Nguyễn Ngọc Chu
7-8-2025
Muốn bước nhanh thì cơ thể phải khoẻ mạnh. Nếu bị ghẻ lở, bệnh tật thì ốm yếu, không đủ sức đua đường trường.
Một quốc gia muốn vươn mình ganh đua với các cường quốc năm châu thì hệ thống quản trị phải khoa học, tiềm lực con người phải dồi dào được tự do phát huy hết năng lực, lãnh đạo giỏi giang, nội bộ trên dưới đồng lòng, không tự làm hại lẫn nhau.
Nay nhìn vào vụ án của thầy Trần Văn Tâm, nguyên hiệu trưởng Trường THCS Tam Giang Tây, Cà Mau, mà không khỏi ngậm ngùi. Không biết rồi sẽ vươn mình như thế nào nào nếu tiếp tục tự làm tổn thương mình bằng những vụ án như thế này.
1. SƠ LƯỢC VỤ ÁN
Ông Trần Văn Tâm, nguyên hiệu trưởng Trường THCS Tam Giang Tây (Cà Mau) bị truy tố về tội “tham ô” 10,7 triệu đồng do mua vật tư tự làm làm thiết bị cho nhà trường, nhưng mua hoá đơn để hợp thức chi phí.
Bản chất vụ việc là Trường THCS Tam Giang Tây thiếu một số thiết bị phục vụ công tác dạy học, Hiệu trưởng Trần Văn Tâm thông báo cho Hội đồng sư phạm Nhà trường biết, để thực hiện mua sắm. Sau đó ông Tâm tự mua vật tư, tự làm ra các sản phẩm (kệ tivi, ghế, thang kẽm…) giao cho nhà trường sử dụng. Vì sản phẩm tự làm, không có hoá đơn theo quy định, ông Tâm đã mua hoá đơn của doanh nghiệp khác để hợp thức hoá chi phí.
Thanh tra vụ việc bắt đầu vào tháng 5/2023. 7 tháng sau vụ việc được chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ngọc Hiển (cũ). Ngày 15/8/2024, ông Tâm bị bắt tạm giam để điều tra về hành vi tham ô tài sản 10,7 triệu đồng.
Tại toà sơ thẩm, ông Trần Văn Tâm bị kết án 7 năm tù, cấm đảm nhiệm chức vụ 2 năm, buộc nộp lại 10,7 triệu đồng. Ông Trần Văn Tâm kêu oan, khẳng định không chiếm đoạt, chỉ sai về thủ tục tài chính và đã nộp lại 10,7 triệu đồng. Toà phúc thẩm tỉnh Cà Mau hủy án sơ thẩm do vi phạm tố tụng, yêu cầu điều tra lại [1,2,3].

2. NGHỊCH LÝ CHUA XÓT
Thầy Trần Văn Tâm không tham ô, không chiếm đoạt. Sản phẩm của Thầy còn rẻ hơn đi mua ngoài thị trường. phục vụ nhanh hơn cho công việc giảng dạy. Sự chênh lệch hoá đơn mua vật tư với hoá đơn thanh toán 10,7 triệu đồng không xứng với sức lao động, công lao và tâm huyết của Thầy bỏ ra.
Trớ trêu thay, cũng sản phẩm đó, nếu Thầy Trần Văn Tâm mua của doanh nghiệp ngoài thị trường dù có đắt hơn thêm 10 triệu đồng nữa thì Thầy cũng không mắc tội. Nhưng Thầy dù làm lợi hơn 10 triệu đồng cho Nhà trường, mà không có hoá đơn, vì sản phẩm tự làm, thì Thầy bị quy là sai phạm. Cái quy định tài chính, tưởng là chặt, nhưng cứng nhắc, và người thanh tra, điều tra nhìn nhận sai bản chất sự việc đã thành những viên đạn xuyên vào lòng hướng thiện của người thầy giáo Trần Văn Tâm.
Cứ giả thiết rằng 10,7 triệu đồng là số tiền thất thoát. Vậy xã hội đã bỏ ra bao nhiêu tiền để thu lại được 10,7 triệu đồng này?
Đó là chi phí kéo dài nhiều tháng của: Thanh tra, điều tra của công an, viện kiểm sát, tố tụng tại toà án, quá trình thi hành án… Các khoản tốn kém vật chất này ước tính hàng trăm triệu đồng, nhiều gấp hàng chục lần số tiền 10,7 triệu đồng thu lại.
Vụ án đang kéo dài, điều tra lại, sẽ còn tốn kém thời gian tiền bạc nữa của cơ quan tố tụng để xác minh cho được số tiền thất thoát 10,7 triệu đồng mà ông Tâm đã nộp lại. Còn ông Tâm, trong lúc chờ đợi phán xét của cơ quan tố tụng tiếp tục ngồi tù (từ 15/8/2025). Tổn thất tinh thần của ông Tâm, của giáo viên, của xã hội chưa tính được.
Nghĩ mà chua xót. Cứ tiếp tục các vụ án như ông Trần Văn Tâm, kéo dài hàng năm với sức lực và trí lực của nhiều người, phải chi ra hàng trăm triệu đồng, nhưng chỉ thu lại 10,7 triệu đồng, thì đất nước làm sao có thể VƯƠN MÌNH được?
3. KHÔNG CÔNG BẰNG VÀ HÀ KHẮC
Hiệu trưởng một trường học vi làm đồ dùng dạy học cho trường mình quản lý với chi tiêu chưa hợp lệ 10,7 triệu đồng mà bị giam 7 năm tù. Vì mục đích phục vụ cho nhà trường, với thất thoát nếu có thì rất nhỏ, cùng lắm là xử phạt hành chính, nhưng cơ quan tố tụng đã biến thành vụ án hình sự dai dẳng tốn kém với hậu quả tù đày. Đây là một kết luận không công bằng và một hình phạt vô cùng khắc nghiệt.
Trong khi đó thì nhiều vụ án tham ô, biển thủ tài sản hàng tỷ đồng, hàng trăm tỷ đồng nhưng người phạm tội chỉ bị xử phạt nhẹ hoặc hưởng án treo. Có người làm thất thoát cả hàng ngàn tỷ đồng nhưng vẫn an toàn về hưu trí.
4. PHẢI NHỜ VÀO AI ĐỂ GIẢM ÁN OAN
Án oan ở nước ta rất nhiều. Không muốn viện dẫn ra các ví dụ làm nhói lên vết thương cũ. Chỉ muốn lưu ý rằng, yếu tố con người quyết định phần lớn án oan ở nước ta. Trước hết là bị ảnh hưởng bởi quyền lực, tiền bạc, lợi ích. Sau nữa mới đến sự hạn chế của hiểu biết và luật pháp.
Đã đến lúc phải nhờ cậy đến AI để giảm án oan. Chắc chắn sự công tâm và kho dữ liệu sâu rộng của AI sẽ đưa ra những kết luận khách quan và bao quát pháp luật cho các vụ án. Trung Quốc (nước có hệ thống chính trị tương đồng với Việt Nam) đã triển khai các “tòa án thông minh”. Cụ thể như Tòa án Internet Hàng Châu, nơi sử dụng AI để phân tích chứng cứ, nhận dạng mâu thuẫn trong lời khai và đề xuất mức án phù hợp dựa trên dữ liệu lịch sử. Tất nhiên, các phán quyết cuối cùng vẫn do con người đưa ra, nhưng dựa trên sự trợ giúp của AI về phân tích và đề xuất.
Với sự trợ giúp xét xử của AI, thầy giáo Trần Văn Tâm sẽ thoát cảnh tù đày. AI sẽ giúp loại bỏ các vụ án hình sự mà bản chất là xử phạt hành chính. AI sẽ giàm thiểu các vụ kiện tụng “tự mình hại mình”, tạo cơ hội cho “cơ thể đất nước” mạnh khoẻ để vươn mình.
5. BI KỊCH GIÁO VIÊN
Ở tuổi 54 vì 10,7 triệu đồng “lấy công làm lời” thầy giáo Trần Văn Tâm có nguy cơ bị ngồi tù cho đến hết tuổi về hưu.
Những năm tháng khó khăn, từ năm 1958 tại Điện Biên, quân đội bắt đầu tham gia sản xuất để cải thiện cuộc sống – như trồng lúa ngô mía, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản. Phong trào tăng gia sản xuất của quân đội vẫn được duy trì cho đến hiện tại. Họ nuôi cá, trồng rau, tận dụng không gian để làm vườn, ao nuôi – vừa tăng nguồn thực phẩm, vừa giáo dục trách nhiệm lao động, vừa rèn luyện sức khoẻ.
Việc làm của thầy giáo Trần Văn Tâm – tự sản xuất thiết bị cho nhà trường để lấy tiền công, vừa tăng thêm thu nhập cho cá nhân vừa giảm giá thành cho nhà trường – là việc làm rất đáng khuyến khích. Chính cái thủ tục “hoá đơn” cứng nhắc, và chính con người (từ thanh tra đến điều tra đến xét xử) còn “cứng nhắc” hơn đã hình sự hoá dẫn đến kết tội Ông.
Cách kiếm thêm thu nhập của ông Trần Văn Tâm rất đáng ngưỡng mộ trong khung cảnh xã hội ngày nay. Đó là cách kiếm tiền trong sạch mà lương tâm nhà giáo trong con người Ông vẫy gọi. Ông trả sức lao động của chính mình để gom nhặt những đồng tiền lẻ, không giống như cách chiếm đoạt, tham ô hối lộ hàng tỷ đồng của bao kẻ khác.
Nếu đời sống rộng rãi, ông Hiệu trưởng một trường THCS ở tuổi 54 tóc đã bạc màu, chẳng cần phải cưa đục gò hàn để kiếm thêm vài triệu bạc. Âu là vì sự chật vật của đời sống giáo viên.
Cử nhân tốt nghiệp đại học, mới ra trường, về dạy trường THCS bắt đầu nhận lương khởi điểm của giáo viên hạng III chỉ khoảng 5,48 triệu đồng/tháng (lương cơ sở 2.340.000 đồng/tháng nhân với hệ số hệ số 2,34). Nếu không thăng hạng, không bị kỷ luật, hoàn thành nhiệm vụ, thì sau khoảng 15 năm sẽ đạt được mức lương tột khung (bậc 8 hệ số 4.98) là 11.653.200 đồng/tháng. Còn trong điều kiện luôn hoàn thành nhiệm vụ, không bị gián đoạn công tác, có đủ chỉ tiêu thăng hạng mới có thể được thăng hạng II rồi hạng I. Để đạt mức lương tột khung bậc 8 (hệ số 6,78) của hạng I cần 30 -33 năm. Và đó là số tiền 15.865.200 đồng/tháng.
