Vũ Đức Khanh
18-3-2025
Ngày 15/3/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì cuộc họp Tiểu ban Văn kiện Đại hội 14, nơi đáng lẽ ra phải làm rõ đường hướng chính trị của Việt Nam trong giai đoạn tới.
Nhưng thay vì đưa ra những quyết sách chiến lược, bài báo chính thức trên trang báo Chính Phủ chỉ lặp lại những ngôn từ rỗng tuếch: “Rút gọn, làm rõ nội dung, đảm bảo tính khả thi”.
Đằng sau lớp vỏ ngôn ngữ quan liêu ấy, câu hỏi quan trọng nhất vẫn chưa được trả lời: Liệu ông Tô Lâm có tiếp tục giữ ghế Tổng Bí thư hay không? Và nếu có sự thay đổi, ai sẽ là người thay thế?
Một Đảng Cộng sản không định hướng được chính mình
Công tác chuẩn bị Đại hội 14 diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức lớn: Tăng trưởng chậm lại, khủng hoảng bất động sản, doanh nghiệp nước ngoài cân nhắc rời đi, và bất ổn xã hội gia tăng.
Một hệ thống chính trị vững mạnh phải có tầm nhìn dài hạn để ứng phó với những thách thức này. Tuy nhiên, ĐCSVN lại đang lúng túng với chính tương lai của mình.
Bằng chứng rõ ràng nhất là cuộc họp của Tiểu ban Văn kiện vừa qua, không đưa ra bất kỳ định hướng chính trị hay chính sách kinh tế quan trọng nào.
Thay vào đó, ông Tô Lâm chỉ nhấn mạnh vào “tính khả thi,” nhưng không ai biết tính khả thi đó là gì.
Đây là dấu hiệu của một hệ thống đang rơi vào trạng thái bảo thủ: Không dám đổi mới nhưng cũng không thể duy trì hiện trạng quá lâu.
Chuyển giao quyền Lực: Ai sẽ thống trị Việt Nam sau 2025?
Một trong những câu hỏi quan trọng nhất hiện nay là, liệu ông Tô Lâm có tiếp tục giữ chức Tổng Bí thư sau Đại hội 14 hay không. Ông chỉ mới lên cầm quyền từ tháng 8 năm 2024, sau khi ông Nguyễn Phú Trọng qua đời trong hoàn cảnh có phần bí ẩn.
Nếu ông Tô Lâm tiếp tục tại vị, điều đó sẽ đánh dấu một bước ngoặt lớn trong chính trị Việt Nam: Lần đầu tiên một cựu Bộ trưởng Công an trực tiếp lãnh đạo đất nước trong thời gian dài.
Tuy nhiên, nếu có sự thay đổi, ai sẽ là người thay thế? Các ứng viên tiềm năng gồm có:
– Một nhân vật từ Bộ Chính trị hiện tại, có thể là một nhà kỹ trị với định hướng kinh tế mạnh mẽ hơn.
– Một lãnh đạo từ khối quân đội hoặc công an, tiếp tục xu hướng “an ninh hoá” chính trị.
– Một nhân vật từ thế hệ lãnh đạo trẻ hơn, nhưng khả năng này thấp vì hệ thống Đảng không khuyến khích đổi mới thực sự.
Dù ai lên thay thế, hệ thống chính trị Việt Nam vẫn đang bị mắc kẹt trong vòng luẩn quẩn của chế độ Đảng trị: Không có cơ chế cạnh tranh quyền lực minh bạch, không có đối lập chính trị hợp pháp, và không có áp lực cải tổ thực sự từ bên trong.
“Diễn biến phức tạp” và một Đảng không có chiến lược
Một trong những điểm quan trọng nhất trong bài phát biểu của ông Tô Lâm là việc Đảng CSVN phải “bám sát tình hình để điều chỉnh kịp thời chủ trương, đường lối và chính sách”. Câu nói này, nếu đọc kỹ, cho thấy một sự thật nghiêm trọng: “Đảng hoàn toàn ở thế bị động!”
Nếu Đảng có một chiến lược rõ ràng, họ sẽ không cần phải “bám sát” để điều chỉnh từng bước. Một chính quyền thực sự có tầm nhìn sẽ đặt ra một lộ trình rõ ràng cho ít nhất 5-10 năm tới, thay vì phải chạy theo từng biến động trước mắt.
Việc nhấn mạnh “diễn biến phức tạp ngoài dự báo” cho thấy:
1. Đảng CSVN không thực sự hiểu rõ tình hình thế giới và khu vực.
2. Đảng không có chiến lược chủ động để ứng phó với những thay đổi.
