11-12-2023
Room tín dụng có thể coi là công cụ quan trọng nhất trong điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam. Trong khi các nước trên thế giới thì ít khi dùng công cụ này, mà thay vào đó là lãi suất điều hành.
Room tín dụng hay lãi suất điều hành là cách để ngân hàng trung ương các nước can thiệp vào cung cầu trên thị trường tín dụng.
Lãi suất điều hành ở đây được hiểu là một chùm nhiều công cụ nhưng có đặc điểm chung là làm thay đổi chi phí kinh doanh của ngân hàng thương mại, bao gồm cả chi phí cơ hội. Chi phí này sẽ phản ánh ngay lập tức vào giá của tín dụng, hay còn gọi là lãi suất.
Về bản chất kinh tế, room tín dụng là can thiệp vào sản lượng (quota), còn lãi suất điều hành là can thiệp vào giá. Mỗi cái có ưu nhược điểm riêng.
Can thiệp bằng quota có cái hay là tương đối chắc tay. “Bắt phong trần phải phong trần, cho thanh cao mới được phần thanh cao”. Ngân hàng nhà nước chốt con số nào là thị trường được đúng con số đó. Nhà nước không sợ lố.
Nhưng can thiệp bằng quota có khá nhiều nhược điểm. Nhược điểm đầu tiên là phải tìm cách phân bổ cái quota đó. Mà việc phân bổ quota nhìn chung là nguy cơ xin cho rất cao. Ngày xưa vì phân bổ quota dệt may mà Thứ trưởng Mai Văn Dâu nhận án 14 năm tù.
Kể cả không tham ô tham nhũng thì nguy cơ lấy quota của người làm ăn hiệu quả rồi phân bổ cho người làm ăn kém hiệu quả rất cao. Do Nhà nước không thể biết ai làm ăn hiệu quả hơn ai.
Nhược điểm thứ hai là quota luôn phải xác định cho một khoảng thời gian, thường là theo năm. Mà như vậy thì rất dễ dẫn đến tình trạng đầu năm – cuối năm lệch nhau. Năm nào thiếu thì cuối năm lãi suất tăng khiếp, năm nào mà thừa thì cuối năm lại dễ cho vay dưới chuẩn.
Ngược lại, nếu can thiệp vào giá (lãi suất) thì sẽ không gặp vấn đề phân bổ cho ngân hàng này, ngân hàng kia. Vì tất cả các ngân hàng chịu tác động lãi suất như nhau. Lãi suất điều hành cũng có thể được điều chỉnh bất kỳ thời điểm nào trong năm, chứ không nhất thiết phải theo năm tài chính.
Nhưng phải thừa nhận, điều hành bằng lãi suất khó hơn điều hành bằng room tín dụng.
Lý do chủ yếu là vì độ trễ từ thời điểm điều chỉnh lãi suất, cho đến khi tác động được đến tăng trưởng và lạm phát thường mất nhiều thời gian. Có nhà kinh tế học từng ví von, điều hành lãi suất giống như vặn cái vòi nước mà 18 tháng sau nước mới chảy (hoặc đóng vòi mà 18 tháng sau nước mới dừng).
Vì thế, các ngân hàng trung ương trên thế giới phải dùng rất nhiều các mô hình kinh tế lượng vĩ mô (macro-econometrics) và nhiều các nguồn dữ liệu đầu vào để có thể chạy các model này.
Cách làm này của các nước trên thế giới có vẻ khá hiệu quả trong nhiều thập kỷ trước đây. Nhưng đợt Covid và hậu Covid cho thấy, các model này vẫn có thể mắc sai lầm. Như Fed, dù được vũ trang đầy mình với các thể loại mô hình, dữ liệu mà ba năm qua điều hành loạn cào cào.
Tác giả viết :
“Về bản chất kinh tế, room tín dụng là can thiệp vào sản lượng (quota)”
@
Tác giả tốt hơn nên để nguyên chữ quota, cũng như chữ room để nguyên là tốt (tuy có thể dịch “dư địa”), bởi lẽ giới viết còm vào đây đều thừa hiểu nội dung các chữ nầy, không phải dịch ra nếu không biết chắc nghĩa của chữ, bởi “traduir c’est trahir”
* Quota dịch “sản lượng” là không đúng.
Sản lượng là output hoặc production.
Một bài có hàm lượng học thuật cao như vậy, tác giả tất nhiên phải có trình độ, hoặc dịch lại từ bài viết tiếng nước ngoài. Do đó, không được phép dùng sai bất cứ gì.
Để tránh nghi ngờ từ bất cứ ai, kể cả tác giả, xin đưa định nghĩa chữ output của tự điển Cambridge
Trích:
quota : a fixed, limited amount or number that is officially allowed:
The country now has a quota on immigration.
figurative The class contains the usual quota (= number) of troublemakers.
Tạm dịch: quota (định nghĩa bởi dictionary.cambridge.org) có nghĩa là:
một số lượng, hoặc một số (cái gì, vật gì, chất gì, người, con vật, côn trùng…- minh hoạ thêm của HP) nhất định, có giới hạn, mà đã được mọi người công nhận. (thí dụ 🙂
– Giờ đây quốc gia nhận một số lượng người di trú nhất định.
Nghĩa bóng của từ quota :
– Lớp học nào cũng thường có số lượng nhất định những đứa ưa phá phách/gây rối.
Xin lỗi đã viết nhầm “…định nghĩa chữ output”
Sửa lại là
“định nghĩa chữ quota”