Lương là một phần. Đa phẩn giáo viên không có bổng lộc. Mà bổng lộc mới là con số rất lớn đối với một số tầng lớp. Nên giáo viên mới phải dạy thêm, làm thêm không ngại nghề gì.
Trường hợp thầy giáo Trần Văn Tâm không chỉ là án oan mà còn là một bi kịch. Bi kịch cho thầy giáo Trần Văn Tâm và gia đình. Bi kịch cho giáo viên và nền giáo dục. Bi kịch cho nền tư pháp. Bi kịch cho toàn xã hội.
Ngày xưa lãnh đạo phải vi hành để biết sự thật. Thời đại công nghệ thông tin, chỉ cần tự mình tìm đến truyền thông cũng biết được khá nhiều sự thật. Hy vọng rằng trường hợp của thầy giáo Trần Văn Tâm đến tai các vị lãnh đạo Nhà nước: Tổng Bí thư Tô Lâm, Chủ tịch nước Lương Cường, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Chủ tịch Quốc Hội Trần Thanh Mẫn.
Phải được nghe thấy. Không chỉ vì sự oan ức nghẹn lòng của thầy giáo Trần Văn Tâm. Mà vì muôn dân, vì sự VƯƠN MÌNH của dân tộc.
Nhưng trước khi thấu đến tầng cao, thì địa phương không thể ngồi nhìn. Lãnh đạo tỉnh Cà Mau, cụ thể là bí thư Nguyễn Hồ Hải, đừng để công dân trong phạm vi mình cai quản bị đối xử hà khắc. Bộ Giáo dục và Đào tạo không thể để giáo viên của mình bị kết án oan ức.
___________
TƯ LIỆU DẪN



“Ai cung gù, mình thẳng lưng trở thành khuyết tật”, lời của cựu trưởng phòng khảo thí Hoà Bình Diệp Thị Hồng Liên trước toà nghe mà chưa xót mà đau lòng cho cách nghĩ của một người từng cầm phấn, cầm bút dạy dỗ học trò. Lẽ nào, sống giữa những người mù phải chọc cho đui đôi mắt, sống giữa những người câm phải tự cắt lưỡi để khỏi bị coi là người khuyết tật?
Lãnh đạo tỉnh tỉnh Cà Mau, lãnh đạo bộ giáo dục nghĩ gì khi thày Trần Văn Tâm bị xử phạt 7 năm tù vì mua hóa đơn để quyết toán 10,5 triệu. Các vị sợ rằng nếu bảo vệ thầy Tâm mình là người thẳng lưng sẽ bị cho là khuyết tật hay sao?. Công đoàn ngành giáo dục Cà Mau, công đoàn ngành giáo dục trong cả nước chạy đi đâu rồi mà để cho đoàn viên của mình phải chịu mức phạt vô lý tới vậy. Le nào các quan chức của công đoàn ngành giáo dục Cà Mau và ngành giáo dục cả nước quên mất chức năng bảo vệ đoàn viên thuộc tổ chức mình. Các thày cô thuộc trường trung học cơ sở Tam Giang Tây Cà Mau lẽ nào không có ai dám thẳng lưng?. Ở đời, chỉ có sống bên những người ngọng mới dễ bị lây ngọng chứ có ai sống giữa những người gù lại trở thành gù. Lời thú nhận của nữ trưởng phòng tên Liên nghe lạ tai nhưng lại là thực tế, thực tế đau lòng giữa đời thường. Đám đông im lặng, hoặc cất giọng hoà cùng tiếng nói của lãnh đạo hay nói theo gợi ý của lãnh đạo là chuyện thường ngày trong các công sở kể cả trong trường học. Tôi không nghĩ những người im lặng hay nói theo giọng của lãnh đạo là những anh gù nhưng nếu ai đó cất tiếng nói trái với ý lãnh đạo người đó sẽ được nhìn với con mắt ngạc nhiên của đám đông. Ngạc nhiên nhìn đồng nghiệp của mình dám sống thẳng lưng phải chăng là cách biểu hiện cho rằng đồng nghiệp là người khuyết tật, khác với mọi ngươi? Thời nay, những người dám nhận mình là khuyết tật, khác với số đông cũng có, không đến nỗi quá hiếm nhưng cũng không phải là nhiều. Trong cơ quan cũng như ngoài xã hội, người mũ ni che tai, sống theo phương thức “không biết, không nghe, không thấy” thường dễ thở hơn người dám nói những gì mình biết, mình nghe, mình thấy. Ngay trong thế giới ảo, khi nói lên những suy nghĩ trái với đám đông, dù đúng hay sai bạn sẽ nhận được không ít gạch đá dành cho mình. Sống trong một xã hội định hướng, được đào tạo theo kiểu đồng phục, cái tôi bị hoà trong cái chúng ta, nhưng cái chúng ta thời này thường là cái tôi của lãnh đạo, ai đó vẫn giữ cái tôi của mình, không chịu hoà nhịp cùng cái chúng ta, bị coi là kẻ khuyết tật hay nói sang hơn là kẻ dị biệt cũng là điều dễ hiểu. Thể chế ta qua quan chức lãnh đạo các cấp muốn người dân nhìn về một hướng, đi theo một đường, nếu hướng và đường thể chế chọn là đúng, nếu quan chức mà thể chế chọn là người có tài, có tâm và có bản lĩnh thì người thẳng lưng làm sao lại bị coi là khuyết tật. Là nhà giáo, tôi cảm thấy buồn, thấy đau xót vì những giáo viên bị xử oan như cô giáo Nguyễn Thị Dung ở Nghệ An hay thày Trần Văn Tâm ở Cà Mau. Tôi cũng thấy hổ thẹn xen lẫn chua chát khi thấy 61 thày cô trường trung học phổ thông Lê Lợi Hà Đông cùng ký đơn xin giảm án cho Chữ Xuân Dũng, cựu phó chủ tịch Hà Nội trong vụ án Chuyến Bay Giải Cứu. Chử Xuân Dũng nhận hối lộ 2 tỷ đồng so với 10,5 triệu mà tòa án Cà Mau quy tội cho thày Trần Văn Tâm con số nào to hơn, ai đáng phạt nặng hơn thưa các thày cô trường trung học phổ thông Lê Lợi, trường trung học cơ sở Tam Giang Tây cũng như các thày cô trong cả nước?
Đọc tin hai vụ án của cô Nguyễn Thị Dung và thày Trần Văn Tâm tôi lại nhớ tới thời mình còn chưa mất dạy. Hàng năm bộ môn tôi phải thuê in đề thi hết khoảng từ 4 đến 5 triệu, thế nhưng không phải cửa hàng photo nào cũng có hóa đơn. Muốn được nhà trường thanh toán số tiền trên, dành phải mua hóa đơn giống cách làm của thày Tâm. Cũng may, không bị tố giác chứ nếu không tôi sẽ rơi vào hoàn cảnh tương tự như thầy Tâm. Nếu người ta sử dụng hình phạt tù khi mắc lỗi tương tự như thày Tâm thì có lẽ trên 75% các thầy các cô từ trưởng bộ môn đến cấp trưởng khoa, hiệu trưởng hiệu phó trong cả nước điều có thể bị phạt tù từ 2 đến 7 năm. Còn những người mắc lỗi tương tự như cô Dung xin các vị từng là trưởng phó khoa các trường đại học và các vị hiệu trường hiệu phó ở bậc học phổ thông cho ý kiến. Theo ước tính của tôi cũng trên 50% sẽ bị phạt tù như cô Dung. Câu nói nổi tiếng của bị can Diệp Thị Hồng Liên đã được 7 tuổi, không hiểu hiện nay ngành giáo dục nước nhà có bao nhiêu phần trăm các thày, các cô dám làm người khuyết tật khi sống thẳng lưng? Liệu quan chức của ngành giáo dục có đủ bản lĩnh đứng ra bảo vệ cho thày Tâm hoặc thuê luật sư bào chữa cho thầy trong phiên tòa phúc thẩm sắp tới hay không?
Ta hãy nhớ rằng số tiền tham ô, tham nhũng, … trong một vụ án càng ít bao nhiêu thì bị can càng bị án nặng bấy nhiêu.
Tại sao ư? Số tiền đó quá ít không thể đút lót, hối lộ tòa án, công an, viện KS, … Số tiền càng lớn, bị cáo càng nhanh được giảm án, ví dụ như vụ đại tá CA Đỗ Hữu Ca. Ca có đủ tiền để chia cho tư pháp.
Sao không thấy 1 luật sư nào lên tiếng vậy, toàn lên truyền hình nói luật, vậy mà việc nhỏ vậy mà không lên tiếng , báo chí cách mạng đâu sao không tìm những vụ án vậy khai thác
Con voi vẫn thường lot qua lỗ kim, thế rồi công lý đối khi ko còn là công lý nữa…
Một vết ô nhục khó rửa của ngành tư pháp nước ta. Một lũ quan tham đê tiện bỉ ổi đã hãm hại trắng trợn người Thầy của lòng dân.
Vụ án độc lạ thế kỷ mà để bàn cải hoài
Có khi cho điều tra mấy thằng ra bản án này lại lòi ra nhiều điều đáng nói hơn
Có khi cho điều tra mấy thằng ra bản án này lại lòi ra nhiều điều đáng nói hơn
Bài viết hết sức sâu sắc.
“chi tiêu chưa hợp lệ”
Tiến Sĩ Nguyễn Ngọc Chu quả danh bất hư truyền là Tiến Sĩ Toán, sai 1 chút thì không sao cả
“Nếu đời sống rộng rãi, ông Hiệu trưởng một trường THCS ở tuổi 54 tóc đã bạc màu, chẳng cần phải cưa đục gò hàn để kiếm thêm vài triệu bạc. Âu là vì sự chật vật của đời sống giáo viên”
Tại sao Thái Hạo không truyền lại kinh nghiệm của mình cho đồng nghiệp, để 1 trong những phải chịu thế này ?