3. Hệ thống chính trị hiện tại quá quan liêu, phản ứng chậm chạp và thiếu sự linh hoạt cần thiết để điều hành một nền kinh tế hiện đại.
Cần một cuộc đổi mới chính trị lần 2
Gần 40 năm sau Đổi Mới kinh tế năm 1986, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Nhưng hệ thống chính trị thì vẫn trì trệ như cũ.
Sự thành công của Đổi Mới đến từ việc mở cửa nền kinh tế, nhưng Đảng CSVN chưa bao giờ thực sự mở cửa hệ thống chính trị.
Trong khi các nước Đông Á như Hàn Quốc, Đài Loan đã chuyển đổi từ độc tài sang dân chủ, Việt Nam vẫn mắc kẹt trong mô hình Đảng trị.
Hệ quả là nền kinh tế đang gặp khủng hoảng, hệ thống chính trị trở nên bảo thủ hơn, và xã hội ngày càng bất mãn.
Nếu không có một cuộc cải cách chính trị thực sự, Việt Nam sẽ không thể tiếp tục phát triển bền vững.
Đảng Cộng sản Việt Nam hiện tại không có khả năng đưa ra một chiến lược dài hạn, và người dân xứng đáng có một lựa chọn thay thế.
Một cuộc “Đổi Mới Chính Trị” là điều tất yếu, và đây chính là thời điểm để khởi động quá trình đó.
Cuối cùng, cuộc họp của Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIV hôm 15/3/2025 không đưa ra bất kỳ điều gì cụ thể về tương lai của đất nước. Nó chỉ là một biểu hiện khác của sự bế tắc trong hệ thống chính trị hiện tại.
Vấn đề không chỉ là ai sẽ lên nắm quyền, mà là liệu hệ thống này có còn khả năng duy trì mà không tự cải tổ hay không. Nếu không, một lựa chọn thay thế là điều không thể tránh khỏi.
Và đây chính là thời điểm chín muồi mà nhân dân Việt Nam cần nắm bắt để quyết định vận mệnh của đất nước và của chính mình.
_______
Nguồn tham khảo: https://baochinhphu.vn/tong-



1. Đặng Tiểu Bình thường được biết đến như một “kiến trúc sư chính của quá trình hiện đại hóa và phát triển kinh tế Trung Quốc”, nhưng ít người biết, những châm ngôn hành động nổi tiếng nhất như thuyết “mèo đen, mèo trắng” hay “mò đá qua sông” lại không hoàn toàn là “phát kiến” của ông. Nó được ông học hỏi từ Lưu Bá Thừa, một người cộng sự chiến trường thân thiết suốt 13 năm của Đặng Tiểu Bình.
Thuyết “mèo đen, mèo trắng” xuất phát từ câu “mèo vàng, mèo đen, chỉ cần bắt được chuột đều là mèo tốt” của Lưu Bá Thừa trong thời gian ông cùng sát cánh với Đặng Tiểu Bình những năm 1930-40 trong cuộc vạn lý trường chinh. “Mò đá qua sông” cũng là câu mà Lưu Bá Thừa đã nói. Thời kỳ lập nước Trung Quốc mới, tướng Lưu Ái Bình nhận lệnh xây dựng trường quân sự, trước khi đi đã đến thỉnh giáo Lưu Bá Thừa. Lưu Bá Thừa nói: “Tôi cho đồng chí sáu chữ và cần phải ghi nhớ. “Hãy mò đá để qua sông””. Đặng Tiểu Bình đã áp dụng chính châm ngôn này trong thời kỳ cải cách mở cửa, khi “mở một con đường máu” là các đặc khu kinh tế.
2. Nhưng chuyện các “ý tưởng lớn” này có phải là phát kiến của riêng ông hay không, đối với Đặng Tiểu Bình, dường như không quan trọng. Ông chưa bao giờ muốn làm nổi bật mình trước tập thể. Chưa từng chính thức giữ các chức vụ nguyên thủ của Trung Quốc, ông luôn “thực sự cầu thị”, không cần hư danh, luôn biết cách lùi lại phía sau, miễn làm sao “được việc là được”. Khi chết, ông được hỏa táng và rải tro cốt xuống biển. Ông có thể xem là một người Cộng sản thực dụng điển hình. Tiếp nhận chủ nghĩa Marx từ những năm 1920 ở tuổi 16-17 khi du học nghề ở Pháp, ông cũng từng được gửi đi học ở Liên Xô, nhưng với ông chủ nghĩa Marx-Lenin chưa bao giờ là một tín điều bất biến. Ông nói: “Học Marx-Lenin phải học cái tinh túy, phải biết áp dụng”, là sự liên hệ lý luận với thực tiễn, chính “thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm nghiệm chân lý”. Với châm ngôn này, cùng với thuyết “mèo đen, mèo trắng”, chỉ những gì “có hiệu quả thực tiễn mới là tốt”, luận thuyết nọ, ý tưởng kia dù nghe có vẻ hay ho đến đâu, mà không áp dụng được trong thực tiễn thì phải ngay lập tức vứt bỏ, “không tranh luận” dài dòng. Ở điểm này có lẽ ông khá giống với Lý Quang Diệu của Singapore.
