2-9-2017
Trung Quốc đã tập trận bắn đạn thật trong vùng biển chủ quyền Việt Nam ngay thời điểm Hà Nội kỷ niệm lễ Quốc khánh lần thứ 72. Như thường lệ, Việt Nam vẫn phản đối chiếu lệ. Hà Nội không phải không xoay sở tìm kiếm ủng hộ bằng con đường ngoại giao trong vấn đề biển Đông nhưng Việt Nam ngày càng cô độc và bế tắc.
Ngày 11-7-2017, trang “rushfordreport” (Greg Rushford) cho biết, Hội thảo biển Đông lần thứ 7 do Trung tâm nghiên cứu quốc tế và chiến lược (CSIS, Washington DC) được tổ chức tại ngày 18-7, có sự tham dự của Singapore, Việt Nam, Philippines…, cùng U.S. Naval War College và Trung tâm nghiên cứu hải chiến Hoa Kỳ. Hội thảo còn có thượng nghị sĩ Cộng hòa Cory Gardner đặc trách châu Á thuộc Ủy ban quan hệ đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ. Đài thọ cho hội thảo là Học viện Ngoại giao Việt Nam. Kể từ năm 2012, Hà Nội đã chi cho CSIS hơn 450.000 USD để tổ chức hội thảo biển Đông hằng năm. Theo tìm hiểu của Greg Rushford, Hà Nội đã móc nối CSIS từ 25-4-2012 – ngày ký bản ghi nhớ giữa Hà Nội và CSIS.
Năm 2015, cố vấn cấp cao CSIS Murray Hiebert thừa nhận rằng, một nghiên cứu CSIS về quan hệ Mỹ-Việt do ông đồng tác giả đã được Hà Nội trả tiền. Bằng tiền Hà Nội, CSIS đứng sau nhiều hoạt động ngoại giao của Việt Nam trong nỗ lực lôi kéo Mỹ, dù Hà Nội luôn nói rằng họ không bao giờ liên minh một nước thứ ba để chống lại một nước khác. Chuyến công du Việt Nam của Tổng thống Barack Obama có sự vận động hành lang của CSIS. Việc Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương cho Việt Nam nhờ bàn tay CSIS. Việc Washington (thời Obama) ủng hộ Việt Nam gia nhập Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) cũng nhờ CSIS.
Reuters (3-7-2017) cho biết, việc Nguyễn Xuân Phúc đến Nhà trắng gặp Donald Trump vào cuối tháng 5-2017 cũng là kết quả một chiến dịch vận động hành lang. Hà Nội đã “bắn tin” Phúc muốn đến Mỹ ngay sau khi Trump đắc cử tổng thống. Cổng thông tin Chính phủ Việt Nam cho biết, ngày 14-12-2016, “Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã có cuộc điện đàm với Tổng thống đắc cử Hoa Kỳ Donald Trump”. Chẳng phải tự nhiên. Đây là kết quả cuộc vận động hậu trường giữa các viên chức ngoại giao Việt Nam, và của hãng lobby Podesta.
Căn cứ hồ sơ Bộ tư pháp Hoa Kỳ, theo Reuters, “không như hầu hết các nước Đông Nam Á”, Hà Nội đã chi khá hào phóng cho Podesta. Trong chiến dịch đưa Phúc đến Mỹ, bộ trưởng lẫn thứ trưởng ngoại giao Việt Nam đều đích thân sang Mỹ vận động. Tin được “bắn” vào Hội đồng an ninh quốc gia Hoa Kỳ, Văn phòng Phó Tổng thống Mike Pence, Bộ ngoại giao và Bộ quốc phòng; chưa kể các tổ chức nghiên cứu, doanh nghiệp, và dĩ nhiên Quốc hội Hoa Kỳ. Không phải đợi đến chuyến công du Mỹ của Bộ trưởng quốc phòng Ngô Xuân Lịch gặp đồng cấp James Mattis ngày 8-8-2017 người ta mới biết có chuyện sẽ có một cuộc ghé thăm của hàng không mẫu hạm Mỹ vào năm tới (2018). Trước đó vài tuần, một số tin rò rỉ đã tiết lộ điều này.
