi nhắc đến cuộc tàn sát kinh hoàng do Thầy và em ruột của Thầy là Hoàng Phủ Ngọc Phan gây ra thì mọi người dân Huế không một ai là không kinh tởm, không nguyền rủa Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan. Nói đến tang tóc đau thương của 5327 sinh mạng dân lành vô tội và hơn 1200 người mất tích ở Huế là nói đến các tên Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Thầy có biết không?
Như vậy kể từ tháng 6/66, thầy trò chúng ta ơn đoạn, nghĩa tận. Chúng ta không còn gì để giữ tình thầy trò. Biên giới đã được phân định. Thầy và Nguyễn Đắc Xuân thuộc về bờ Bắc, và tôi thuộc về bờ Nam của dòng sông Bến Hải chia đôi đất nước tại vĩ tuyến 17.
Trong chức vụ phó Trưởng Ty Cảnh Sát Đặc Biệt của Bộ Chỉ Huy CSQG/Thừa Thiên-Huế, trách nhiệm của tôi là phải vô hiệu hóa mọi công tác của đám cán bộ, cơ sở nội thành Việt Cộng, phải bắt giữ tất cả. Và một trong những mục tiêu quan trọng mà lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt của tôi phải vô hiệu hóa càng sớm càng tốt đó là Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân.
Tôi đã bố trí lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt để bắt giữ Thầy. Còn nhớ trước khi Thầy và Hoàng Phủ Ngọc Phan thoát lên mật khu, chiều hôm đó Thầy từ nhà tên Chính, cơ sở nội thành ở đầu cầu Phủ Cam trên đường Phan Chu Trinh thuộc Quận III Thị xã Huế, di chuyển sang nhà của Trịnh Công Sơn. Ăn cơm tối với Trịnh Công Sơn xong, thì hai cán bộ nội thành thuộc tổ trí vận của Thành Ủy Huế đến đưa Thầy và Hoàng Phủ Ngọc Phan rời khỏi nhà Trịnh Công Sơn bằng chiếc xe hơi màu trắng của bà Đào Thị Xuân Yến tức bà Tuần Chi chạy lên Chùa Linh Mụ. Rồi từ đó Thầy và Hoàng Phủ Ngọc Phan đi đường bộ qua ngã Long Hồ Ngọc Hồ, vượt nguồn tả sông Hương lên vùng mật khu núi Chuối, tức núi Kim Phụng. Hai cán bộ nội thành đón hai anh em Thầy không ai khác hơn là giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm đóng vai cận vệ, và tài xế là Lê Cảnh Đạm, Tổng Thư Ký trường Đại học Y Khoa Huế.
Tôi là một sĩ quan tác chiến mới vào nghề an ninh tình báo nên chưa đủ bản lãnh và kinh nghiệm của nghề nghiệp, cũng như chưa đủ bản chất lạnh lùng của một sĩ quan tình báo khi thi hành công tác. Vì vậy tôi đã vấp phải một lỗi lầm rất lớn để phải ân hận suốt đời, là giao công tác hệ trọng nầy cho viên phụ tá của tôi, anh Xuân, trưởng ban Hoạt Vụ chỉ huy, còn tôi đứng khá xa, vì tôi không nỡ làm hành động trò trực tiếp bắt thầy. Nếu tôi đích thân chỉ huy lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt vây bắt Thầy tối hôm đó, chắc chắn thầy không tài nào có thể chạy thoát được.
Tại sao? Lý lẽ duy nhất để biện minh cho hành động tắc trách của tôi lúc đó là đạo nghĩa, là giáo dục của phụ thân tôi, là giáo dục của của học đường Miền Nam, của thầy Hoàng Phủ Ngọc Tường, của xã hội Miền Nam Việt Nam: Một chữ nên thầy một ngày nên nghĩa, nên tôi đã không thể vượt qua hàng rào đạo đức lễ giáo. Lúc đó tôi cũng chưa được huấn luyện và dày dạn phong sương để có thể có được hành động và trái tim lạnh lùng của một sĩ quan tình báo. Hành động trò đi bắt thầy là một hành động khó có thể chấp nhận được. Cũng vì lễ giáo đó mà nay tôi phải ân hận suốt đời, đã để xổng một con ác quỷ! Tôi đã không hiểu thấu một lý lẽ quan trọng: Nếu cần phải vô hiệu hóa một người để cứu một trăm người, thì đó là chuyện phải làm.
