9-8-2023
Những năm qua, xảy ra hai vụ án tử tù, trong nam là Hồ Duy Hải, ngoài Bắc là Nguyễn Văn Chưởng. Điều kỳ lạ là hai vụ án này có khá nhiều điểm tương đồng:
– Xảy ra gần thời điểm (2007 vụ NVC, 2008 vụ HDH); đều bị bản án sơ thẩm, phúc thẩm kết án tử hình về tội giết người, cướp tài sản; cả hai đều một mực kêu oan.
– Cả hai vụ đều bị VKSNDTC kháng nghị xem xét lại theo thủ tục Giám đốc thẩm vì cho rằng quá trình tố tụng có sai sót; nhiều vấn đề chưa được làm rõ…, tuy nhiên đều bị HĐTP Toà án tối cao bác kháng nghị,
– Cả hai vụ án đều đã trải qua hết quá trình tố tụng: Xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm và xem xét Giám đốc thẩm bởi HĐTP TANDTC.
Tuy nhiên đến nay, mặc dù án đã có hiệu lực pháp luật (từ 2008, 2009) nhưng vẫn chưa thi hành được. Điều này thực sự là không bình thường đối với hoạt động tư pháp. Vụ án từng được Uỷ ban tư pháp quốc Hội quan tâm, Chủ tịch nước đề nghị xem xét giải quyết dứt điểm từ nhiều năm trước nhưng đến nay vẫn chưa tìm được lối ra.
Vậy tại sao đến nay cả hai vụ đều không thi hành án được, mà cứ tiếp tục giam giữ họ trong mòn mỏi? Có lẽ người ta biết rằng, với các tình tiết của vụ án chưa được làm rõ như hiện nay mà thi hành án thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến dư luận xã hội, làm giảm lòng tin của người dân đối với hoạt động tư pháp. Nhưng nếu không thi hành thì không lẽ cứ hoãn và giam họ mãi hay sao? Bản án đã có hiệu lực mà không thi hành cũng là bất thường, trái pháp luật, làm mất tính nghiêm minh của luật pháp.
Khi bàn luận về vấn đề này thì cũng đã có những quan điểm của một số người đưa ra hướng giải quyết như là:
1. Uỷ ban tư pháp Quốc hội, UB thường vụ Quốc hội có thể kiến nghị, yêu cầu HĐTPTAND tối cao xem xét lại vụ việc, khi đó có thể huỷ án điều tra lại từ đầu.
2. Chủ tịch nước ban hành lệnh ân xá cho tử tù.
Liệu hai phương án trên có khả thi không? Nghe qua thì tưởng đơn giản nhưng cũng không hề đơn giản chút nào, bởi lẽ:
– Hướng thứ nhất: Theo quy định Điều 404 về Yêu cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (BLHS 2015) thì UBTPQH, UBTVQH có quyền kiến nghị, yêu cầu HĐTP TANDTC mở phiên họp xem xét lại quyết định Giám đốc thẩm khi có căn cứ xác định quyết định của HĐTP TANDTC có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định mà HĐTP TANDTC không biết được khi ra quyết định đó.
Điều này là tương đối khó, vì phải có căn cứ xác định quyết định của HĐTP TANDTC có vị phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết mới làm thay đổi bản chất vụ án. Nếu không có tình tiết mới thì không lẽ phải xác định quyết định của HĐTP TANDTC có vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Điều này có dễ dàng không đối với cơ quan tư pháp xét xử cấp cao nhất của một quốc gia?
– Hướng thứ hai: Chủ tịch nước có thể dùng thẩm quyền của mình ân giảm hình phạt tử hình xuống chung thân. Điều này đồng nghĩa với việc họ là có tội, không oan ức. Hải, Chưởng sẽ thụ án chung thân, cộng các năm đã bị giam và cải tạo tốt thì có thể ra tù trước thời hạn. Vụ án có thể sẽ khép lại, các vấn đề có thể sẽ không được làm rõ nữa, chìm nghỉm và sẽ có thể lại có những vụ án tương tự xuất hiện. Liệu điều này có là ổn không đối với nền tư pháp của một quốc gia?
