Tác giả: Henry Kissinger
Đỗ Kim Thêm, dịch
29-4-2023
Tiếp theo phần 1 — phần 2 và phần 3
Trong cuộc họp ngày 8 tháng 10, ông đột nhiên đưa ra một tài liệu chính thức, với tài liệu này, Hà Nội sẽ chấp nhận đề xuất cuối cùng của Nixon vào tháng Giêng. Ông xác định là: Đề nghị mới này đúng là của Tổng thống Nixon tự đề xuất: Đình chiến, chấm dứt chiến tranh, trao trả các tù binh và rút quân.
Chủ yếu các điều này là đúng, dù có một vài cạm bẫy được nhận ra trong các cuộc đàm phán. Nhưng khi chấp nhận chính phủ Sài Gòn như là một cấu trúc liên tục, chúng ta đã đạt được một trong những mục tiêu chính.
Khi Lê Đức Thọ chấm dứt, tôi yêu cầu có thời gian. Sau khi ông rời phòng họp, tôi quay sang Winson Lord, người bạn và là một phụ tá đặc biệt của tôi, bắt tay ông và nói: “Chúng ta có thể tiến hành việc này” (5).
Sau khi kềm chân chúng tôi gần ba năm dài, bây giờ, Lê Đức Thọ thay đổi hẳn thái độ, bởi vì Hà Nội nóng ruột khi cho rằng, các cuộc đàm phán đang đứng trước cuộc bầu cử tổng thống Mỹ; mặt khác, sau đó Hà Nội lo sợ phải thương thuyết với vị tổng thống tái đắc cử do đa số chọn.
Nixon ý thức rằng trong nhiệm kỳ thứ hai có lẽ ông sẽ gặp phải thái độ thù nghịch của Quốc hội, khi họ sẵn sàng cắt giảm các viện trợ cho chiến tranh.
Trong một thời gian ngắn, các tính toán về chiến thuật của hai phía cùng theo về một hướng: Cuối cùng, cuộc xung đột đã đến một điểm mà các học giả nghiên cứu về các giải pháp trong hội nghị cho rằng đã chín muồi.
Khi Lê Đức Thọ và tôi cùng trải qua ba ngày ba đêm dài để soạn thảo bản thoả thuận chung quyết (ngoại trừ việc đồng thuận của Nixon và Sài Gòn), hoà bình đang trong tầm tay, và Hà Nội thúc giục chúng tôi kết thúc ngay công việc.
Nhưng cả Nixon và tôi đều không muốn kết thúc cuộc chiến bằng cách áp đặt lên dân tộc mà họ đã đứng về phía chúng ta chiến đấu trong suốt 20 năm. Và Sài Gòn cũng biết rõ là cuộc chiến đấu sống còn của họ không thể kết thúc với một hòa ước, họ kiên quyết về các cuộc đàm phán được kéo dài qua các chi tiết, trong một tiến trình cho thấy là không phải chỉ có miền Bắc có khả năng chịu đựng. Thật ra, chiến thuật trì hoãn của Sài Gòn có ý nghĩa sâu xa hơn: Lo sợ bị bỏ rơi với một kẻ thù ngoan cố, mà từ “hoà bình” đối với họ chỉ có ý nghĩa chiến thuật.
Trong khoảng thời gian này, tình hình đúng là một sự đảo ngược, mà nó đã xảy ra trong suốt nhiệm kỳ đầu của Nixon: Hà Nội thúc ép chúng tôi kết thúc một thỏa ước mà họ kéo dài gần mười năm. Họ muốn quy định cho chúng tôi về những gì đã được thảo luận và công bố toàn bộ các văn bản về kết quả đàm phán.
Trong cuộc họp báo ngày 26 tháng 10 năm 1972, tôi giải thích về diễn tiến của tình hình và nhấn mạnh là vẫn còn cam kết cho quy luật đàm phán. [Với sự đồng thuận của Nixon], tôi dẫn nhập bằng cách dùng câu: “Hoà bình đang ở trong tầm tay”. Tôi kết thúc lời tuyên bố với đoạn văn nhằm phản ảnh mức khẩn thiết và giới hạn của chúng tôi:
“Chúng tôi sẽ không để bị thúc ép trong một thoả ước, cho đến khi nào mà các quy định của thoả ước này là hợp lý. Chúng tôi cũng sẽ không để bị chệch hướng từ một thoả ước mà những quy định của thoả ước này là đúng đắn. Và với thái độ này và sự hợp tác của phía bên kia, chúng tôi tin là có thể tái lập rất sớm hoà bình và thống nhất tại Hoa Kỳ”.
Sau khi Nixon tái đắc cử vào ngày 7 tháng 11, Lê Đức Thọ tin rằng thời gian đã đến cho phía của ông và dùng các chiến thuật để làm đình trệ trong thời kỳ trước khi cuộc đột phá về đàm phán.