Dựa vào công bố tài chính theo quy định của “Đạo luật đăng ký các tổ chức đại diện nước ngoài” (Foreign Agents Registration Act), tờ The Daily Beast (25-5-2016) cho thấy, Hà Nội chi cho Podesta 30.000 USD/tháng từ ngày 2-12-2013 đến 31-12-2015 (tổng cộng khoảng 1,08 triệu USD). Tương tự CSIS, Podesta cũng tổ chức nhiều cuộc gặp viên chức Việt Nam tại các văn phòng Quốc hội Hoa Kỳ, và giúp móc nối các hãng truyền thông, trong đó có Politico, Roll Call, CNN, The Hill, PBS NewsHour, Washington Post, National Geographic, Food Network, New York Times và Wall Street Journal, nhằm “PR” cho hình ảnh Việt Nam. Podesta cũng đại diện cho Boeing và Lockheed Martin. Ngay trước chuyến công du Việt Nam của Barack Obama (23-5 đến 25-5-2016), một cuộc họp tuyệt mật giữa giới chức quốc phòng Việt Nam với đại diện Boeing và Lockheed Martin đã được tổ chức tại Hà Nội – theo Reuters (11-5-2016).
“Mình phải như thế nào người ta mới mời chứ!”. Ngoại giao quốc tế không đơn giản như Nguyễn Phú Trọng nói, đặc biệt đối với một nước “khác biệt” với văn hóa ngoại giao thế giới như “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” và khác biệt về mô hình chính trị với phần còn lại của thế giới. Để được “mới mời chứ”, Hà Nội đã và đang dùng mạnh lá bài kim tiền. Việc sử dụng hệ thống lobby “cửa sau” để được vào “cửa trước” thật ra chẳng có gì bất thường. Văn hóa lobby là một phần của văn hóa chính trị Mỹ. Hàng chục năm qua, thậm chí đồng minh thân tín của Mỹ như Nhật và Israel, cũng nhờ đến các hãng lobby. Trung Quốc đang sử dụng rất mạnh các kênh lobby Washington.
Tuy nhiên, tiền không phải mua được tất cả. Tại Diễn đàn ASEAN (Manila, 5-8 đến 9-8-2017), được tổ chức không lâu sau khi tập đoàn dầu khí Repsol rút khỏi vùng biển Việt Nam trước áp lực Trung Quốc lên họ lẫn lên Hà Nội, Việt Nam đã hoàn toàn thất bại trong việc lôi kéo ủng hộ từ một cộng đồng vốn dĩ yếu ớt và chưa bao giờ đoàn kết như ASEAN. Hà Nội đã “bé cái lầm” khi vội vã vận động hậu trường nhằm tìm kiếm hậu thuẫn Trump trong chính sách đối với Trung Quốc, dựa vào những phát biểu của Trump về Trung Quốc trước khi ông ta trở thành tổng thống. Việc Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị hủy cuộc gặp với đồng cấp Phạm Bình Minh tại Manila không phải là một “chiến thắng ngoại giao” của Hà Nội như một số nhà bình luận viết. Ngoại trưởng chủ nhà Philippines, Alan Peter Cayetano, đã dội một gáo nước lạnh: “Tôi không muốn đưa vấn đề này vào (các chủ đề bàn tại Diễn đàn). Nó không phản ánh vị trí hiện tại. Họ (Trung Quốc) không còn tranh chấp đất đai nữa. Tại sao các ông cứ lôi lại vấn đề này vào năm nay?”. Nói cách khác, tại Manila những ngày thượng tuần tháng 8-2017, Việt Nam hoàn toàn đơn độc.
Khó có thể phủ nhận cố gắng của Hà Nội trong việc tìm kiếm ủng hộ khu vực lẫn quốc tế trong vấn đề biển Đông. Tuy nhiên, mỗi quốc gia đều có những tính toán lợi ích ở từng thời điểm. Hà Nội không thể thuyết phục các nước gắn bó lợi ích quốc gia lâu dài của họ với lợi ích chủ quyền quốc gia mình. Hà Nội cũng không thể dựa vào chính sách Hoa Kỳ để viết ra sách lược đối với Trung Quốc. Dựa vào tổng thống Mỹ để lôi kéo ảnh hưởng Mỹ nhằm phục vụ chính sách đối ngoại quốc gia là chẳng hiểu gì về chính trị Mỹ. Khác biệt giữa Tòa bạch ốc, Bộ ngoại giao và Quốc hội trong nhiều vấn đề là chuyện bình thường. Chính sách đối ngoại Mỹ không phải do đảng của tổng thống hay cá nhân tổng thống có thể tự quyết. Quốc hội Mỹ, dư luận Mỹ, báo chí Mỹ và sau cùng là lá phiếu Mỹ mới là những yếu tố ảnh hưởng ít nhiều đối với các chính sách Mỹ nói chung.
