Vũ Đức Khanh
3-9-2024
Việc phân tích sự thành công của Hàn Quốc và Đài Loan trong quá trình chuyển đổi từ độc tài sang dân chủ, đồng thời xem xét khả năng áp dụng cho Việt Nam, đòi hỏi sự hiểu biết về cả yếu tố nội tại lẫn áp lực từ bên ngoài.
Dưới đây là phân tích cụ thể về hai quốc gia này, cùng với việc đánh giá tính khả thi của quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam. Hy vọng bài phân tích này sẽ đặc biệt giúp ông Tô Lâm, cũng như các thế lực cầm quyền ở Việt Nam và các nhà vận động dân chủ cho Việt Nam có thêm dữ liệu, góc nhìn đa chiều để hướng tới một “giải pháp chính trị khả thi” cho Việt Nam.
1. Hàn Quốc: Từ độc tài quân sự đến nền dân chủ thành công
1.1. Trước khi dân chủ hóa
1.1.1. Giai đoạn độc tài quân sự (1961-1987):
Sau cuộc đảo chính của tướng Park Chung-hee năm 1961, Hàn Quốc bị cai trị bởi các chính quyền quân sự độc tài. Trong thời gian này, kinh tế Hàn Quốc phát triển mạnh nhờ các chính sách công nghiệp hóa và xuất khẩu. Tuy nhiên, tự do chính trị bị hạn chế nghiêm trọng, và các phong trào đòi dân chủ thường xuyên bị đàn áp.
1.1.2. Sự kiện Gwangju (1980):
Vụ đàn áp bạo lực của chính quyền với các cuộc biểu tình đòi dân chủ ở Gwangju đã trở thành một bước ngoặt quan trọng. Hàng trăm người biểu tình bị giết hại, làm dấy lên sự phản đối mạnh mẽ trong dân chúng và gây áp lực lớn lên chính quyền.
1.2. Chuyển đổi thành công
1.2.1. Phong trào dân chủ (1987):
Dưới áp lực từ các phong trào sinh viên và tầng lớp trung lưu, chính quyền độc tài buộc phải nhượng bộ. Cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên được tổ chức vào năm 1987, đánh dấu bước đầu của quá trình dân chủ hóa.
1.2.2. Điều kiện cần và đủ:
1.2.2.a. Sự phát triển của tầng lớp trung lưu:
Kinh tế phát triển đã tạo ra một tầng lớp trung lưu có yêu cầu cao về quyền lợi chính trị và xã hội.
1.2.2.b. Sự yếu kém của chính quyền độc tài:
Áp lực quốc tế, cùng với sự bất mãn trong nước, đã khiến chính quyền mất đi tính chính danh.
1.2.2.c. Sự can thiệp của Mỹ:
Là một đồng minh thân cận, Mỹ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy cải cách dân chủ ở Hàn Quốc.
2. Đài Loan: Từ độc tài Quốc dân Đảng đến nền dân chủ toàn diện
2.1. Trước khi dân chủ hóa
2.1.1. Chế độ độc tài Quốc dân Đảng (1949-1987):
Sau khi Quốc dân Đảng (KMT) thua trong cuộc nội chiến với Đảng Cộng sản Trung Quốc, họ rút về Đài Loan và thiết lập chế độ độc tài. Trong nhiều thập kỷ, Đài Loan bị cai trị bởi chính quyền độc tài với thiết quân luật kéo dài từ năm 1949 đến 1987.
2.1.2. Áp lực từ các phong trào dân chủ:
Các phong trào đòi dân chủ dần hình thành trong những năm 1970-1980, với sự xuất hiện của các nhóm chính trị mới và các cuộc biểu tình đòi bãi bỏ thiết quân luật.
2.2. Chuyển đổi thành công
2.2.1. Chính sách cải cách của Tưởng Kinh Quốc (Chiang Ching-kuo):
Dưới áp lực trong và ngoài nước, lãnh đạo Tưởng Kinh Quốc, con trai của Tưởng Giới Thạch, bắt đầu quá trình cải cách chính trị từ thập niên 1980. Ông chấm dứt chế độ thiết quân luật vào năm 1987 và mở đường cho các cuộc bầu cử dân chủ vào những năm 1990.