Cho đến đầu tháng 12, Nixon kết luận rằng, Hà Nội đang tìm cách kéo dài các cuộc đàm phán trong nhiệm kỳ thứ hai của ông, ông đề ra một chiến dịch không kích với phi cơ B-52 để chống các mục tiêu quân sự. Lệnh này đã bị truyền thông, Quốc hội và quốc tế phê bình kịch liệt.
Nhưng hai tuần lễ sau, Hà Nội trở lại bàn hội nghị, và đồng ý các tu chỉnh do Sài Gòn đòi hỏi. Hòa ước Paris được ký kết vào ngày 27 tháng 1 năm 1973, văn bản bao gồm các điều khoản quan trọng mà Nixon đề ra một năm trước đó.
Chín quốc gia, cũng như các chính phủ Sài Gòn và Hà Nội và Cộng Sản miền Nam chính thức đồng thuận bản hòa ước và đánh dấu một cao điểm về chính sách Việt Nam của Nixon.
Tuy nhiên, vào tháng 3, Hà Nội lại vi phạm hòa ước một cách nghiêm trọng, bằng cách dùng đường mòn Hồ Chí Minh để đưa một số lớn thiết bị quân sự vào miền Nam. Đầu tháng 4 năm 1973, Nixon quyết định không kích trên các đường tiếp vận của Hà Nội. Việc này được dự định cho đầu tháng 4, sau khi các tù binh Mỹ hồi hương từ các nhà tù Bắc Việt.
Giữa tháng 4, John Dean, Cố vấn Toà Bạch Ốc, bắt đầu hợp tác với các công tố viên liên bang trong vụ điều tra liên quan đến các cáo buộc việc tham gia vụ nghe lén và các hoạt động khác của Nixon. Vụ lùm xùm này loan ra tai tiếng rất nhanh, mà ngày nay nổi danh là Watergate. Do ảnh hưởng của vụ này, Quốc hội dùng quyền bảo lưu để cấm toàn bộ các hành động quân sự tại Đông Dương.
Hòa ước Paris luôn tuỳ thuộc vào tinh thần sẵn sàng và khả năng chấp hành các điều kiện quy định này. Hòa ước dựa trên sự mặc định là, đầu tiên, như trong cuộc tấn công của Bắc Việt trong năm 1972, Sài Gòn đã chứng tỏ có khả năng cầm cự các khả năng quân sự của Bắc Việt, cho đến khi nào mà miền Nam nhận được tiếp liệu như đã ghi trong Hiệp định, (cụ thể là, các vũ khí và thiết bị được thay đổi trên căn bản một đổi một), thứ hai, trong trường hợp có một cuộc tấn công toàn diện của Bắc Việt, không lực Mỹ sẽ sẳn sàng hỗ trợ.
Trong cuộc điều tra Watergate, công luận mệt mỏi, không hỗ trợ cho một cuộc xung đột thêm tại Đông Dương. Quốc hội cắt giảm toàn bộ các viện trợ quân sự cho Kampuchea và vì thế, để nước này cho Khmer đỏ chiếm đóng. Quốc hội giảm bớt viện trợ quân sự và kinh tế cho Nam Viêt Nam đến 50%, cấm chỉ mọi hoạt động quân sự bằng bộ binh, không quân trong và tại các ven biển của Bắc Việt, Nam Việt, Lào và Kampuchea. Trong tình hình này, việc thực thi các giới hạn của Hiệp định là không thể được, và các hạn chế dành cho Hà Nội tiêu tan.
Với Hiệp định Paris, Nixon đã mang về cho đất nước một kết quả thể hiện được vinh dự và địa chính trị, mà kết quả này về sau bị choáng ngợp do thảm hoạ nội chính. Tháng 8 năm 1974, Nixon từ chức tổng thống. Tám tháng sau đó, Sài gòn thất thủ sau một cuộc tấn công toàn diện của quân đội Bắc Việt, kể cả các sư đoàn chiến đấu. Ngoài Hoa Kỳ, không một nước nào trong số chín cường quốc quốc tế đứng ra bảo đảm Hiệp định, phản đối.
Chiến tranh mang lại một sự phân hoá nội bộ trong xã hội Mỹ, cho đến nay vẫn còn xâu xé. Cuộc xung đột mang lại một phong cách trong cuộc thảo luận công cộng mà nó có ít liên quan đến nội dung hơn là động cơ chính trị và các bản sắc. Nổi giận đã thay thế cho cuộc đối thoại như là một phương tiện để thực hiện các tranh chấp, và sự bất đồng trở thành một cuộc xung đột của các nển văn minh. Trong tiến trình này, người Mỹ đang đứng trước cơ nguy trong việc quên đi các điều kiện mà các xã hội trở thành vĩ đại, nó không phải chỉ bằng chiến thắng của một phong trào hay đè bẹp chống đối trong nước, không phải là chiến thắng của phe này với nhóm kia, mà là qua một mục tiêu chung và hoà giải.