Chắc tại vì Thái Hạo Phúc this xít, “cách kiếm tiền trong sạch mà lương tâm nhà giáo trong con người Ông vẫy gọi”. “Ông” ở đây là ông thầy hiệu trưởng . Chớ TH thì hổng thèm ngó tới lun, 1 đi là hổng (bao giờ) trở lại
Những quan tòa quen ăn hối lộ ,chạy án, khi không được hối lộ thì hại người ta nên cho ra khỏi ngành …!
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
ĐƠN KÊU CỨU VÀ TỐ GIÁC TỘI PHẠM
Kính gửi: Bác Tô Lâm – Tổng bí Thư
Cháu tên: Tạ Đình Bồn Sinh năm: 1976
Địa chỉ liên hệ: 123 đường Liên tỉnh 5, phường 5 quận 8, TP. Hồ Chí Minh.
Điện thoại: 0937779777.
Là người có quyền lợi liên quan trong vụ án dân sự “Tranh chấp đòi nhà, yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, tranh chấp quyền sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà ở” giữa nguyên đơn là bà Vương Ngọc Linh với bị đơn là ông Nguyễn Văn Dũng (Sinh năm: 1970; Địa chỉ: 674A Lạc Long Quân P. 9, Quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh).
Ngày 09/7/2025, nguyên đơn Vương Ngọc Linh đã có Đơn gửi Bác Tô Lâm – Tổng Bí thư để tố giác tội phạm là Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh có nhiều khuất tất trong việc ban hành Quyết định và phát hành Quyết định giám đốc thẩm số 61/2025/DS-GĐT ngày 09/4/2025; có dấu hiệu tham nhũng nghiêm trọng; coi thường pháp luật (xin gửi kèm theo).
Quyết định giám đốc thẩm số 61/2025/DS-GĐT ngày 09/4/2025, Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh nhận định “Tờ uỷ quyền” ngày 22/3/1992, các đồng thừa kế của ông Thuộc, bà Rỡ, gồm: ông Trần Văn Tý, ông Trần Văn Tâm, bà Trần Thị Kim Loan, bà Trần Thị Ánh Ngọc, thoả thuận có nội dung như sau: “Tổ phụ ông bà, cha mẹ chúng tôi để lại ngôi nhà 13/3 Lạc Long Quân, Phường 9, quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh cho 4 anh em chúng tôi cư ngụ. Nay vì điều kiện cuộc sống, mọi người đều có gia đình riêng, cho nên chúng tôi uỷ quyền lại cho: TRẦN THỊ KIM LOAN… đứng ra hoá giá, hợp thức hoá căn nhà và làm giấy phép xây dựng lại ngôi nhà kể trên, và tuỳ nghi sử dụng sau này. Nếu có ai tranh tụng về chủ quyền căn nhà chúng tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật” (xin đính kèm tài liệu). Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh nhận định: “Theo chứng cứ trên, bà Loan được quyền định đoạt đối với căn nhà này”.
Nhận định này của Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh là hoàn toàn không đúng, trái pháp luật. Vì:
+ Thứ nhất: Nội dung trong Tờ uỷ quyền hoàn toàn không có quy định nào để cho rằng bà Trần Thị Kim Loan có quyền được “bán”, “định đoạt” căn nhà. Trong Tờ uỷ quyền ghi “hoá giá hợp thức hoá” chứ không phải là “hoá giá, hợp thức hoá” (không có dấu phẩy). Cụm từ “hoá giá hợp thức hoá”: trong đó từ “hoá giá” để chỉ việc mua lại nhà ở thuộc sở hữu nhà nước chứ không phải quyền được bán; từ “hợp thức hoá” là chỉ việc làm thủ tục cấp sổ đỏ/sổ hồng. Như vậy, “hoá giá hợp thức hoá” để chỉ việc làm thủ tục mua lại nhà ở thuộc sở hữu nhà nước chứ không phải là uỷ quyền định đoạt, bán căn nhà. Cụm từ “hoá giá hợp thức hoá” được ghi trước các nội dung “và làm giấy phép xây dựng lại ngôi nhà kể trên, và tuỳ nghi sử dụng sau này” là rất phù hợp với bản chất uỷ quyền là làm thủ tục mua lại nhà của nhà nước trước rồi mới xin giấy phép xây dựng và sử dụng sau này (không thể hiểu là quyền được bán rồi mới xin giấy phép xây dựng, tuỳ nghi sử dụng sau này – không có tính lôgic).
+ Thứ hai: Trong Tờ uỷ quyền ghi “Tuỳ nghi sử dụng sau này” có nghĩa là tùy ý sử dụng. Trong đó, quyền sử dụng chỉ là một trong ba quyền đối với tài sản (quyền sử dụng, quyền chiếm hữu và quyền định đoạt). Như vậy, “tuỳ nghi sử dụng sau này” không có nghĩa là “tùy nghi định đoạt” hay “quyền định đoạt”, “quyền bán”. Tờ uỷ quyền đó chỉ là “thay mặt” chứ không phải “chuyển quyền sử dụng đất, chuyển quyền sở hữu nhà”. Nên Giấy uỷ quyền này không làm mất đi quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà đối với các đồng thừa kế khác.
+ Thứ ba: Khoản 3 Điều 153 Bộ luật dân sự năm 1995 quy định “Người đại diện chỉ được thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi thẩm quyền đại diện”.
+ Thứ tư: Tại Bản án sơ thẩm lần 01 (Bản án số 752/2018/DS-ST), Toà án nhân dân quận Tân Bình nhận định: “không có tài liệu, chứng cứ nào thể hiện bà Loan được sự đồng ý hay uỷ quyền của ông Tý, ông Tâm và bà Ngọc khi bán căn nhà trên cho ông Dũng nên Hợp đồng mua bán nhà ngày 17/5/1999 giữa bà Loan và ông Dũng vô hiệu cả về hình thức lẫn nội dung”.
Như vậy, bà Trần Thị Kim Loan không đủ thẩm quyền bán căn nhà tại địa chỉ số 13/3 (số mới 672/2) Lạc Long Quân, Phường 9, Quận Tân Bình. Do đó, Hợp đồng mua bán nhà giữa bà Trần Thị Kim Loan với ông Nguyễn Văn Dũng ký ngày 17/5/1999 là vô hiệu, trái pháp luật.
Ngoài ra, kể cả việc cố tình suy diễn để cho rằng Tờ uỷ quyền năm 1992 có nội dung uỷ quyền cho bà Trần Thị Kim Loan có quyền được bán căn nhà thì Hợp đồng mua bán nhà giữa bà Trần Thị Kim Loan với ông Nguyễn Văn Dũng ký ngày 17/5/1999 vẫn bị vô hiệu, trái pháp luật vì: Tờ uỷ quyền năm 1992 (lập ngày 22/3/1992) không ghi thời hạn uỷ quyền. Theo quy định tại Điều 563 Bộ luật Dân sự năm 2015 “Trường hợp không xác định thời hạn uỷ quyền, thì hợp đồng uỷ quyền có hiệu lực 01 năm, kể từ ngày xác lập”. Như vậy, Tờ uỷ quyền năm 1992 đã hết hiệu lực kể từ ngày 22/3/1993. Tức là thời điểm ngày 17/5/1999, Tờ uỷ quyền năm 1992 không còn giá trị – bà Trần Thị Kim Loan không còn là người nhận uỷ quyền theo Tờ uỷ quyền năm 1992. Do đó, Hợp đồng mua bán nhà giữa bà Trần Thị Kim Loan với ông Nguyễn Văn Dũng ký ngày 17/5/1999 là vô hiệu, trái pháp luật.
Ngoài ra, kể cả việc cố tình suy diễn để cho rằng Tờ uỷ quyền năm 1992 có nội dung uỷ quyền cho bà Trần Thị Kim Loan có quyền được bán căn nhà và cố tình cho rằng Tờ ủy quyền năm 1992 còn hiệu lực thì Ông Nguyễn Văn Dũng vẫn bị mất quyền khởi kiện để đòi sang tên quyền sử dụng đất và quyền sở hữu căn nhà nêu trên theo Hợp đồng mua bán nhà giữa bà Trần Thị Kim Loan với ông Nguyễn Văn Dũng ký ngày 17/5/1999. Vì Trong Hợp đồng mua bán nhà giữa bà Trần Thị Kim Loan với ông Nguyễn Văn Dũng ký ngày 17/5/1999 có ghi thanh toán đợt 2 là “Sau khi bên A hoàn thành thủ tục hợp thức hóa và sang tên cho bên B. Bên B sẽ trả hết 20 lượng vàng SJC còn lại”. Đến ngày 21/9/2001, ông Dũng trả hết 20 lượng vàng SJC còn lại cho bà Loan nhưng không yêu cầu sang tên nhà cho ông Dũng mà ông Dũng vẫn biết toàn bộ quá trình ông Trần Văn Tâm được uỷ quyền bán nhà, làm thủ tục sang tên nhà cho bà Hạnh và bà Hạnh tặng nhà, sang tên sổ cho Linh vào tháng 5/2009, và đến tháng 10/2009 Linh yêu cầu ông Dũng trả lại nhà cho Linh thì ông Dũng khi ấy mới bảo không trả nhà và tạo tranh chấp. Căn cứ Điều 429 Bộ luật dân sự năm 2015 “Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”. Như vậy, ông Nguyễn Văn Dũng đã hết thời hiệu khởi kiện để đòi sang tên quyền sử dụng đất và quyền sở hữu căn nhà nêu trên theo Hợp mua bán nhà giữa bà Trần Thị Kim Loan với ông Nguyễn Văn Dũng ký ngày 17/5/1999.
Trong khi đó, Nguyễn Văn Dũng sinh ra và lớn lên trong gia đình khó khăn, Dũng cũng bỏ học sớm, chơi bời lêu lỏng, là người ham chơi, lười làm. Năm Dũng 14 tuổi, bà Lâm Thị Hạnh là dì ruột của Dũng nhận Dũng về ở cùng để vừa giáo dục vừa để Dũng tham gia phụ giúp bà bán hàng thì Dũng lấy đâu ra 50 cây vàng để mua nhà. Bà Hạnh là người làm ăn kinh doanh, kinh tế khá giả. Trước khi bà Hạnh mất, năm 2008, bà Hạnh có 3 căn nhà tặng cho 3 cháu là Vương Ngọc Linh, Vương Vĩnh Phú và Nguyễn Văn Dũng. Bà Hạnh có nhà để cho các cháu thì liệu bà Hạnh có dùng thủ đoạn lấy nhà của Dũng để tặng cho Linh không??? Văn phòng công chứng đã chứng minh rằng bà Lâm Thị Hạnh minh mẫn khi thực hiện ký hợp đồng sang tên căn nhà nêu trên cho Linh.