Có một điều cần nhấn mạnh: các hãng lobby chỉ hoạt động thuần túy như doanh nghiệp. Có tiền thì họ làm. Họ làm cho túi tiền của họ chứ không phải cho Việt Nam. Họ có thể giúp “đánh bóng” Việt Nam nhưng điều đó chỉ có được trong khuôn khổ và giới hạn của một “bảng hợp đồng đánh bóng”. Đến giờ có thể thấy, Hà Nội sử dụng các kênh CSIS hoặc Podesta cho một số mục đích sau. Thứ nhất là để vận động hành lang nhằm tìm kiếm hậu thuẫn quốc tế cho vấn đề biển Đông, thứ hai là xây dựng quan hệ Mỹ-Việt, thứ ba là “xử lý khủng hoảng thông tin” trong các vụ vi phạm nhân quyền, thứ tư là tạo ra hình ảnh một quốc gia đang phát triển để lôi kéo đầu tư nước ngoài, thứ năm – như kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa phân tích – là sử dụng những phản hồi và dư âm từ các hội thảo quốc tế để “xây dựng niềm tin”, một cách lừa bịp, đối với người dân trong nước rằng “vị thế chính trị quốc tế của Việt Nam đang lên”, “thế nước đang lên”…
Nếu tiếp tục chính sách đối ngoại – với một tay luồn vào gầm bàn khều Mỹ; tay kia thò ra mơn trớn Trung Quốc, Việt Nam khó có thể chống lại Trung Quốc trong vấn đề biển Đông. Làm thế nào để “đánh” Trung Quốc nếu tiếp tục duy trì “tình hữu nghị truyền thống Việt-Trung do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông cùng các thế hệ lãnh đạo tiền bối đích thân gây dựng và dày công vun đắp là tài sản quý báu của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, cần phải kế thừa, gìn giữ và phát huy tốt hơn nữa trong tình hình mới” – như được tuyên “hùng hồn” trong Tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc trong chuyến kinh lý Bắc Kinh mới hồi đầu năm của Trọng (12-1 đến 15-1-2017).
Dĩ nhiên việc có mô hình “chính trị tương đồng, con đường phát triển gần gũi, có tiền đồ tương quan” (Tuyên bố chung 1-2017) thì không thể không đập nhau khi tranh chấp chủ quyền. Nhưng khi đồng ý ràng buộc vào việc “chia sẻ vận mệnh chung” như một cam kết trong quan hệ thì Hà Nội đã mặc nhiên chấp nhận thất thế trong các thương lượng chủ quyền. Đồng ý trói mình vào con tàu Trung Quốc, thay vì thoát Trung, thì sao có thể thắng Trung Quốc, và làm cho người khác tin rằng mình thật sự muốn đánh Trung Quốc, dù chỉ đánh trên mặt trận ngoại giao?
Hà Nội, đáng lý, và ngay bây giờ, là cần “chia sẻ vận mệnh chung” với chính đồng bào mình chứ không phải với Bắc Kinh. Thay vì chi nhiều triệu đôla để vận động hành lang quốc tế, Hà Nội có thể không tốn một đồng nào khi kêu gọi, một cách thực tâm, sự hỗ trợ pháp lý, cố vấn quân sự, cố vấn ngoại giao của các nhân tài, đặc biệt kiều bào. Không kêu gọi được sự trở về giúp đỡ hoặc cố vấn của những nhân vật kiệt xuất, như bà Giao Phan, người hiện giữ vai trò tổng giám đốc điều hành chương trình đóng hàng không mẫu hạm Mỹ, là một điều rất đáng tiếc. Có rất nhiều Việt kiều xuất sắc như bà Giao Phan. Hệ thống giáo dục Việt Nam hiện tại vĩnh viễn không bao giờ có thể đào tạo được những tinh hoa như vậy. Sau 1975, Hà Nội còn phạm một sai lầm ngu ngốc có tính lịch sử: trả thù những người lính và sĩ quan VNCH và thậm chí bác bỏ tư cách quốc gia của VNCH. Những anh hùng như Hồ Văn Kỳ Thoại, nếu được lưu dụng và được đối xử như những người cùng chung máu đỏ da vàng, chắc chắn sẽ giúp rất nhiều cho việc đối phó kẻ thù nghìn năm phương Bắc.
Với một chế độ, không có sự cô độc nào được nhìn nhận như một thất bại đáng hổ thẹn ê chề nhất, bằng sự cô độc đối với chính người dân mình. Muốn biết “thế nước” có “đang lên” hay không, hãy nhìn lại xem vị thế chính quyền trong lòng dân như thế nào.