__________
Chú thích của tác giả:
1. Khi làm như vậy, Johnson đã tuân theo trường phái tư duy đang thịnh hành, thuyết này cho rằng những thách thức của cộng sản tại châu Á có cùng đặc điểm với châu Âu trong thập niên1940 và 1950. Do đó, Mỹ có thể chống lại bằng cách đề ra những lằn ranh an toàn cho dân chúng bị đe doạ, họ có thể tập hợp để theo đuổi tự do của họ. Thật không may, có một sự khác biệt quan trọng giữa hai trường hợp: về cơ bản, các xã hội châu Âu là gắn kết và do đó, khi mang lại được an ninh, họ có thể để xây dựng bản sắc lịch sử của họ.
Ngược lại, Đông Dương bị chia rẽ về sắc tộc và do nội chiến. Chiến tranh xâm lược diễn ra không chỉ qua các ranh giới theo địa lý mà còn ngay trong lòng xã hội. Năm 1965, Lâm Bưu, trợ lý của Mao, đã đưa ra một tuyên ngôn kêu gọi nông dân khắp thế giới trỗi dậy và đánh bại các thành phố. Cả hai chính quyền Kennedy và Johnson giải thích các thách thức của cộng sản là một cuộc thập tự chinh trong toàn cầu, mà trong đó Đông Dương tiêu biểu cho giai đoạn đầu tiên.
2. Tôi không có hồi ức hay phân tích lý do tại sao hoặc ai chọn tên cho các bí danh này.
3. Vào tháng 6, ngay trước khi Nixon khởi hành cho chuyến đi vòng quanh thế giới, một cuộc triệt thoái gồm 30.000 quân đã được thông báo. Việc cắt giảm này được đề ra để chuẩn bị cho bản tuyên bố tại Guam, nhưng dường như đến quá sớm trong chiến lược.
4. Xem Chương 3, trang 170-171.
5. Winston đã được thuyết phục không nên từ chức để phản đối Hoa Kỳ khi xâm nhập nhằm chống các căn cứ của Hà Nội đóng tại Campuchia trong năm 1970. Tôi lập luận rằng, ông nên lựa chọn giữa hai việc, một là mang băng biểu tình trước Toà Bạch Ốc và hai là ở lại trong một thời gian để chúng ta cùng nhau hoàn tất nhiệm vụ.
6. Các giả định có thể so sánh được đã chi phối và duy trì Hiệp định đình chiến Triều Tiên năm 1953.
***
Bài liên quan: Henry Kissinger đã bỏ rơi miền Nam như thế nào? — Hồ sơ tội trạng của Henry Kissinger – Chistopher Hitchens — Chuyện thắng thua sau ngày 30 tháng 4 năm 1975
Một đằng cho rằng một chế độ còn hay mất là do lòng dân, một đằng suốt ngày bới ra nguyên nhân do ông mỗ, tình thế mỗ …. thế thì thế nào mới là nguyên nhân của mọi nguyên nhân.
Trong cuộc hội luận ngày 26-3-2023, giữa Hoàng Bách, Nguyễn Gia Kiểng, Nguyễn Lê Tiến, lần đầu tiên thấy sự thừa nhận lịch sử khách quan, phần lớn quan chức chế độ Sài Sòn là viên chức chế độ cũ, tức là ăn lương của Tây, theo Tây bắn ta, nên không được lòng dân. Ca tụng các vị ấy, đương nhiên là hạ nhục những Trần Trung Trực, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Đề Thám, Phan Châu Trinh …
Tiểu sử các vị này công khai trên mạng, ai cũng xem được, vậy mà muốn khai dân trí lại cứ ca tụng ông mỗ dẫn lời ông mỗ … không sợ trẻ con nó cười vào mũi.
Việc biểu tinh liên miên đã khiến người ngoài ngộ nhận là chế độ
mất lòng dân vì họ không hề biết rằng có sự xúi giuc khích động
của cán bộ nằm vùng vốn tìm đủ cách lợi dụng tự do dân chủ còn
phôi thai của VNCH.,tthưa ông !
Khach Quan @
Xin thưa, Nguyễn Gia Kiểng chẳng phải người ngoài.
Và thêm nữa, như thế tức là “dân ngu” nên nghe khích động, chẳng biết phân biệt đúng sai, đúng như giọng điệu của Thái Hạo.
Ra vậy, thay đổi chế độ là do “dân ngu” …. Thế này thì “khôn” lại thua “dại” … Quả là đời nhiều nghịch lý.