Không còn gì để nói về tình thầy trò giữa tôi và Thầy. — Liên Thành…
Tường chết lúc 80 tuổi . Vậy lúc học trò cũ LT gởi thư, Tường chỉ mới 57, nghĩa là còn khá trẻ . Nếu còn có lương tri, Tường sẽ có tâm trạng thế nào nhỉ ? ( và không thể chịu nổi sự thật, Tường sẽ không đủ can đảm để đọc hết thư của ông LT ?! ) .
Qua cách chối tội của Tường khi được đài nước ngoài phỏng vấn thì rõ ràng, Tường muốn chôn dấu tất cả tội lỗi của mình . Hèn !
Còn gã Nguyễn Đắc Xuân được phong ( hay tự phong ) là nhà “Huế học”, y sẽ tha hồ vo tron bóp méo lịch sử, nhất là vụ thảm sát Mậu Thân ở Huế . Đừng tin hắn và đừng đọc sách của hắn, chỉ là những điều dối trá mà thôi .
nguyễn đát xuân = siêu trùm khoa ĐỒ TỂ CỐ ĐÔ HUẾ !!!
Thật ra thầy hồ chí meo chí phèo của bọn âm phủ ngọc tường, nguyễn đát xuân và ngay cả âm thu hương GẤP 1.000.000 so với tội ác của bọn chúng !!!
https://universite-digitale1.com/wp-content/uploads/2018/05/MeVietNam.jpg
TRIỆU LƯƠNG DÂN VIỆT
Một Lá thư tuyệt vời không còn gì hơn nữa tuyệt vời trong Văn học Việt Nam
Cần cho Thế hệ Hôm nay và Mai sau soi Tâm tình, Lương tri và Lương tâm của mỗi cá nhân vào Tấm gương này phản chiếu rõ ràng về Một Thời đau thương của Dân Việt trong Nội chiến Quốc-cộng lần hai sau Sông Gianh là Bến Hải trong Bối cảnh Chiến tranh Lạnh mà Việt Nam đã lỡ chọn lầm Đại lộ hướng về Tương lai …..
Lá thư tuyệt vời trên cả Tuyệt vời dù rất riêng tư nhưng lại chung nhất trưng bày Lương tri và Tội ác đủ làm điểm tựa cho một phim bản filmscript về Một Thời đau thương của Dân Việt trong Nội chiến Quốc-cộng lần hai trong Bối cảnh Chiến tranh Lạnh rất tiếc trong và ngoài Quê Hương không AI đủ Văn tài viết nên cho Nhà đạo diễn trẻ tài hoa Phạm Thiên Ân
quay dựng thành phim ảnh mà theo thiển nghĩ tôi cũng đẹp và thâm thuý như Tình Thầy trò của vị Tổng thống Carnot của Văn minh Pháp vẫn về ghé thăm Người Thầy già bậc sơ cấp khai mở bài học mở lòng đầu đời cho mình Tiếng Mẹ Pháp và Toán cộng trừ ….
Tổng thống Carnot ghé vào thăm trường và đến ngay trước mặt thầy giáo cũ, lễ phép: “Chào thầy, con là Carnot, thưa Thầy còn nhớ con không?”. Rồi ông nói với những học trò nhỏ: “Tôi trước là mang ơn Mẹ Cha, sau là ơn Thầy đây. Nhờ Thầy chịu khó dạy bảo, tôi mới làm Tổng thống Pháp hôm nay”.
Rất tiếc Tổng thống Carnot bị ám sát đâm vào ngực thủng tim trong chuyên kinh lý về thành phố Lyon lúc 21 h 15, trên đường phố Cộng Hòa vào ngày rue de la République 24 tháng Sáu năm 1894 bởi tên tị nạn người Ý vô chính phủ Sante Caserio mới có 20 tuổi
Nhân chuyện đâm dao vào ngực Tổng thống Pháp cũng nên nhắc lại Tổng thống Pháp Paul Doumer – nguyên Toàn quyền Đông Dương đã lưu lại bao công trình kiến trúc trên Đất Việt ông yêu thương cũng bị ám sat vào ngày 6 tháng Năm năm 1932, vào tuổi 75 bởi tên tị nạn người Nga tên Paul Gorgulov
Paul Doumer là Toàn quyền Đông Dương từ năm 1897 đến năm 1902 và Tổng thống Pháp từ năm 1931 đến năm 1932 ( mất đêm 7 tháng Năm năm 1932 tại Bện viện Hôpital Beaujon
gần Paris)
Tại Việt Nam, dấu ấn Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer thể hiện ở các công trình cơ sở hạ tầng và kiến trúc cổ xưa. Còn ở Hà Nội, cầu Long Biên từng một thời mang tên ông, với bao câu chuyện ít được biết tới.