Còn đối với họ và gia đình họ, liệu họ có cam chịu nhận tội hay không khi họ đang kêu oan và muốn làm rõ để minh oan cho họ. Đối với nhiều người có khi danh dự còn quan trọng hơn cả cái chết.
Mặt khác ân giảm án là hình thức khoan hồng cho người ăn năn, hối cải. Vậy nếu họ vẫn một mực kêu oan (nghĩa là không chịu nhận tội, không hối cải) thì liệu có ai ban lệnh ân giảm không?
Theo tôi thì cả hai hướng trên đều khó cả. Ngay kể cả với tình huống 1 được rất nhiều chuyên gia đề cập nhưng tại sao đến nay vẫn chưa thực hiện được. Giả sử ngay cả khi có căn cứ xác định Quyết định của HĐTP TANDTC là vi phạm pháp luật nghiêm trọng và UBTV Quốc hội vào cuộc yêu cầu xem xét lại thì lại cũng gặp khó lần nữa, bởi lẽ:
Theo quy định pháp luật thì việc xem xét lại quyết định của HĐTP TANDTC cũng do chính HĐTP TANDTC thực hiện. Hiện nay Hội đồng này có 17 vị Thẩm phán và theo khoản 3 điều 411 BLTTHS thì Quyết định của HĐTP TANDTC phải được ít nhất 3/4 tổng số thành viên của Hội đồng biểu quyết tán thành. Như vậy là nếu 17 vị họp Hội đồng thì phải có 13/17 vị đồng ý.
Tuy nhiên cái khó hiện nay là các vị này (có thể toàn bộ hoặc số đông) đã là người tham gia vào phiên Giám đốc thẩm hai vụ án trên (Giám đốc thẩm vụ Nguyễn Văn Chưởng năm 2011 có 11 vị tham gia; Giám đốc thẩm vụ Hồ Duy Hải năm 2020 cả 17 vị tham gia). Vì vậy về nguyên tắc đảm bảo tính khách quan thì những ai đã tham gia phiên Giám đốc thẩm rồi thì không được tham gia phiên xét lại nữa. Vì vậy giả sử UBTVQH có yêu cầu HĐTP TANDTC xem xét lại thì liệu có đủ thẩm phán tham gia hay không? Nếu không đủ thì phải chờ cho đến khi có loạt thẩm phán mới, đủ điều kiện tham gia. Tuy nhiên hiện nay thời hạn bổ nhiệm của Thẩm phán của các vị này là 10 năm nên việc chờ đợi cũng không biết đến bao giờ. Cái khó vẫn tiếp nối cái khó.
Mặc dù khó là vậy, nhưng một vấn đề ảnh hưởng đến dư luận xã hội, ảnh hưởng uy tín nền tư pháp một quốc gia, làm cho dân chúng bất an khi có tình trạng vi phạm trong hoạt động tố tụng để tước đoạt mạng sống của một công dân như vậy thì không lẽ các cơ quan chức năng không giải quyết dứt điểm và chừng nào chưa dứt điểm thì còn ảnh hưởng không tốt đến dư luận xã hội. Vì vậy, theo quan điểm cá nhân của tôi thì có thể chính Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất (đại diện cho người dân, với chức chức năng ban hành Luật pháp, giám sát thực thi luật pháp) có thể ra quyết định huỷ bỏ các bản án đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại từ đầu. Tạm thời cho các bị cáo tại ngoại, quản lý chặt chẽ để phục vụ công tác điều tra.