Xin lỗi. Lời của NGK,không phải là sự thật hơàn toàn để
ông xem đó là chân lý bất biến mà chỉ là nhận định chủ
quan của ông ta mà thôi và có thể là ông ta nói vậy để
“lấy lòng” người trong nước mà theo ông ta ? Ông ta đã
lôi kéo đưọc một số khoa bảng trong nước như ts.NTG.,
ông PQD., VCQ. v.v thậm chí Người Buôn Gió còn phong
ông ta là chí sĩ nữa đấy ! Tự do ngôn luận mà ông !
Chiến tranh VN. kết thúc TRƯỚC HẾT ỏ trên bàn hội nghị khi Kissinger qua mặt Nixon
về việc rút quân mà chỉ Mỹ rút, còn CS.Bắc Việt thì không. Stephen B. Young đã đúng
và trung thực hơn Kissinger vì K. viết để “chạy tội” là chính. Thế nhưng, cũng có phần
đúng về những việc sau đó là Nixon bị đàn hặc phải rút lui và Hạ Viện cắt đút viện trợ
dân sự, nhất là quân sự.
Có điều không hiểu nổi là tại sao sách ra năm 2022 mà lại có liên hệ với việc rút quân
Mỹ ở Afghanistan năm 2021 đưọc cơ chứ ? Chẳng lẽ dịch giả thêm vào ?
Sau khi lật đổ TT.Diệm thì Mỹ mới nhận ra tình hình miền Nam càng lúc càng tệ hại. Đó
là môt sai lầm “chết người” của Mỹ vì thiếu kinh nghiệm đối phó với hoạt động phá hại
và quấy rối từ thành thị đến nông thôn kết hợp với du kích chiến của CS.
Chỉ có nhũng nhà độc tài Á châu như Lý Quang Diệu, Phác Chánh Hy, kể cả Tưởng Giới
Thạch sau khi di tản đến Đài Loan mới thành công trong cuộc chiến chống CS. ! Chính
việc Mỹ tự tiện can thiệp vào rồi ngang nhiên bỏ đi đã khiến VNCH.sụp đổ !
Quốc kế Quốc sách là Lời giải Tối ưu cho Giấc mơ Việt Nam
***************************
Đất Nước lỡ vào tay vịt gian lạc quỹ đạo Tàu cộng
Càng ngày mỗi giây phút càng dễ nguy cơ diệt vong
Cần lấy giải pháp độc đáo hầu triệt tiêu siêu độc tố Hán
Mao – hồ đã tiêm chích tận di thể dễ đến Quốc vong
Khẩn cấp sáng kiến ngoại giao nhờ Dù Nguyên tử Mỹ
Lại phòng thêm Ô Pháp Dù Anh thêm ngoài vòng
Chỉ trừ Ô chệt ngay lạy chúng cũng không che chở
Tại sao ngay cả Ô dù Nga vì sao lại bảo không
Tập Cận Bình bố bảo không dám côn đồ như Đặng !!
Thuyết phục Nga Vĩ đại 1 Đai 1 Đường triệu hố chông
Chớ rơi vào vòng tay trun..g c..uốc tránh bùa thoát bẫy
Kẻo Tây bá Lợi á nạn nhân mãn Tàu bên vực tiêu vong
Nhắc Ấn chớ quên Chiến tranh biên giới Việt-Tàu & Trung-Ấn
Gia nhập NATO phương Tây – sáng lập viên phương Đông
Đi đầu nối kết vào JAUKUS *** chắc Biển Đông đỡ nạn
Thuế Dân dành hết cho đào tạo chuyển giao nghệ công
Bớt chi phí Quốc phòng + Liên minh Âu-Mỹ-Nhật-Úc-Ấn
Thoát Hán..g thoát Trun..g hướng Tây phương hết lòng
Với Dân tộc Trung Hoa tình hữu nghị láng giềng tôn trọng
Với Tàu cộng bành trướng Đại Hán bá quyền ta bảo KHÔNG
Xây dựng Việt Nam Dân chủ Dân quyền Dân sinh Pháp luật
Chắc chắn vòi bạch tuộc lưỡi bò Tàu đỏ trên Biển Đông
Tự cứu mình bằng Chính sách Đối ngoại minh bạch thẳng thắn
Độc lập – Tự do – Dân chủ – Chủ quyền… Toàn Dân Việt ước mong
Chính nghĩa cao vời vợi phù hợp Trào lưu Nhân loại Tiến bộ
Trăm triệu vì Tổ Quốc – Tương lai Một Lòng bên Biển Đông
https://universite-digitale1.com/wp-content/uploads/2018/05/MeVietNam.jpg
TRIỆU LƯƠNG DÂN VIỆT
*** JAUKUS = Japan + Australia + United Kingdon + United States