Như vậy, cả về mặt pháp luật cũng như mặt thực tế thì bà Hạnh mới là người mua và thanh toán tiền mua nhà. Vậy mà Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh vẫn cố tình xét xử theo hướng ông Dũng là người mua và thanh toán tiền mua nhà.
Vụ việc này sau đó có nhiều khuất tất đáng ngờ:
1. Cho đến nay là tròn 04 tháng kể từ ngày Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh ban hành Quyết định giám đốc thẩm số 61/2025/DS-GĐT ngày 09/4/2025, toàn bộ nguyên đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều chưa nhận được Quyết định giám đốc thẩm số 61/2025/DS-GĐT (trừ Nguyễn Văn Dũng).
2. Kể từ ngày 09/4/2025 (ban hành Quyết định giám đốc thẩm số 61/2025/DS-GĐT) thì ông Dũng có quyền “được liên hệ với cơ quan có thẩm quyền xin điều chỉnh thông tin trên Giấy chứng nhận đối với nhà và đất nêu trên” – Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất và nhà nêu trên hiện đang đứng tên Cháu là Tạ Đình Bồn. Nhưng cho đến nay, ông Dũng chưa hề liên hệ với cơ quan có thẩm quyền xin điều chỉnh thông tin trên Giấy chứng nhận đối với nhà và đất nêu trên.
3. Vừa qua, có người liên hệ với Cháu và đặt vấn đề thu xếp để gặp trao đổi, thỏa thuận với ông Dũng theo hướng trả cho Cháu ½ căn nhà. Với việc Tòa án đã phán quyết rõ ràng là căn nhà đó của ông Dũng và ông Dũng được liên hệ với cơ quan có thẩm quyền xin điều chỉnh thông tin trên Giấy chứng nhận. Như vậy, ông Dũng muốn thỏa thuận với Cháu để làm gì????
Có người nói rằng sau khi Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh ban hành Quyết định giám đốc thẩm số 61/2025/DS-GĐT ngày 09/4/2025, đến ngày 25/4/2025 Vương Ngọc Linh có đơn gửi và yêu cầu Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh sớm xét xử (Vì Linh chưa biết Tòa đã xử). Trong đơn Linh có phân tích, lập luận Hợp đồng mua bán nhà giữa ông Dũng và bà Loan là vô hiệu. Do Tòa đã cố tình xét xử sai nên lo lắng và cùng ông Dũng tìm cách giải quyết êm đẹp nhất (là không phát hành Quyết định Giám đốc thẩm; đồng thời ông Dũng chưa được đi xin điều chỉnh thông tin trên Giấy chứng nhận ngay mà phải chờ 2 năm. Mặc dù Quyết định giám đốc thẩm lần 2 của Tòa án dân dân cấp cao là quyết định cuối cùng, có hiệu lực ngay, bên nguyên đơn không còn quyền kháng cáo nữa). Ngày 09/7/2025, Vương Ngọc Linh có Đơn gửi các cơ quan ở Trung ương để kêu cứu. Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh thấy vậy và sợ hãi nên đã bảo Dũng gặp Linh để trả lại căn nhà. Do Dũng tham, không muốn mất trắng căn nhà nên đã không trả lại nhà cho Linh mà nhờ người gặp Cháu để thỏa thuận chia đôi căn nhà (Cháu và ông Dũng, mỗi người một nửa).
Kính thưa bác Tổng bí thư Tô Lâm
Trước một quyết định đổi trắng thay đen của một cơ quan quyền lực như Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh – là một người dân thấp cổ, bé họng, không quyền, không thế đành bất lực đúng nhìn.
Bằng đơn này, Cháu xin tố giác tội phạm là Chánh án Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh và kính mong bác Tổng bí thư chỉ đạo:
1. Chỉ đạo các cơ quan chức năng có thẩm quyền vào cuộc để điều tra những sai phạm, khuất tất của Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh.
2. Chỉ đạo Chánh án Toà án nhân dân tối cao xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Quyết định giám đốc thẩm số 61/2025/DS-GĐT ngày 09/4/2025 của Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh.
Cháu xin chân thành cảm ơn./.
TP. HCM, ngày 09 tháng 8 năm 2025
NGƯỜI LÀM ĐƠN
Tạ Đình Bồn
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
ĐƠN TỐ CÁO
(Đ/v: Quyết định giám đốc thẩm số 61/2025/DS-GĐT ngày 09/4/2025 của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh vì kết luận trong Quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tôi và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – ông Tạ Đình Bổn)
Kính gửi: Ngài Tổng bí Thư Tô Lâm
Tôi tên: VƯƠNG NGỌC LINH Sinh năm: 1985
CCCD số: 079185021011
Địa chỉ liên hệ: Tầng 6, 241 Điện Biên Phủ, P. Võ Thị Sáu, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh.
Điện thoại: 0938899498.
Là nguyên đơn trong vụ án dân sự “Tranh chấp đòi nhà, yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, tranh chấp quyền sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà ở” với bị đơn – ông Nguyễn Văn Dũng (Sinh năm: 1970; Địa chỉ: 674A Lạc Long Quân P. 9, Quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh).
Ngày 09/4/2025, Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh đã ban hành Quyết định giám đốc thẩm số 61/2025/DS-GĐT. Quyết định giám đốc thẩm số 61/2025/DS-GĐT có nhiều lập luận không căn cứ, suy diễn các tài liệu, bỏ qua chứng cứ; Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh có nhiều khuất tất trong việc ban hành Quyết định và phát hành Quyết định giám đốc thẩm số 61/2025/DS-GĐT; có dấu hiệu tham nhũng nghiêm trọng; coi thường pháp luật.
Vì vậy, bằng đơn này, tôi xin tố cáo Chánh án Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh và kính mong ngài Tổng bí thư chỉ đạo:
1. Chỉ đạo các cơ quan chức năng có thẩm quyền vào cuộc để điều tra những sai phạm, khuất tất của Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh
2. Chỉ đạo Chánh án Toà án nhân dân tối cao xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Quyết định giám đốc thẩm số 61/2025/DS-GĐT ngày 09/4/2025 của Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh.
Nội dung vụ việc cụ thể như sau:
Tại Bản án sơ thẩm lần 01 (số 752/2018/DS-ST ngày 21/11/2018 của Toà án nhân dân quận Tân bình) và Bản án phúc thẩm lần 01 (số 288/2019/DS-PT ngày 10/4/2019 của Toà án nhân dân TP. Hồ Chí Minh) đều tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xác định Căn nhà thuộc quyền sở hữu hợp pháp của tôi và buộc ông Dũng trả lại Căn nhà cho tôi (căn nhà tại địa chỉ 13/3 (số mới 672/2) Lạc Long Quân, Phường 9, quận Tân Bình (“Căn nhà”)).
Tại Bản án giám đốc thẩm lần 01 (số 269/2019/DS-GĐT ngày 08/11/2019 của Toà án nhân dân cấp cao tại TP Hồ chí Minh) tuyên huỷ toàn bộ bản án phúc thẩm lần 1 và sơ thẩm lần 1; giao Toà án nhân dân quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại.
Toà án nhân dân quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lần 02 và đưa ra những nhận định suy diễn chủ quan, không có căn cứ, trái pháp luật để tuyên căn nhà thuộc sở hữu của ông Dũng và bác yêu cầu khởi kiện của tôi tại Bản án sơ thẩm số 416/2023/DS-ST ngày 07/9/2023 (“Bản án sơ thẩm lần 02”).
Sau đó, Toà án nhân dân TP. Hồ Chí Minh đã xét xử phúc thẩm lần 2 và tuyên tại Bản án dân sự phúc thẩm số 376/2024/DS-PT ngày 26/4/2024 (“Bản án phúc thẩm lần 02”) theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xác định Căn nhà thuộc quyền sở hữu hợp pháp của tôi và buộc ông Dũng trả lại Căn nhà cho tôi.
Tuy nhiên, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh kháng nghị giám đốc thẩm (Quyết định kháng nghị số 237/QĐ-VKS-DS ngày 15/10/2024) đưa ra những lập luận không có căn cứ, trái pháp luật để giữ nguyên Bản án sơ thẩm lần 02 và cho rằng Bản án phúc thẩm lần 02 tuyên không hợp pháp, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Dũng. Đặc biệt, Quyết định kháng nghị 237 đã suy diễn các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ theo hướng bảo vệ cho ông Dũng, người đã dùng mọi thủ đoạn để chiếm đoạt cho bằng được tài sản mà bà Ngoại tôi – cụ Lâm Thị Hạnh đã tặng cho tôi, xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của tôi và người thứ ba mua nhà ngay tình là ông Tạ Đình Bồn.
Từ những lập luận không căn cứ, suy diễn các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ theo hướng bảo vệ cho ông Dũng, Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh đã ban hành Quyết định giám đốc thẩm số 61/2025/DS-GĐT ngày 09/4/2025 (“Quyết định giám đốc thẩm 61”) chấp nhận toàn bộ nội dung tại Quyết định kháng nghị 237; Huỷ Bản án phúc thẩm số 376/2024/DS-PT ngày 26/4/2024 của Toà án nhân dân TP. Hồ Chí Minh; Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 416/2023/DS-ST ngày 07/9/2023 của Toà án nhân dân quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của tôi và ông Tạ Đình Bồn.
Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh có nhiều lập luận không căn cứ, suy diễn các tài liệu, bỏ qua chứng cứ; có nhiều khuất tất trong việc ban hành Quyết định và phát hành Quyết định giám đốc thẩm số 61/2025/DS-GĐT; có dấu hiệu tham nhũng nghiêm trọng; coi thường pháp luật. Cụ thể như sau:
I. Những Nhận định và Quyết định tại Quyết định giám đốc thẩm số 61/2025/DS-GĐT ngày 09/4/2025 của Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh không đúng sự thật, không đúng chứng cứ, bỏ qua chứng cứ, không đúng pháp luật xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của tôi và ông Tạ Đình Bồn. Cụ thể:
1. Nhận định 1: “Tờ uỷ quyền” ngày 22/3/1992, các đồng thừa kế của ông Thuộc, bà Rỡ, gồm: ông Trần Văn Tý, ông Trần Văn Tâm, bà Trần Thị Kim Loan, bà Trần Thị Ánh Ngọc, thoả thuận có nội dung như sau: “Tổ phụ ông bà, cha mẹ chúng tôi để lại ngôi nhà 13/3 Lạc Long Quân, Phường 9, quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh cho 4 anh em chúng tôi cư ngụ. Nay vì điều kiện cuộc sống, mọi người đều có gia đình riêng, cho nên chúng tôi uỷ quyền lại cho: TRẦN THỊ KIM LOAN… đứng ra hoá giá, hợp thức hoá căn nhà và làm giấy phép xây dựng lại ngôi nhà kể trên, và tuỳ nghi sử dụng sau này. Nếu có ai tranh tụng về chủ quyền căn nhà chúng tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật” (xin đính kèm tài liệu). Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh nhận định: “Theo chứng cứ trên, bà Loan được quyền định đoạt đối với căn nhà này”.
Nhận định này của Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh là hoàn toàn không đúng, trái pháp luật. Vì:
+ Thứ nhất: Nội dung trong Tờ uỷ quyền hoàn toàn không có quy định nào để cho rằng bà Trần Thị Kim Loan có quyền được “bán”, “định đoạt” căn nhà. Trong Tờ uỷ quyền ghi “hoá giá hợp thức hoá” chứ không phải là “hoá giá, hợp thức hoá” (không có dấu phẩy). Cụm từ “hoá giá hợp thức hoá”: trong đó từ “hoá giá” để chỉ việc mua lại nhà ở thuộc sở hữu nhà nước chứ không phải quyền được bán; từ “hợp thức hoá” là chỉ việc làm thủ tục cấp sổ đỏ/sổ hồng. Như vậy, “hoá giá hợp thức hoá” để chỉ việc làm thủ tục mua lại nhà ở thuộc sở hữu nhà nước chứ không phải là uỷ quyền định đoạt, bán căn nhà. Cụm từ “hoá giá hợp thức hoá” được ghi trước các nội dung “và làm giấy phép xây dựng lại ngôi nhà kể trên, và tuỳ nghi sử dụng sau này” là rất phù hợp với bản chất uỷ quyền là làm thủ tục mua lại nhà của nhà nước trước rồi mới xin giấy phép xây dựng và sử dụng sau này (không thể hiểu là quyền được bán rồi mới xin giấy phép xây dựng, tuỳ nghi sử dụng sau này – không có tính lôgic).
+ Thứ hai: Trong Tờ uỷ quyền ghi “Tuỳ nghi sử dụng sau này” có nghĩa là tùy ý sử dụng. Trong đó, quyền sử dụng chỉ là một trong ba quyền đối với tài sản (quyền sử dụng, quyền chiếm hữu và quyền định đoạt). Như vậy, “tuỳ nghi sử dụng sau này” không có nghĩa là “tùy nghi định đoạt” hay “quyền định đoạt”, “quyền bán”. Tờ uỷ quyền đó chỉ là “thay mặt” chứ không phải “chuyển quyền sử dụng đất, chuyển quyền sở hữu nhà”. Nên Giấy uỷ quyền này không làm mất đi quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà đối với các đồng thừa kế khác.
+ Thứ ba: Khoản 3 Điều 153 Bộ luật dân sự năm 1995 quy định “Người đại diện chỉ được thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi thẩm quyền đại diện”.
+ Thứ tư: Tại Bản án sơ thẩm lần 01 (Bản án số 752/2018/DS-ST), Toà án nhân dân quận Tân Bình nhận định: “không có tài liệu, chứng cứ nào thể hiện bà Loan được sự đồng ý hay uỷ quyền của ông Tý, ông Tâm và bà Ngọc khi bán căn nhà trên cho ông Dũng nên Hợp đồng mua bán nhà ngày 17/5/1999 giữa bà Loan và ông Dũng vô hiệu cả về hình thức lẫn nội dung”.
Như vậy, bà Trần Thị Kim Loan không đủ thẩm quyền bán căn nhà tại địa chỉ số 13/3 (số mới 672/2) Lạc Long Quân, Phường 9, Quận Tân Bình. Do đó, Hợp đồng mua bán nhà giữa bà Trần Thị Kim Loan với ông Nguyễn Văn Dũng ký ngày 17/5/1999 là vô hiệu, trái pháp luật.
Ngoài ra, kể cả việc cố tình suy diễn để cho rằng Tờ uỷ quyền năm 1992 có nội dung uỷ quyền cho bà Trần Thị Kim Loan có quyền được bán căn nhà thì ông Nguyễn Văn Dũng cũng hoàn toàn không có quyền đòi lại căn nhà nêu trên vì:
+ Hợp đồng mua bán nhà giữa bà Trần Thị Kim Loan với ông Nguyễn Văn Dũng ký ngày 17/5/1999 là vô hiệu, trái pháp luật vì: Tờ uỷ quyền năm 1992 (lập ngày 22/3/1992) không ghi thời hạn uỷ quyền. Theo quy định tại Điều 563 Bộ luật Dân sự năm 2015 “Trường hợp không xác định thời hạn uỷ quyền, thì hợp đồng uỷ quyền có hiệu lực 01 năm, kể từ ngày xác lập”. Như vậy, Tờ uỷ quyền năm 1992 đã hết hiệu lực kể từ ngày 22/3/1993. Tức là thời điểm ngày 17/5/1999, Tờ uỷ quyền năm 1992 không còn giá trị – bà Trần Thị Kim Loan không còn là người nhận uỷ quyền theo Tờ uỷ quyền năm 1992. Do đó, Hợp đồng mua bán nhà giữa bà Trần Thị Kim Loan với ông Nguyễn Văn Dũng ký ngày 17/5/1999 là vô hiệu, trái pháp luật.
+ Ông Nguyễn Văn Dũng đã từ bỏ quyền lợi và thừa nhận Hợp đồng mua bán nhà giữa bà Trần Thị Kim Loan với ông Nguyễn Văn Dũng ký ngày 17/5/1999 là vô hiệu. Trong Hợp đồng mua bán nhà giữa bà Trần Thị Kim Loan với ông Nguyễn Văn Dũng ký ngày 17/5/1999 có ghi thanh toán đợt 2 là “Sau khi bên A hoàn thành thủ tục hợp thức hóa và sang tên cho bên B. Bên B sẽ trả hết 20 lượng vàng SJC còn lại”. Đến ngày 21/9/2001, ông Nguyễn Văn Dũng trả hết 20 lượng vàng SJC còn lại cho bà Trần Thị Kim Loan nhưng không yêu cầu sang tên nhà cho ông Nguyễn Văn Dũng mà ông Nguyễn Văn Dũng vẫn biết toàn bộ quá trình ông Trần Văn Tâm được uỷ quyền bán nhà, làm thủ tục sang tên nhà cho bà Lâm Thị Hạnh và bà Lâm Thị Hạnh tặng nhà cho cháu ngoại là Tôi (Vương Ngọc Linh). Đồng thời không hề có giấy tờ chứng minh việc ông Dũng nhờ bà Hạnh đứng tên giùm (Có câu chuyện như trên là do bản chất của sự việc là bà Hạnh mới là người mua nhà, bỏ tiền ra để mua nhà và nhờ cháu của mình là Nguyễn Văn Dũng đứng ra làm thủ tục mua giúp căn nhà trên).
+ Ông Nguyễn Văn Dũng mất quyền khởi kiện để đòi sang tên quyền sử dụng đất và quyền sở hữu căn nhà nêu trên theo Hợp đồng mua bán nhà giữa bà Trần Thị Kim Loan với ông Nguyễn Văn Dũng ký ngày 17/5/1999: Trong Hợp đồng mua bán nhà giữa bà Trần Thị Kim Loan với ông Nguyễn Văn Dũng ký ngày 17/5/1999 có ghi thanh toán đợt 2 là “Sau khi bên A hoàn thành thủ tục hợp thức hóa và sang tên cho bên B. Bên B sẽ trả hết 20 lượng vàng SJC còn lại”. Đến ngày 21/9/2001, ông Dũng trả hết 20 lượng vàng SJC còn lại cho bà Loan nhưng không yêu cầu sang tên nhà cho ông Dũng mà ông Dũng vẫn biết toàn bộ quá trình ông Trần Văn Tâm được uỷ quyền bán nhà, làm thủ tục sang tên nhà cho bà Hạnh và bà Hạnh tặng nhà, sang tên sổ cho Tôi vào tháng 5/2009, và đến tháng 10/2009 tôi yêu cầu ông Dũng trả lại nhà cho tôi thì ông Dũng khi ấy mới bảo không trả nhà và tạo tranh chấp. Căn cứ Điều 429 Bộ luật dân sự năm 2015 “Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”. Như vậy, ông Nguyễn Văn Dũng đã hết thời hiệu khởi kiện để đòi sang tên quyền sử dụng đất và quyền sở hữu căn nhà nêu trên theo Hợp mua bán nhà giữa bà Trần Thị Kim Loan với ông Nguyễn Văn Dũng ký ngày 17/5/1999.
2. Nhận định 2: Việc ông Nguyễn Văn Dũng mua nhà của bà Trần Thị Kim Loan đã hoàn tất việc giao nhận tiền để cho rằng Dũng là người mua nhà của bà Loan
Nhận định này của Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh là hoàn toàn không đúng sự thật. Vì:
– Nguyễn Văn Dũng sinh ra và lớn lên trong gia đình khó khăn, Dũng cũng bỏ học sớm, chơi bời lêu lỏng, là người ham chơi, lười làm. Năm Dũng 14 tuổi, bà Lâm Thị Hạnh là dì ruột của Dũng nhận Dũng về ở cùng để vừa giáo dục vừa để Dũng tham gia phụ giúp bà bán hàng thì Dũng lấy đâu ra 50 cây vàng để mua nhà.