2.2.2. Điều kiện cần và đủ:
2.2.2.a. Sự cải cách từ bên trong chính quyền:
Tưởng Kinh Quốc đã nhận ra sự cần thiết của cải cách để bảo đảm sự ổn định và phát triển của Đài Loan.
2.2.2.b. Áp lực từ xã hội dân sự:
Phong trào dân chủ mạnh mẽ, cùng với áp lực từ quốc tế, đã buộc chính quyền Quốc dân Đảng phải thay đổi.
2.2.2.c. Quan hệ với Mỹ:
Cũng như Hàn Quốc, Đài Loan có quan hệ mật thiết với Mỹ, và sự hỗ trợ của Mỹ là yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình dân chủ hóa.
3. Liệu Việt Nam có thể dân chủ hóa?
3.1. Thách thức nội tại
3.1.1. Chế độ toàn trị và bộ máy an ninh chặt chẽ:
Việt Nam hiện đang bị cai trị bởi Đảng Cộng sản, với sự kiểm soát nghiêm ngặt của bộ máy công an, tình báo, và an ninh. Bộ máy này đã ngăn chặn hiệu quả các phong trào đòi dân chủ và kiểm duyệt các tiếng nói đối lập. Đây là thách thức lớn nhất đối với quá trình dân chủ hóa.
3.1.2. Tính hợp pháp của Đảng Cộng sản:
Dù có nhiều chỉ trích, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn giữ được tính hợp pháp trong mắt nhiều người dân, nhờ vào những thành tựu kinh tế kể từ Đổi Mới. Điều này khác biệt với tình hình ở Hàn Quốc và Đài Loan, nơi chính quyền độc tài bị mất lòng dân trước khi dân chủ hóa.
3.1.3. Sự phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc:
Việt Nam, dù có những căng thẳng chính trị với Trung Quốc, vẫn phụ thuộc nhiều vào quốc gia láng giềng này về kinh tế. Trung Quốc có thể không muốn thấy một Việt Nam dân chủ và có thể gây sức ép để ngăn chặn bất kỳ sự thay đổi nào.
3.1.4. Áp lực quốc tế và khu vực:
Nếu Việt Nam muốn tiếp tục hội nhập quốc tế, họ sẽ phải đối mặt với áp lực từ các quốc gia dân chủ, đặc biệt là Mỹ và EU, trong việc cải cách chính trị. Các hiệp định thương mại như CPTPP, bao gồm những điều khoản về lao động và nhân quyền, tạo ra một nền tảng cho các cải cách dân chủ.
3.1.5. Tầng lớp trung lưu đang lớn mạnh:
Giống như Hàn Quốc và Đài Loan, Việt Nam đang chứng kiến sự phát triển của tầng lớp trung lưu, những người đòi hỏi nhiều hơn về quyền lợi chính trị và xã hội. Tầng lớp này có thể trở thành lực lượng chính, yêu cầu cải cách trong tương lai.
3.1.6. Sự yếu kém của Đảng Cộng sản:
Nếu Đảng Cộng sản mất đi tính chính danh do các vấn đề tham nhũng, quản lý yếu kém hoặc không đáp ứng được nguyện vọng của người dân, họ có thể buộc phải nhượng bộ trước các yêu cầu dân chủ hóa.
3.2. Yếu tố quyết định thành công
3.2.1. Áp lực từ bên trong:
Quá trình dân chủ hóa thành công sẽ cần phải có áp lực từ nội bộ, bao gồm cả tầng lớp trung lưu, trí thức, và các nhóm xã hội dân sự. Cải cách từ bên trong Đảng, như trường hợp Đài Loan, có thể là một con đường khả thi.
3.2 2. Sự hỗ trợ quốc tế:
Mỹ và các nước phương Tây có thể đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sức ép cải cách. Điều này đòi hỏi một sự thay đổi chiến lược trong chính sách ngoại giao của Việt Nam, chuyển từ phụ thuộc vào Trung Quốc sang hợp tác với các nước dân chủ.
3.2.3. Tính sẵn sàng của chính quyền:
Cải cách sẽ chỉ thành công nếu lãnh đạo Việt Nam nhận thấy rằng việc tiếp tục duy trì chế độ toàn trị sẽ gây hại nhiều hơn là lợi. Tình trạng tham nhũng, bất mãn xã hội và áp lực quốc tế có thể làm cho điều này trở nên rõ ràng.
