Cao Bồi Già
20-10-2021
Hai tiếng về quê;
Muôn lòng ấm áp.
Nhưng chẳng hớn hở như bao độ đón tết mừng xuân;
Mà kinh hoàng hơn cả phần tránh bom chạy giặc.
Nhớ ngày trước:
Nơi đồng mún ruộng manh, tựa cò om vượt quãng mò lội, chả miếng no lòng;
Chốn đất lành sông mật, như chim đậu tìm kế sinh nhai, ước phần dư dật.
Người công nhân – kẻ thợ hồ, trổ hoa tay chốn công xưởng, khắp cả vùng Nai–Thủ – Sài thành;
Chị bán bưng – ông vé số, rảo đôi chân mọi nẻo đường, đủ thanh giọng Nam – Trung –Quảng Bắc.
Bỏ bao công vất vả, mơ mái nhà vun đắp khang trang;
Đổi những bước nhọc nhằn, mong con cái học hành tươm tất.
Cố cần lao chốn đô hội lạ xa mọi lẽ, kiếm đồng hương nương tựa vui vầy;
Dù trú tạm nơi nhà trọ chật chội muôn bề, mặc tứ kỳ chiếu phòng nghỉ ngơi nóng rát.
Đổ mồ hôi lấy phần lãi nhỏ nhoi;
Vắt công sức lãnh đồng lương rẻ mạt.
Hướng quê mẹ chắt chiu;
Kiệm thân mình đổi đắp.
Đầu quý từng nắm bạc xẻn dè, dúi cho vợ, nuôi sấp nhỏ sách đèn;
Cuối tháng từng đồng xu nhặt nhạnh, gửi về quê, dưỡng mẹ cha tuổi hạc.
Chốn xưởng làm, duyên nợ se tóc, trai gái hoan hỉ thành đôi;
Nơi nhà trọ, tình yêu kết hoa, con trẻ oe oe góp mặt.
nào thiếu hạnh phúc lau dịu mồ hôi;
Vẫn có nụ cười lau vơi nước mắt.
Than ôi:
Giặc Vũ Hán bạo hung;
Mụ Cô Vi quái ác.
Làm buôn bán ế ẩm khó khăn;
Khiến việc làm trệ ngưng thất bát.
Lòng dạ người bán sức, đà đứng ngồi buồn so;
Đời sống kẻ xa quê, đã ngửa nghiêng lo thắt.
Quậy ba đợt tưởng xong;
Quá tam kỳ ngỡ thoát.
Thế mà:
Cúm Vũ Hán hồi lai;
Mụ Đeo Tà (Delta) bộc phát.
Giữa xóm trọ, một hai ca phát hiện F không;
Trong xưởng làm, vài ba kẻ ngoáy ra hai vạch.
Xưởng đóng cửa đành chịu ngưng im;
Người rớt lệ phải đi ly cách.
Vốn tay làm hàm nhai;
Giờ tay quai treo bát.
Gồng qua tháng từng chỗ trú, cậy lòng vàng rộng mở từ tâm;
Độ qua ngày từng bữa cơm, nhờ lá lành đùm thương lá rách.
Nhưng thoắt cái:
Gia Định hóa tâm dịch khắp chốn tóc tang;
Sài Gòn thành đất dữ trăm bề tan tác.
Bỗng bao dân chúng thất nghiệp quay quắt áo cơm;
Lại nhiều gia đình thọ tang ngập tuôn nước mắt.
Phong thanh mai giãn cách, vạn dân thành tỏa mua tích cốc ào ào;
Ngóng tin sắp phong thành, ngàn kẻ quê tìm đường thoát thân nhao nhác.
Bởi lo mốt thê thảm màn trời;
Vì sợ mai lắt lay đói khát.
Như kiến kéo đàn, vạn lý quyết đào vượt, chấp vạn lý xe máy cõng lôi;
Tựa ong vỡ tổ, trăm cây cũng phải về, mặc trăm cây xế câm gò đạp.
Vượt dặm dài thiên lý, nao lòng ấm dạ, luôn được tấm lòng vàng rộng mở trợ lương;
Cạn lực tàn vạn khê, thảng thốt gào trời, khi bị chốn chôn rau lạnh lùng chối phắt.
Bởi quan Tể lệnh ở đâu yên đấy rõ nghiêm;
Nên quan nhà phán ở đấy cấm vào gay gắt.