3. Không phải là một người ưa lý luận, giáo điều, nhưng Đặng Tiểu Bình chưa bao giờ xem nhẹ vấn đề tư tưởng. Trong bản nhận xét của tổ chức về Đặng Tiểu Bình khi ông được gửi sang Liên Xô học, cho rằng, ông có hai thế mạnh là khả năng “tuyên huấn và tổ chức”. Đây có vẻ là nhận xét xác đáng, bởi sau đó, ông đã phát huy đầy đủ cả hai thế mạnh này ở thời gian trong quân đội, với vị trí chính ủy. Một điểm được Đặng đặc biệt lưu ý và luôn đề cao trong quân ngũ đó là “tư tưởng phải thông suốt”. Trước khi bước vào mỗi trận đánh, ngoài tất cả mọi sự chuẩn bị thường quy khác, ông đều phải chuẩn bị làm sao để “tư tưởng phải thông suốt” từ trên xuống dưới. Điều này, cũng được ông áp dụng nghiêm ngặt cho công cuộc cải cách, mở cửa kinh tế ở Trung Quốc sau này.
4. Một điểm nữa không thể không nhắc đến ở Đặng Tiểu Bình đó là tầm nhìn “sáng suốt đến mức kinh ngạc” của ông về vai trò của “khoa học kỹ thuật và giáo dục”. Ông từng nói: “…khi ra nhận nhiệm vụ chúng ta có thể có hai thái độ, một là để làm quan, hai là để làm một chút gì đó”. Đến tháng 7/1977, sau khi được chính thức phục hồi lần ba, ở tuổi 73, Đặng Tiểu Bình đã quyết định “phải làm chút gì đó”, đó chính là “nắm khoa học và giáo dục”. Ngay sau khi được phục hồi lần ba, ông đích thân chủ trì quản lý công tác khoa học kỹ thuật của Trung Quốc. Lợi dụng tất cả các phương thức cũng như các học giả, chuyên gia trong và ngoài nước về mọi lĩnh vực để bàn bạc quy hoạch phát triển khoa học kỹ thuật cao của Trung Quốc.
Nửa tháng sau, ngày 4/8/1977 Đặng Tiểu Bình đã tham dự cuộc tọa đàm về công tác khoa học kỹ thuật và giáo dục do Trung ương tổ chức. Tham gia tọa đàm có 33 chuyên gia, giáo sư nổi tiếng. Trong ngày đầu tiên của cuộc tọa đàm, ông chỉ đọc một bài khai mạc ngắn gọn, sau đó ông chỉ lắng nghe. Hàng ngày, 8 giờ sáng bắt đầu buổi họp, buổi trưa nghỉ rất ít rồi tiếp tục cho đến chiều tối. Rất ít lãnh đạo cấp cao có thể kiên trì ngồi nghe hàng giờ liền như vậy, đặc biệt ở thời điểm đó tại Trung Quốc, các chuyên gia, giáo sư vẫn bị xem là “đối tượng của chuyên chính của cải tạo”.
Tháng 3/1986, một số nhà khoa học già nổi tiếng như Dương Đại Hoành, Vương Kiềm Xương, Dương Gia Tê, Trần Phương Doãn… đã đưa ra một “Kiến nghị về việc theo đuổi sự phát triển kỹ thuật cao của thế giới”. Đặng Tiểu Bình lập tức chỉ thị: “Kiến nghị này vô cùng quan trọng, trong việc này cần làm nhanh và quyết đoán, không thể kéo dài”. Sau chỉ thị của ông, Quốc vụ viện Trung Quốc đã xây dựng: “Kế hoạch phát triển nghiên cứu kỹ thuật cao của Trung Quốc” (gọi là “Kế hoạch 863” – nổi tiếng).