– Dũng khai vay Ngân hàng ACB 100 triệu đồng để mua 20 cây vàng trả bà Trần Thị Kim Loan. Sự thật là bà Hạnh mới là người vay Ngân hàng ACB 100 triệu đó. Do Dũng là cháu và làm cho bà Hạnh nên định kỳ hàng tháng bà Hạnh nhờ Dũng ra Ngân hàng để trả tiền gốc và tiền lãi (nội dung nộp tiền ghi “nộp tiền cho Lâm Thị Hạnh”).
– Bà Hạnh là người làm ăn kinh doanh, kinh tế khá giả. Bà Hạnh kinh doanh vật liệu xây dựng. Thường là có mấy nhân viên làm việc cho bà Hạnh (trong đó có Nguyễn Văn Dũng và Võ Xuân Thông).
– Năm 2008, bà Hạnh có 3 căn nhà. Do bà Hạnh chỉ có 1 người con gái ruột là mẹ ruột của Linh (đã mất trước đó). Nên bà Hạnh chỉ có 2 cháu ngoại ruột là tôi (Vương Ngọc Linh) và anh trai tôi tên Vương Vĩnh Phú. Nguyễn Văn Dũng là cháu gọi bà Hạnh bằng Dì, nhưng đã từng làm cho bà Hạnh và bà Hạnh cũng đã cưu mang, thương Dũng nên bà Hạnh đã chủ động cho 3 người cháu mỗi người 1 căn nhà (gồm Dũng, Phú, Linh). Căn nhà khác mà hiện nay Dũng đang ở là do bà Hạnh tặng cho năm 2008; căn nhà mà anh Phúc đang ở cũng do bà Hạnh tặng cho năm 2008. Còn căn nhà đang tranh chấp nêu trên thì bà Hạnh tặng cho tôi năm 2009.
– Bà Hạnh có nhà để cho các cháu thì liệu bà Hạnh có dùng thủ đoạn lấy nhà của Dũng để tặng cho Linh không??? Văn phòng công chứng đã chứng minh rằng bà Lâm Thị Hạnh minh mẫn khi thực hiện ký hợp đồng sang tên căn nhà nêu trên cho Linh.
– Nếu năm 1999, Dũng có 30 cây vàng và biết vay ngân hàng để mua nhà thì chắc hẳn Dũng phải là người năng động, nhanh nhẹn. Đằng này, Dũng lại là người không biết làm ăn. Chủ yếu làm cho bà Hạnh từ năm 1984 (14 tuổi) cho đến năm 2003. Đến năm 2003, bà Hạnh đã nhiều tuổi và muốn nghỉ ngơi nên không kinh doanh nữa mà giao lại cho Nguyễn Văn Dũng và Võ Xuân Thông (cả 2 đều là cháu của bà Hạnh) tiếp tục duy trì tự kinh doanh. Dũng và Thông tự kinh doanh riêng và tiếp tục sử dụng Căn nhà tranh chấp nêu trên làm nơi chứa vật liệu xây dựng. Dũng là người không biết làm ăn và ham chơi, lười làm nên việc làm ăn lụi bại dần (Còn Võ Xuân Thông thì trả lại nhà cho Linh vì a Thông biết là Căn nhà đó là của bà Hạnh đã tặng cho Linh). Và từ đó cho đến nay, Dũng là người không có công việc gì ổn định, chỉ chơi bời lêu lỏng.
– Bản chất của Hợp đồng mua bán nhà giữa bà Loan và ông Dũng ngày 17/5/1999 là giấy xác nhận thanh toán tiền mua nhà. Nội dung ghi bán nhà trong Hợp đồng chỉ là dẫn chứng lý do cho việc thanh toán. Bởi lẽ trong Hợp đồng bán nhà này không đề cập đến diện tích đất, tài sản gắn liền với đất, không có người làm chứng, không đem đi chứng thực mà toàn bộ nội dung chủ yếu ghi về việc thanh toán tiền. Việc thanh toán này sau đó được hợp thức chính thức tại Hợp đồng mua bán nhà số 09819/HĐ-MBN ngày 01/8/2001 giữa ông Trần Văn Tâm và bà Lâm Thị Hạnh (có nội dung “… bên A (ông Tâm) đã nhận trước số tiền 30 lượng vàng, số còn lại sẽ giao khi hoàn tất thủ tục mua bán và giao nhà…).
– Mặt khác, trước đó vào ngày 12/01/1998, khi chưa được cấp Giấy chứng nhận, ông Trần Văn Tâm cũng đã lập Tờ Hợp đồng mua bán nhà (BL 693) có nội dung: “bán căn nhà tại địa chỉ 13/3 Lạc Long Quân cho bà Lâm Thị Hạnh”, cùng ngày bà Loan và bà Hạnh có lập “Hợp đồng thoả thuận thống nhất lối đi” và chính bà Loan là người đã thừa nhận cụ Hạnh là chủ Căn nhà 13/3 Lạc Long Quân (BL 692). Ngày 20/9/1999, ông Trần Văn Tâm tiếp tục làm Giấy uỷ quyền (BL 694) được UBND Phường 9, Quận Tân Bình chứng thực chữ ký có nội dung thừa nhận đã bán Căn nhà số 13/3 Lạc Long Quân cho bà Hạnh. Như vậy, từ các tài liệu chứng cứ nêu trên đã khẳng định ý chí của ông Tâm ngay từ đầu là bán Căn nhà này cho bà Hạnh ngay cả trước khi được cấp Giấy chứng nhận và việc mua bán dựa trên cơ sở đồng thuận của các người thừa kế khác trong đó có bà Loan, việc mua bán có công chứng hợp pháp và được cơ quan nhà nước cập nhật sang tên đúng quy định pháp luật.
– Ngoài ra:
+ Quá trình giải quyết vụ án, ông Dũng cho rằng thời điểm mua nhà đang còn độc thân sợ đứng tên ảnh hưởng đến tài sản riêng của mình nên có nhờ bà Hạnh đứng ra ký Hợp đồng mua bán công chứng và đứng tên giùm Căn nhà. Nhưng xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án, ông Dũng không xuất trình được bất kỳ tài liệu nào để chứng minh bà Hạnh đồng ý, thoả thuận đứng tên giùm ông Dũng Căn nhà. Mặt khác, ông Dũng cho rằng sợ đứng tên tài sản ảnh hưởng đến việc kết hôn thể hiện ông Dũng biết quy định pháp luật về tài sản nhưng lại không lập thoả thuận đứng tên tài sản (nếu có) giữa ông Dũng và bà Hạnh là một điều bất hợp lý và phi logic. Tại phiên toà phúc thẩm ngày 01/04/2019, bản thân ông Dũng cũng thừa nhận rằng: khi bà Hạnh còn sống ông Dũng biết việc bà Hạnh tặng cho Căn nhà trên cho tôi (Linh) nhưng ông Dũng không có bất kỳ ý kiến hay phản đối.
+ Tại Phiên tòa sơ thẩm lần 2 ông Võ Xuân Thông phản đối Tòa rất gay gắt vì ông Thông nói ông Dũng nó đi làm thuê tiền đâu có mấy chục cây vàng để mua nhà. Toà nhắc nhở ông thông bình tĩnh nếu không sẽ mời ông ra ngoài.
+ Quyết định giám đốc thẩm 61 còn cho rằng ông Dũng trực tiếp quản lý sử dụng Căn nhà từ ngày 17/5/1999 nhưng trong hồ sơ vụ án lại có Tờ giấy uỷ quyền lập ngày 20/9/1999 được UBND phường 9, quận Tân Bình chứng thực chữ ký thể hiện nội dung ông Tâm thừa nhận đã bán căn nhà này cho bà Hạnh vào năm 1999 và uỷ quyền cho bà Hạnh giải quyết tranh chấp Nếu thực tế có việc mua bán nhà giữa bà Loan và ông Dũng vào ngày 17/5/1999 và ông Dũng quản lý sử dụng nhà từ thời điểm đó thì tại sao ông Tâm không uỷ quyền lại cho ông Dũng mà lại uỷ quyền cho bà Hạnh? (Bản chất sự việc là Dũng làm cho bà Hạnh, bà Hạnh cho Dũng ở tại đó để giúp bà Hạnh trông vật liệu xây dựng và bán hàng)
Như vậy, từ những chứng cứ nêu trên có thể khẳng định việc bà Hạnh mới là người mua nhà, là người thanh toán tiền mua căn nhà nêu trên. Ông Dũng chỉ là người giúp bà Hạnh thanh toán tiền mua nhà.
3. Nhận định 3: Ngày 01/8/2001, ông Trần Văn Tâm ký hợp đồng bán căn nhà này cho bà Hạnh. Theo hợp đồng thể hiện: “Ông Tâm hành động nhân danh cá nhân, có sự ưng thuận của các đồng thừa kế khác”. Tuy nhiên, trong hợp đồng mua bán nhà chỉ có chữ ký của ông Tâm, không có văn bản thể hiện “có sự ưng thuận của các đồng thừa kế” là vi phạm về mặt chủ thể của hợp đồng.
Nhận định này của Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh là hoàn toàn không đúng sự thật, bỏ qua chứng cứ. Vì:
Ngày 11/7/2001, ông Trần Văn Tý, bà Trần Thị Ánh Ngọc, bà Trần Thị Kim Loan lập và ký vào Giấy Thoả thuận về việc đồng ý bán căn nhà số 13/3 Lạc Long Quân, Phường 9, Quận Tân Bình (xin đính kèm tài liệu). Trong đó có nội dung “Nay anh em tôi đồng ý để cho anh tôi tên Trần Văn Tâm sanh năm 1952 được quyền bán căn nhà số 13/3 Lạc Long Quân, Phường 9, Quận Tân Bình”. Như vậy, Giấy thỏa thuận đã có đầy đủ nội dung thể hiện ý chí của tất cả những đồng thừa kế đồng ý và tự nguyện để cho ông Trần Văn Tâm được quyền bán Căn nhà này và Giấy này đã được UBND Phường 9, Quận Tân Bình chứng thực chữ ký vào ngày 12/07/2001 (“Giấy thoả thuận”). Sau đó, căn cứ vào Giấy thoả thuận này, ông Trần Văn Tâm đã chuyển nhượng Căn nhà cho bà Hạnh theo Hợp đồng mua bán nhà số 09819/HĐ-MBN được ký kết hợp pháp có sự xác nhận của Phòng Công chứng số 02 vào ngày 01/8/2001 (“Hợp đồng mua bán”) trên cơ sở thống nhất của các đồng thừa kế tại Giấy thoả thuận (được ghi nhận tại mục BÊN BÁN với nội dung: “Ông TÂM hành động nhân danh cá nhân, có sự ưng thuận của các đồng thừa kế khác”). Văn phòng công chứng đã chứng nhận hợp đồng mua bán căn cứ vào Giấy thoả thuận của các đồng thừa kế (ông Trần Văn Tý, bà Trần Thị Ánh Ngọc, bà Trần Thị Kim Loan) đồng ý và tự nguyện để cho ông Trần Văn Tâm được quyền bán Căn nhà.