Hoảng nghe chuyện, nhiều kẻ ngụ cư chẳng dám liều thân;
Hãi nghe tin, lắm đôi xa xứ cố gồng dạ hắt.
Đeo Tà tấn công xóm trọ, kẻ ở người đi;
Tinh thần căng tợ dây đàn, dạ lo lòng thắt.
Thấy đồng hương:
F0 vào viện dã chiến, thiếu máy trợ hơi, không thuốc chữa trị, người lặng lẽ lên đài hóa thân;
F1 đi khu cách ly, chẳng sự chăm sóc, thiếu thốn chiếu giường, kẻ lạnh lùng về trong hũ đất.
ơn chủ tốt cho chỗ ngơi nằm;
nuốt mì tôm qua cơn đói khát.
Hơn một tháng phong thành,
Nhưng Đeo Tà tăng quậy phá đoạt hồn;
Nên bộ đội phải xuất quân kích giặc.
Thành phố sắp giới nghiêm;
Ngõ đường rồi hãm chặt.
Kẻ quê Bắc, lại kinh hoảng rồng rắn kéo lũ về quê;
Người mạn Trung, cũng hớt hãi xa mã rủ đoàn xuất phát.
Nhưng cửa ngõ thành phố, quyết liệt cấm ngăn vì cả mớ chỉ thị ở yên;
Và dân quân chốt đường, thuyết phục quay lại sẽ đầy đủ gạo tiền cấp phát.
Dân “nhạt” tin cả già trẻ, nằm đường ăn vạ nắng nung;
Quan sắt đá mặc dân đen, màn trời ướt dầm mưa rát.
Trời chẳng chịu đất, gang thép thị uy;
Đất phải thua trời, chân lùi tản mác.
Qua bốn tháng phong thành:
Kẻ xa xứ, loạn trí xang bang;
Dân ngụ cư thất thần xất bất.
Chẳng gì cả, người ăn bánh vẽ mươi tuần khóc đứng, khóc ngồi;
Một triệu đồng, kẻ được hỗ trợ bốn tháng cười dư cười dật.
Đầu tháng 10 được tin mở rào:
Lại ong vỡ tổ, người miền Tây vội cuống cuồng gót đáo về Tây;
Lại kiến kéo đàn, kẻ quê bắc cũng rùng rùng chân quay hướng bắc.
Thoát mau đợi hỗ trợ hoài, vài tháng ngất ngư;
Ở lại lỡ phong thành nữa, trăm phần chết giấc.
Kẻ có xe máy, con dại – áo quần – quạt máy lôi tha;
Người chỉ xế câm, vợ bầu – xoong chảo – chiếu chăn đèo tất.
Chẳng xe chẳng cộ, bà đẩy thùng cỡi dép tha tài sản nghèo đáo quán An Giang;
Không mã không xa, cha kéo con lội bộ trên tấm ván lăn quyết về Đồng Tháp.
Than ôi:
Gặp quan quân Thủ Một đã rào chắn hung ngăn;
Tới cửa ngõ Long An cũng quân dàn chốt chặt.
Mặc kệ thai phụ trẻ nít, ngồi la liệt hứng phơi ngọn nắng thiêu;
Chẳng thương ông lão bà mù, đứng liêu xiêu còn ném lời quát nạt.
Vô tri hóa vô tâm, lo thủ gìn áo mão, dân lòng giận phải ngửa cổ gào trời;
Chống dịch như chống giặc, tầm chẳng thấy vi trùng, quan mắt quáng cứ nhè dân là giặc.
Đội mưa dầm ngay giữa lộ, cả đêm bà bầu vỡ ối thai vong;
Giang nắng lửa kẹt chốt ngăn, suốt ngày bé thơ vật mình sảng ngất.
Thế mà quan chả động, dân cố kéo đoàn mở lời nài van;
Ấy vậy lính chẳng lay, người đành xếp hàng thắp hương vái lạy.
Cùng đường lộn tiết, đá vung trời để xé lệnh cấm ngăn;
Hết cửa sôi gan, gạch xung trận hòng phá rào chốt gác.