4. Kết luận
Việt Nam có tiềm năng để dân chủ hóa, nhưng quá trình này sẽ đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng từ bộ máy an ninh và sự kiểm soát của Đảng Cộng sản. Tuy nhiên, nếu có sự kết hợp giữa áp lực từ nội bộ, tầng lớp trung lưu phát triển, cùng với sự hỗ trợ quốc tế, Việt Nam có thể theo gương Hàn Quốc và Đài Loan, từng bước chuyển đổi sang một nền dân chủ, trong khi vẫn duy trì sự ổn định kinh tế và xã hội.
Hy vọng bài viết này sẽ giúp quý độc giả, đặc biệt là những thành phần nêu trên, hiểu rõ hơn về những điều kiện cần thiết để thúc đẩy quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam.
“Việt Nam đang chứng kiến sự phát triển của tầng lớp trung lưu, những người đòi hỏi nhiều hơn về quyền lợi chính trị và xã hội. Tầng lớp này có thể trở thành lực lượng chính, yêu cầu cải cách trong tương lai.” “Quá trình dân chủ hóa thành công sẽ cần phải có áp lực từ nội bộ, bao gồm cả tầng lớp trung lưu, trí thức, và các nhóm xã hội dân sự.”
Tầng lớp trung lưu và đại đa số dân chúng trong nước có ý thức dân chủ chưa, có xem dân chủ là một mục tiêu cao cả cần phải tranh đấu không, chừng nào mà họ trở thành lực lượng chính cho công cuộc đấu tranh, vấn đề dân trí là chủ yếu mà tác giả chưa thảo luận.
Gần 50 năm, chính quyền CSVN không giáo dục cho dân chúng biết ý nghĩa đích thực của dân chủ là gì, dân chúng cũng chưa có cơ hội để thực tập dân chủ qua tự do bầu cử hay thực hành quyền tự do báo chí, biểu tình. Còn hơn 5 triệu dân Việt đang sống tại các nước dân chủ Tây phương cũng không quan tâm nhiều đến sinh hoạt dân chủ chính trị, lo làm ăn nuôi thân và giúp gia đình. Vì không có kinh nghiệm về dân chủ, nên họ cũng không quan tâm đến việc truyền bá dân chủ cho dân trong nước.
Hiện nay, vấn đề chính là Việt Nam không muốn theo đuổi giá trị dân chủ, mà tiếp tục đôc quyển đảng trị. Đa số dân chúng không sẳn sàng đấu tranh cho dân chủ, mà cho rằng tự do kinh tế là quan trong hơn cải cách chính trị. Họ cũng không đủ thực lực để tạo ra áp lực chính trị mạnh đến độ mà chính quyền phải nhượng bất cứ quyền gì.
Với dân số gần 100 triệu dân mà chỉ có gần 170 nhà đấu tranh cho nhân quyên bị giam giữ là một bẳng chứng có thể nhận ra được thực tế của công cuộc đấu tranh hiện ay. “Tầng lớp này có thể trở thành lực lượng chính, yêu cầu cải cách trong tương lai.” là một thái độ lạc quan thiếu cơ sở, một vấn đề cần thảo luận sâu rộng hơn.
Độc tải cánh hữu còn có cơ hội và điều kiện thuận lợi để trở thành dân chủ,
chứ độc tài cánh tả thì rát khó, thậm chí vô phương bởi vì bọn lãnh đạo này
không những vô nhân tính coi trọng bạo lực mà còn cực kỳ bảo thủ hay nói
rõ hơn ngoan cố và mê muội nhất với…lý tưởng “còn đảng còn mình” !
Hề… hề…, Nếu độc tài vì dân vì nước như Phác Chính Hy (Park Chunghee) còn bị một phát đạn vào giữa mặt, thì cần phải có 2 loạt AK vào mặt và háng các loại độc tài cố tình TƯ BẢN HÓA KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG và NGU DÂN HÓA CƠ SỞ HẠ TẦNG, đặc biệt là, loạt độc tài công an trị, chứ đừng mong gì đấu tranh hoặc phản biện hòa bình ccm gì đó với bọn chúng!!!