Chứng cứ nêu trên là một tình tiết mới phát sinh tại thời điểm giải quyết lại vụ án sơ thẩm lần 2. Tại trang 03 Biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải ngày 24/02/2022 (BL 931 – 933) trong phần chứng cứ do Nguyên đơn giao nộp đã ghi nhận có “Giấy thoả thuận đồng ý bán nhà ngày 11/07/2001” chứng cứ này đã được công khai có ký tên xác nhận của ông Dũng. Ngoài ra, tại Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 08/QĐ-VKS-DA ngày 20/9/2023 VKS quận Tân Bình cũng đã xác định: “Hồ sơ vụ án thể hiện đồng thời có 02 văn bản uỷ quyền: Tờ uỷ quyền ngày 22/3/1992 và Giấy thoả thuận ngày 11/7/2001”.
Như vậy, Quyết định giám đốc thẩm 61 đã cố tình bỏ qua chứng cứ, không xem xét đến chứng cứ này để xác định giao dịch mua bán nhà thực tế là giữa ông Tâm và bà Hạnh để lập luận theo hướng có lợi cho ông Dũng khi cho rằng: trong hợp đồng mua bán nhà chỉ có chữ ký của ông Tâm, không có văn bản thể hiện “sự ưng thuận của các đồng thừa kế khác” (tại Mục [3] Quyết Định) xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của tôi.
4. Quyết định:
– “1. Huỷ bản án phúc thẩm số 376/2024/DS-PT ngày 26/4/2024 của Toà án nhân dân TP.HCM; 2. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 416/2023/DS-ST ngày 07/9/2023 của Toà án nhân dân quận Tân Bình, TP.HCM”: Quyết định này dựa trên nhận định không đúng sự thật, không đúng chứng cứ, bỏ qua chứng cứ, không đúng pháp luật, suy diễn các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ theo hướng bảo vệ cho ông Dũng như tôi đã nêu ở mục 1, 2, 3 trên. Do đó, nội dung Quyết định “1. Huỷ bản án phúc thẩm số 376/2024/DS-PT ngày 26/4/2024 của Toà án nhân dân TP.HCM; 2. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 416/2023/DS-ST ngày 07/9/2023 của Toà án nhân dân quận Tân Bình, TP.HCM” là trái pháp luật.
II. Việc mua bán căn nhà 13/3 (số mới 672/2) Lạc Long Quân, Phường 9, Quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh giữa bà Lâm Thị Hạnh và ông Trần Văn Tâm vào năm 2001 là đúng quy định của pháp luật.
Nguồn gốc Căn nhà tại địa chỉ 13/3 (số mới 672/2) Lạc Long Quân do cụ Trần Văn Thuộc (chết năm 1968) và cụ Trần Thị Rỡ (chết năm 1985) tạo lập. Vào năm 2001, các đồng thừa kế của cụ Thuộc và cụ Rỡ bao gồm: ông Trần Văn Tý, bà Trần Thị Ánh Ngọc, bà Trần Thị Kim Loan đã thoả thuận để cho ông Trần Văn Tâm (sinh năm 1952, mất năm 2015) đại diện các đồng thừa kế đứng tên trên Giấy chứng nhận Quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 9071/2001 do Uỷ ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh cấp ngày 30/5/2001 (“Giấy chứng nhận”).
Ngày 11/7/2001, ông Trần Văn Tý, bà Trần Thị Ánh Ngọc, bà Trần Thị Kim Loan lập và ký vào Giấy Thoả thuận về việc đồng ý bán căn nhà số 13/3 Lạc Long Quân, Phường 9, Quận Tân Bình có nội dung “Nay anh em tôi đồng ý để cho anh tôi tên Trần Văn Tâm sanh năm 1952 được quyền bán căn nhà số 13/3 Lạc Long Quân, Phường 9, Quận Tân Bình”. Như vậy, Giấy thỏa thuận đã có đầy đủ nội dung thể hiện ý chí tất cả những đồng thừa kế đồng ý và tự nguyện để cho ông Trần Văn Tâm được quyền bán Căn nhà này (xin đính kèm tài liệu) và Giấy này đã được UBND Phường 9, Quận Tân Bình chứng thực chữ ký vào ngày 12/07/2001 (“Giấy thoả thuận”).
Sau đó, căn cứ vào Giấy thoả thuận này, ông Trần Văn Tâm đã chuyển nhượng Căn nhà cho bà Lâm Thị Hạnh theo Hợp đồng mua bán nhà số 09819/HĐ-MBN được ký kết hợp pháp có sự xác nhận của Phòng Công chứng số 02 vào ngày 01/8/2001 (“Hợp đồng mua bán”) trên cơ sở thống nhất của các đồng thừa kế tại Giấy thoả thuận (được ghi nhận tại mục BÊN BÁN với nội dung: “Ông TÂM hành động nhân danh cá nhân, có sự ưng thuận của các đồng thừa kế khác”). Văn phòng công chứng đã chứng nhận hợp đồng mua bán căn cứ vào Giấy thoả thuận của các đồng thừa kế (ông Trần Văn Tý, bà Trần Thị Ánh Ngọc, bà Trần Thị Kim Loan) đồng ý và tự nguyện để cho ông Trần Văn Tâm được quyền bán Căn nhà chứ không phải như lập luận trái pháp luật của Toà án suy diễn trong Quyết Định giám đốc thẩm 61 tại Mục [3] phần Nhận định cho rằng: “không có văn bản thể hiện sự ưng thuận của các đồng thừa kế”.
Do đó, việc bà Hạnh đã tặng cho tôi Căn nhà vào năm 2009 theo Hợp đồng tặng cho nhà và quyền sử dụng đất số 014998, quyển số 04/TP/CC-SCC/HĐGD tại Phòng công chứng số 2 TP. Hồ Chí Minh, tôi đã làm thủ tục trước bạ ngày 27/04/2009 và đăng bộ sang tên vào ngày 06/5/2009 nên đây là tài sản hợp pháp của tôi.
III. Bản chất của việc tranh chấp
Bản chất của sự việc là bà Hạnh mới là người mua nhà, bỏ tiền ra để mua nhà và nhờ cháu của mình là Nguyễn Văn Dũng đứng ra viết Hợp đồng thanh toán tiền nhà trong việc mua căn nhà nêu trên.
Do thời điểm ban đầu của việc mua bán nhà thì ngôi nhà này chưa có sổ nên bà Hạnh mới nhờ Nguyễn Văn Dũng đứng ra làm thủ tục mua bán (mục đích là viết giấy thanh toán). Đến khi các thủ tục hợp thức hoá căn nhà (ra sổ) đứng tên ông Trần Văn Tâm năm 2001 xong thì 2 bên mới bắt đầu tiến hành làm thủ tục mua bán theo quy định của pháp luật. Cụ thể là ngày 11/7/2001, ông Trần Văn Tý, bà Trần Thị Ánh Ngọc, bà Trần Thị Kim Loan lập và ký vào Giấy Thoả thuận về việc đồng ý bán căn nhà số 13/3 Lạc Long Quân, Phường 9, Quận Tân Bình có nội dung “Nay anh em tôi đồng ý để cho anh tôi tên Trần Văn Tâm sanh năm 1952 được quyền bán căn nhà số 13/3 Lạc Long Quân, Phường 9, Quận Tân Bình”. Căn cứ vào Giấy thoả thuận này, ông Trần Văn Tâm đã chuyển nhượng Căn nhà cho cụ Lâm Thị Hạnh theo Hợp đồng mua bán nhà số 09819/HĐ-MBN được ký kết hợp pháp có sự xác nhận của Phòng Công chứng số 02 vào ngày 01/8/2001 (có nội dung“… bên A (ông Tâm) đã nhận trước số tiền 30 lượng vàng, số còn lại sẽ giao khi hoàn tất thủ tục mua bán và giao nhà…). Do đó, việc bà Hạnh đã tặng cho tôi Căn nhà vào năm 2009 theo Hợp đồng tặng cho nhà và quyền sử dụng đất số 014998, quyển số 04/TP/CC-SCC/HĐGD tại Phòng công chứng số 2 TP. Hồ Chí Minh, tôi đã làm thủ tục trước bạ ngày 27/04/2009 và đăng bộ sang tên vào ngày 06/5/2009.
Ông Dũng hoàn toàn biết bản chất của việc bà Hạnh mới là người mua và thanh toán tiền mua căn nhà nêu trên, biết toàn bộ sự việc các bên tiến hành các thủ tục để uỷ quyền cho ông Tâm bán nhà cho bà Hạnh và làm các thủ tục sang tên căn nhà cho bà Hạnh, rồi bà Hạnh làm thủ tục sang tên cho Tôi mà ông Dũng hoàn toàn không hề có tranh chấp nào.
Chỉ đến khi Tôi có yêu cầu ông Dũng ra khỏi căn nhà nêu trên (tháng 10/2009) thì ông Dũng mới bắt đầu nghiên cứu các thủ đoạn nhằm chiếm đoạt căn nhà này.
Lợi dụng vào việc Dũng đang có Tờ uỷ quyền năm 1992 và Hợp đồng mua bán nhà giữa bà Loan và ông Dũng ký ngày 17/5/1999 và lúc này bà Hạnh cũng đã chết, ông Dũng mới cho rằng ông Dũng mới là người mua căn nhà nêu trên để nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác.