Mẻ đầu mẻ trán, lính bạo hung trút côn gậy ghè dân;
Toang chốt toang rào, quan hoảng hốt nhìn đoàn quân chạy “giặc”;
Quốc lộ Một, lọt cửa tuồng kiến ong bao kẻ chạy như vỡ mật vỡ mày;
Đường Trường Sơn, thoát vòng tợ rồng rắn đoàn người đi mà thất thần thất sắc.
Đồng Nai hỡi, cảm ơn nhé chốn đôn hậu cửa mời đón dung;
Sài Gòn ơi, tạm biệt mi nơi hào phóng rộng ơn chứa chấp.
Vạn lý quê nhà thót dạ cóng chân;
Ngàn trùng đất mẹ rùng mình mỏi mắt.
Đường đèo vất vưởng đầu dãi mưa sa;
Lộ ổ gập ghềnh mình phơi nắng gắt.
Thất vọng quá, nghe quan nhà lại lên tiếng kêu Trên cấm dân về thêm vài tuần;
Quá đáng thay, ngang mỗi tỉnh lại hao tiền bởi lính đè đầu ngoáy cho một phát.
Dân chẳng hiểu, quan sao tột độ điềm nhiên;
Quan có hay, dân đã quẫn cùng bi đát?
Nẻo quy tổ, trăm mối hiểm nguy chực chờ xe hỏng nạn tai;
Đường về quê, vạn điều vất vả dãi dầm nắng mưa bão táp.
Bạt ngàn rừng thẳm, mưa đổ đêm vùi cái rét kinh người;
Cheo leo đỉnh đèo, mây mù bão thổi vực sâu hút mắt.
Thanh niên phụ nữ tàn lực rớt đoàn;
Già lão sơ sinh sức cùng chết ngất.
Ấm lòng lắm, nghĩa đồng bào dọc đường chia sẻ cơm – cháo không đồng;
Hạnh phúc thay, tình đồng loại lỡ bước tiếp mời nước – xăng miễn bạc.
Trẻ cảm nắng, người nhiệt tình cứu giúp thuốc men;
Xe gãy sườn, kẻ hảo tâm tặng ngay chiếc khác.
Tưởng hơn phép trợ lực hồi sinh;
Ngỡ tột phù hà hơi tiếp giấc.
Chỉ thấy dân cứu dân;
Hẳn là quan sợ cách;
Lại sải bước, dù dốc đứng leo đạp đèo cao;
Lại lên đường, mặc gió bùng vượt qua bão táp.
Đường chạy dịch, nhuộm cả máu huyết đỏ lấm người xe;
Nẻo về quê, đâu chỉ mồ hôi mặn hòa nước mắt.
Đã gần đến nhà, hai mẹ con bị tử thương người tan xe nát, chửa hồi hương chân mãi viễn du;
Chỉ còn một quãng, đôi anh em sa ổ gà chân gãy đầu toang, nẻo quy quán đường càng xa lắc.
Toàn cầu thấy lạ, hình ảnh đoàn người leo đèo mà hầm đóng khe;
Hải ngoại luận đàm, cảnh huống dân ta chạy dịch bao lời kinh ngạc.
Ủa nọ điều phi cơ đến luôn Ả Rập, cứu dân mình nước bạn còn ghi;
Ồ trước đưa máy bay sang tận Hoa Kỳ, đón kiều bào tiếng vang chửa tắt.
Giờ sao dân lếch thếch, tàu lửa Nhà Nước nằm im;
Nay hỏi dân lết lê, xe đò quốc doanh đâu bặt?
Trên mới thẹn mặt, điều vài mô tô cảnh sát dẫn đường ò e;
Quan mới giật mình, lệnh mấy xe tải, xe đò trợ dân khẩn cấp.
Chạm ngõ tỉnh nhà, lệnh truyền người lập biên bản, xe máy đem giam;
Vừa về quê quán, rào chốt vây dân cách ly, chó mèo trấn ngạt.
Thương thay:
Người về tới đích, ngơ ngác thần hồn;
Kẻ vẫn nằm đường, tả tơi thân xác.
Sao dân tôi khổ thế, bao giờ đời mới yên;
Ôi đất nước tang thương, bao lâu dịch mới tắt.
Ông Cao Bồi Già là người làm thơ thể Phú số 1 ở VN ! Các câu đối với nhau chan chát thật tài tình,không tào lao như “Cuốc sư” Vũ Khiêu làm câu đối tặng bàn dân thiên hạ và tặng …cả mình nữa ! Ô hô !