Thực tế, ông đã theo đuổi mối quan tâm thúc đẩy phát triển khoa học kỹ thuật ở Trung Quốc đến tận những năm cuối đời. Năm 1992, khi đi thăm miền Nam, ông nói: “Tôi nói khoa học kỹ thuật là sức sản xuất số một. Gần hai chục năm nay, khoa học kỹ thuật thế giới phát triển nhanh biết bao? Một đột phá trong lĩnh vực kỹ thuật cao sẽ kéo theo sự phát triển của một loạt ngành nghề khác. Mấy năm gần đây, liệu xa rời khoa học kỹ thuật có thể làm nước ta tăng trưởng được nhanh như vậy không? Phải đề xướng khoa học, dựa vào khoa học mới có hy vọng được”.
Đặng Tiểu Bình rất ít khi nói mình thấy vui về vấn đề gì, thế nhưng, cũng trong chuyến đi thăm miền Nam năm 1992 ông đã bốn lần liên tục dùng từ “vui mừng” khi nói về khoa học kỹ thuật: “Làm khoa học kỹ thuật, càng cao càng tốt, càng mới càng tốt, càng cao càng mới, chúng tôi càng vui mừng. Không chỉ chúng tôi vui mừng mà nhân dân cũng vui mừng, nhà nước cũng vui mừng.”
(Mọi thông tin, trích dẫn trong bài, nếu không ghi chú gì thêm thì đều được lấy từ cuốn: “Đặng Tiểu Bình – Một trí tuệ siêu việt” của Lưu Cường Luân và Uông Đại Lý, NXB Lao Động, 2006.)
NĐK
Noi TOM GON cac CHOP BU CSVN BIET RO NHUNG XAU XA CAN BAN cua DCSVN (CO CAU QUYEN HANH thi PHONG KIEN LOI THOI trong khi CACH THUC CAI TRI thi GIAN XAO TAN AC ) va, vi vay, NGUOI DAN CHAN NGAN va CAM PHAN THE CHE CS VO CUNG.
Nhung KHONG THE THAY DOI de LAM CHO TOT DEP HON,
Boi vi MUON NHU VAY thi PHAI TU BO cai coi nguon ” DOC TAI DANG TRI “. Nghia la PHAI CHO NGUOI DAN DUOC ” TU DO va DAN CHU “. Thi DANG SE MAT “CHO DUNG”,
Cho nen cai Hien Phap CSVN PHAI CO DIEU 4 de DOC QUYEN CAI TRI va Bo Hinh Luat CSVN PHAI CO Dieu 331 ” CAM Loi Dung Cac Quyen Tu Do …” DE BOP CO NGUOI DAN KHONG CHO DUOC NOI LEN NHUNG DIEU DCSVN KHONG CHO PHEP.
Nhung DE CO MAU ME TRANG DIEM trong CHINH SACH ” MY DAN “, DCSVN, vi vay, PHAI CHO TRINH DIEN CAC “MAN KICH CANH TAN, KY NGUYEN, TINH GON nay no ” DE CHE DAY ” SU TAN AC va LONG THAM BAM VIU QUYEN HAN CAI TRI DOC TAI ”
Cac MAN KICH MY DAN van dang TIEP DIEN nhu moi nguoi van NHIN THAY.
Boi vi, NEU THAT LONG, thi CHI CAN TRUNG CAU DAN Y de BIET NGUOI DAN CO MUON THE CHE DOC TAI CS HAY KHONG. La CO THE BIET LIEN.
A di đà Phật!
Đảng CSVN theo chủ nghĩa Mác- Lênin và “tư tưởng Hồ Chí Minh”, nay lại đèo bòng thêm “tư tưởng Tập Cận Bình”. Vậy, Đảng đội đâu cho hết các “mũ Kim Cô”?!
Chủ nghĩa Mác Lênin đã “chết nghỉm” ngay trên quê hương của Các Mác và Lê-nin “vĩ đại”! Người Đức nói, “Aus der Praxis für die Praxis” (= Xuất phát từ thực tiễn để phục vụ thực tiễn). Sau này, Lênin sửa thành “Phân tích cụ thể tình hình cụ thể”.
Thực tiễn và tình hình cụ thể sờ sờ ngay trước mắt. Đảng CSVN giả đui giả điếc, sờ soạng dò dẫm, thắp đuốc đi tìm “éch ộp đêm ba mươi”!?
Chỉ khi nào toàn Đảng thức tỉnh (= có tâm Phật), vì dân vì nước (= lấy dân làm gốc), quay đầu vào bờ, khi đó “may ra” Đảng mới có chỗ đứng trong lòng dân tộc! Sadhu! Sadhu! [Lành thay]!
A di đà Phật!
Thiền sư Thích Nhất Đảng