Kể từ khi tôi khởi kiện ông Dũng vào năm 2010 cho đến nay đã gần 15 năm, trải qua 02 lần xét xử sơ thẩm và 02 lần xét xử phúc thẩm, trong đó đã có 03 lần (gần đây nhất là tại cấp phúc thẩm lần 02), Toà án đã xác định tôi có quyền sở hữu hợp pháp đối với Căn nhà 13/3 trên cơ sở xem xét đánh giá khách quan, thận trọng các tài liệu chứng cứ tại hồ sơ vụ án. Tuy nhiên, TAND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh lại không xem xét đến các tài liệu chứng cứ mà tôi đã trình bày nêu trên mà đưa ra các lập luận suy diễn, một chiều theo hướng có lợi cho ông Dũng để làm căn cứ ban hành Quyết định giám đốc thẩm số 61, huỷ Bản án phúc thẩm lần 02 và giữ nguyên Bản án sơ thẩm lần 02 trái pháp luật là xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của tôi và ông Bồn.
IV. Những khuất tất của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh
1. Lý do để Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh ban hành Quyết định giám đốc thẩm số 61 (huỷ Bản án phúc tẩm lần 02)
– Căn nhà nêu trên là do bà Lâm Thị Hạnh mua và thanh toán tiền. Việc ông Dũng tạo tranh chấp nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác nên ông Dũng đã thỏa thuận với Tòa án nhân dân cấp cao tại TP Hồ Chí Minh theo hướng nếu ông Dũng lấy được nhà thì sẽ chia đôi, mỗi bên một nửa. Do đó, bất chấp 02 Bản án sơ thẩm lần 01 và phúc thẩm lần 01 cho rằng bà Hạnh là người mua căn nhà và bác yêu cầu phản tố của ông Dũng thì Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh vẫn chỉ đạo giao lại cho Tòa án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm lại.
– Với chứng cứ rất rõ ràng để chứng minh bà Hạnh là người mua nhà đúng pháp luật; ông Dũng không phải là người mua nhà; cả 2 phiên tòa sơ thẩm lần 01 và phúc thẩm lần 01 đều cho rằng bà Hạnh là người mua căn nhà và bác yêu cầu phản tố của ông Dũng. Nhưng Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh vẫn tuyên hủy bản án Phúc thẩm lần 01 thì Tòa án nhân dân quận Tân Bình “hiểu ý” của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh để ra Bản án sơ thẩm lần 02 theo hướng cho rằng ông Dũng là người mua nhà của bà Trần Thị Kim Loan là đúng pháp luật, bà Hạnh mua nhà của ông Tâm là trái pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm lần 02, Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh hủy bản án sơ thẩm lần 02 và tuyên lại nội dung như bản án phúc thẩm lần 01 là bà Hạnh mới là người mua nhà đúng pháp luật; ông Dũng không phải là người mua nhà (chắc là do Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh xét xử công tâm, hoặc không hiểu ý của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh).
Sau phiên tòa Phúc thẩm, người của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh đã gặp và hướng dẫn Dũng kháng cáo đến Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh để nhờ Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh thực hiện kháng nghị bản án phúc thẩm lần 02, để Tòa án có sơ sở khách quan xét xử cho ông Dũng thắng cuộc.
(Nội dung mục IV này là do tin đồn, không có chứng cứ, nên tôi không cam đoan những nội dung này là đúng hay không. Tôi nêu ra để quý Viện tham khảo).
2. Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh ban hành Quyết định giám đốc thẩm số 61 nhưng không gửi đến các cá nhân, cơ quan theo “Nơi nhận”
– Cho đến nay, tôi vẫn chưa nhận được Quyết định giám đốc thẩm số 61, ngày 09/4/2025 của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh ban hành (đã 03 tháng trôi qua).
– Các đương sự khác có liên quan cũng chưa nhận được.
– Chi Cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình cũng chưa nhận được.
– Sau khi ban hành Quyết định giám đốc thẩm số 61, Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh có gửi ngay Quyết định này cho ông Nguyễn Văn Dũng.
Không biết vì lý do gì mà Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh không gửi Quyết định giám đốc thẩm số 61 cho chúng tôi. Mặc dù phần Nơi nhận của Quyết định có ghi chúng tôi – Phải chăng ở đây có khuất tất??? Mà chỉ gửi riêng cho ông Nguyễn Văn Dũng???
Cũng chính việc tôi không nhận được Quyết định giám đốc thẩm số 61, nên thời gian qua tôi có nhiều đơn gửi Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh đề nghị sớm xét xử giám đốc thẩm theo kháng nghị số 237/QĐ-VKS-DS (đặc biệt là 03 đơn gửi sau ngày 09/4/2025 là các đơn đề ngày 24/4; 12/5; 27/5/2025).
Theo tin đồn thì Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh chỉ gửi cho ông Nguyễn Văn Dũng để ông Dũng liên hệ với cơ quan chức năng làm sổ đỏ căn nhà đang tranh chấp mang tên ông Dũng. Sau đó ông Dũng sẽ bán đi để lấy tiền chia cho Toà 1/2 theo thoả thuận. Còn tôi và các đương sự khác thì hết quyền kháng cáo; và cũng để tránh cho việc lo sợ chúng tôi gây khó dễ trong quá trình ông Dũng làm sổ, bán và chia tiền cho Toà).
(Việc tôi có bản chụp Quyết định giám đốc thẩm số 61 của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh là do ông Dũng gửi cho người ngoài – chụp từ bản mà ông Dũng nhận được).
Kính thưa ngài Tổng bí thư Tô Lâm
Kể từ khi tôi khởi kiện ông Dũng vào năm 2010 cho đến nay đã gần 15 năm, trải qua 02 lần xét xử sơ thẩm và 02 lần xét xử phúc thẩm, trong đó đã có 03 lần (gần đây nhất là tại cấp phúc thẩm lần 02), Toà án đã xác định tôi có quyền sở hữu hợp pháp đối với Căn nhà 13/3 trên cơ sở xem xét đánh giá khách quan, thận trọng các tài liệu chứng cứ tại hồ sơ vụ án. Tuy nhiên, Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh lại không xem xét đến các tài liệu chứng cứ mà tôi đã trình bày nêu trên mà đưa ra các lập luận suy diễn, một chiều theo hướng có lợi cho ông Dũng để làm căn cứ ban hành Quyết định giám đốc thẩm số 61, huỷ Bản án phúc thẩm lần 02 và giữ nguyên Bản án sơ thẩm lần 02 trái pháp luật là xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của tôi và ông Tạ Đình Bồn.
Vì vậy, bằng đơn này, tôi xin tố cáo Chánh án Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh và kính mong ngài Tổng bí thư chỉ đạo:
1. Chỉ đạo các cơ quan chức năng có thẩm quyền vào cuộc để điều tra những sai phạm, khuất tất của Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh.
2. Chỉ đạo Chánh án Toà án nhân dân tối cao xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Quyết định giám đốc thẩm số 61/2025/DS-GĐT ngày 09/4/2025 của Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh.
Tôi xin chân thành cảm ơn./.
TP. HCM, ngày 09 tháng 7 năm 2025
NGƯỜI TỐ CÁO
Vương Ngọc Linh
DANH SÁCH TÀI LIỆU,
CHỨNG CỨ ĐÍNH KÈM ĐƠN
A. CÁC BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
– Bản án sơ thẩm (lần 01) số 752/2018/DS-ST ngày 21/11/2018 của TAND quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh;
– Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 03/QĐKNPT-VKS-DS ngày 20/12/2018 của VKSND quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh;
– Bản án phúc thẩm (lần 01) số 288/2019/DS-PT ngày 10/04/2019 của TAND TP. Hồ Chí Minh;
– Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 163/QĐKNGĐT-VKS-DS ngày 02/8/2019 của Viện trưởng VKSND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh;
– Quyết định giám đốc thẩm số 269/2019/DS-GĐT ngày 08/11/2019 của TAND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh;
– Bản án sơ thẩm (lần 2) số 416/2023/DS-ST ngày 07/9/2023 của TAND quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh;
– Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 08/QĐ-VKS-DS ngày 20/9/2023 của VKSND quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh;
– Bản án phúc thẩm (lần 2) số 376/2024/DS-PT ngày 26/4/2024 của TAND TP. Hồ Chí Minh;
– Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 237/QĐ-VKS-DS ngày 15/10/2024 của Viện trưởng VKSND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh;
– Quyết định giám đốc thẩm số 61/2025/DS-GĐT ngày 09/4/2025 của TAND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh;
B. DANH MỤC TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CÓ TRONG HỒ SƠ VỤ ÁN
– Tờ Hợp đồng mua bán nhà giữa ông Trần Văn Tâm cho cụ Lâm Thị Hạnh ngày 12/01/1998 (BL 693);
– Hợp đồng thoả thuận lối đi giữa bà Trần Thị Kim Loan và cụ Lâm Thị Hạnh ngày 12/01/1998 (BL 692);
– Giấy uỷ quyền ngày 20/9/1999 của ông Trần Văn Tâm cho cụ Lâm Thị Hạnh (BL 694);
– Tờ uỷ quyền ngày 22/03/1992 (BL 648);
– Hợp đồng mua bán nhà giữa bà Trần Thị Kim Loan và ông Nguyễn Văn Dũng ký ngày 17/5/1999;
– Giấy Thoả thuận đồng ý bán căn nhà số 13/3 Lạc Long Quân ngày 11/07/2001 (BL 943);
– Hợp đồng mua bán nhà số 09819/HĐ-MBN ngày 01/8/2001 (BL 684 – 691);
– Hợp đồng tặng cho nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 014998/HĐ-TCN ngày 23/04/2009;
– Giấy chứng nhận Quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 9071/2001 do UBND TP. Hồ Chí Minh cấp ngày 30/5/2001;
– Biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải ngày 24/02/2022 (BL 931 – 933).
Một xã hội thối nát, bè đảng, trù dập lẫn nhau.
Thật bất công quá các cấp nên vào cuộc để minh oan cho thầy Hiệu trưởng
“Tham ô” hơn 10 tr bị kết án bảy năm tù.
Vậy những thắng tham ô từ vài chục đến vài trăm tỷ thì đáng bao nhiêu năm tù? Có khi , theo quan toà nầy chắc là phải tù vài thế kỉ .
Sao chế độ không đưa ông toà ở Cà Mau lên làm chánh án tối cao nhỉ ? Ông ấy mà được cất nhắc sớm, thì đất nước nầy đã sạch bóng quân tham nhũng từ lâu ??!!
Sao không thấy tình tiết giảm nhẹ. Tội vậy mà tù vậy thì khiếp quá. Hay tòa làm răn đe kẻ khác. Đọc thấy lo và buồn quá!
Cái tội “cãi toà”… “mày có biết bố mày là ai không ?”…