Trong năm năm nhiệm kỳ của mình, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đã canh tân hiện đại tạo cho Lào – Việt Nam – Campuchia, cùng bao công trình lớn xây nhiều cây cầu và cơ sở hạ tầng để đời khắp nước Việt: Long Biên ở Hà Nội, Tràng Tiền ở Huế, Bình Lợi ỏ Sài Gòn, thương cảng Hải Phòng, hệ thống đường sắt xuyên Đông Dương, đường sắt Vân Nam
Paul Doumer còn xây dựng cơ sở vật chất văn hóa và khoa học: khu nghỉ dưỡng trên cao ở Đà Lạt, ông ban lệnh lập ra nhiều học viện nghiên cứu, như Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp – EFEO, Đại học Y khoa Hà Nội, Viện Pasteur Nha Trang cả Công viên Bách Thảo
Paul Doumer sinh ngày 22.3.1857 tại Aurillac, thuộc vùng Cantal trong một gia đình 3 chị em, trên ông có hai chị gái. Cha Paul Doumer làm nhân viên lắp đặt đường ray nhưng mất khá sớm, còn mẹ thì không nghề nghiệp
Năm 12 tuổi, ông đã phải đi kiếm sống, làm thợ khắc, sau đó vào học trường dạy nghề.
Sắc lệnh của tổng thống Pháp phê chuẩn việc bổ nhiệm Paul Doumer làm Toàn quyền Đông Dương ban hành vào ngày 27.12.1896
Vào ngày 17.1.1897 tại bến cảng Marseille, Paul Doumer cùng vợ hiền lên tầu biển đến Sài Gòn mang theo hai cô con gái, một 16 tuổi và một 14 tuổi. Cô con gái thứ ba là Germaine sau này được sinh tại Vũng Tàu
Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer tổ chức lễ khánh thành cầu mang tên mình Doumer sau đổi tên thành Long Biên trước khi Paul Doumer từ giã giã từ Hà Nội ngày 2.2.1902 về Pháp nhận nhiệm vụ mới
Chưa hết chuyện dài, Bà Hoàng Thị Thế là con gái rượu của Hoàng Hoa Thám – ‘Hùm thiêng Yên Thế’ từng là con nuôi Tổng thống Pháp Paul Doumer mà ông có dịp biết khi Bà mới có 6 tháng tuổi con của vị thủ lãnh kháng chiến chống Pháp …như Tổng thống Pháp Jacques Chirac nhận cô gái Việt tị nạn làm con nuôi
Bà Hoàng Thị Thế là con gái duy nhất của Hoàng Hoa Thám, người lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa chống Thực dân Pháp, nhưng cũng lại là con gái nuôi của Tổng thống Pháp Paul Dᴏumеr ăn học thành danh về Thời trang và nữ diễn viên người Pháp gốc Việt đầu tiên
Chân thành cảm ơn Thiếu tá Liên Thành đã lưu lại một Áng thư thầy-Trò đánh mốc trong Văn học Sử Nước nhà ….
Thân chúc Ông cùng toàn gia đình mạnh khoẻ hạnh phúc và kiên định Nhân chứng Việt Sử vạch mặt tội ác cỗ máy vịt gian hại Dân bán Nước của vịt cộng do tên đầu sỏ siêu vi trun??g c.uốc chí phèo hồ chí meo đệ tử ruột MAO XẾNH XÁNG áp đặt lên Tổ Quốc Việt Nam
https://www.hanoiparis.com/construct.php?page=poesie2&idfam=28
TRIỆU LƯƠNG DÂN VIỆT
Lá thư soi sáng nhiều điều về con người hpnt ( y không xứng đáng để tên được viết hoa) . Còn nữa,”tâm sinh tướng” ;thắc mắc tướng mặt dữ dằn của một cựu nhà giáo Việt Văn vốn nho nhã hiền lành, cho thấy dấu ấn của tội ác và trừng phạt ghê gớm như thế nào .
Từng là một học trò, tôi cũng rất hiểu nỗi lòng anh Liên Thành, phải ra phải, trái ra trái, ân nghĩa ra ân nghĩa, hận thù ra hận thù nhưng trong hận thù vẫn còn chút ân nghĩa là lối hành xử của người quân tử dù phải lãnh đủ vì còn chút ân nghĩa đó.
Từng là một học trò, tôi rất hiểu nỗi lòng và cái khó của ông Liên Thành.
Tội ác rõ ràng như vậy! Thế mà vẫn có tên còn khen là tài hoa và đạo đức! Đúng là tai hoạ và đạo đức giả!
Biến thày giáo Hoàng Phủ Ngọc Tường thành một tên đồ tể khát máu, cộng sản VN quả thực là tài tình sáng suốt.