Điều này là chưa có tiền lệ nhưng đất nước chúng ta cũng không phải là chưa xảy ra những việc không có tiền lệ. Vì vậy, việc chưa phù hợp luật định, chưa có tiền lệ nhưng có lợi cho dân cho nước thì có lẽ người dân cũng đồng tình. Bởi lẽ hai vụ án này là cá biệt, nhưng cái quan trọng hơn mà người dân quan tâm qua hai vụ án này là một nền tư pháp minh bạch để bảo vệ tốt nhất cho quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Mặt khác, bên cạnh việc tăng cường giám sát chặt chẽ việc thực thi luật tố tụng hình sự để tránh oan sai (như: tuân thủ quyền im lặng; các bản hỏi cung, tự khai phải có chứng kiến của Luật sư; ghi hình các buổi hỏi cung…) cũng phải xem xét sửa đổi pháp luật liên quan để gỡ bí cho các tình huống như hai vụ án này. Còn sửa thế nào là việc của các chuyên gia.
HỌC GIẢ BÙI CHÍ VỊNH
Trong bộ đội khi tấn công một tên chỉ huy tham ô đàn áp lính
Là đã bị chụp mũ “mưu sát cán bộ, cướp đoạt chính quyền”
Năm 25 tuổi tôi đã từng nằm quân lao với tội danh như vậy
Nên chuyện ngậm máu phun người vốn là chuyện tất nhiên
Vì thế tôi không mơ hồ gì việc có người muốn Nguyễn Văn Chưởng quy tiên
Với lý do duy nhất là phạm nhân nhận tội
Xin lỗi, những thằng xử Nguyễn Văn Chưởng chỉ cần một ngày nằm ở nhà giam
Hứng tra tấn là mẹ cha không nhìn nổi
Quan tòa mà ở tù thì quan tòa cũng phải nói
Không khai man cũng khai đại, miễn khỏi bị đòn
Không giết người cũng sẵn sàng nhận dối
Sẵn sàng nhận mình là hung thủ ác ôn
Sẵn sàng nhận mình là hung thủ cho xong
Bất chấp hệ thống tư pháp được lập đầu danh trạng
Ở một xứ sở đầy ma quỷ cô hồn
Ai đang sống cũng chờ ngày lãnh án
Hỡi những kẻ nắm cán cân công lý mà tâm hồn chai sạn
Làm ơn một lần trong năm thở hơi thở con người
Làm ơn ngưng ngay việc tử hình Nguyễn Văn Chưởng
Để bia miệng ngàn đời không nguyền rủa tanh hôi…
NGUỒN MẠNG.
Trong lịch sử tư pháp của Việt Nam mà tôi quan sát, hiếm khi có một vụ trọng án mà cơ quan điều tra chịu bó tay. Không ít vụ án được phá trong một thời gian kỷ lục. Nhưng, cũng hiếm khi tôi thấy những vụ án oan nghiêm trọng nhất được chủ động phát hiện bởi các cơ quan tố tụng.
Năm 1983, cho dù mang “trái tim trong trắng” [kịch Lưu Quang Vũ], ông Nguyễn Sỹ Lý vẫn bị giam cầm 2.000 ngày. Và, ông Lý chỉ được minh oan khi một người bạn tù được tha trước, âm thầm giúp ông tìm ra thủ phạm. Ông Huỳnh Văn Nén cũng chỉ nhìn thấy ánh sáng sau 17 năm nhờ hung thủ, bị giữ tình cờ trong một vụ vi phạm luật giao thông, tự thú. Ông Nguyễn Thanh Chấn ở tù 10 năm cho đến khi hung thủ tự đến đồn công an.
Chuyện không phải của thời mông muội. Chỉ mới cách đây 10 năm, 7 thanh niên ở Sóc Trăng cũng chỉ được minh oan sau 4 tháng tạm giam nhờ hai nữ hung thủ cướp của giết người ra đầu thú.
Những người chịu “án oan thế kỷ”, trong phòng tạm giam, đều khai nhận “hành vì giết người” hoàn hảo. Trừ 7 thanh niên ở Sóc Trăng, tất cả, khi đứng trước tòa, đều phản cung và đều bị tòa căn cứ “án tại hồ sơ”, bác bỏ. Và, chỉ khi hung thủ thật bị lương tâm cắn rứt khai ra, những gì họ tố cáo bị bức cung mới được xác nhận hóa ra là đúng.
Với hai tử tù Nguyễn Văn Chưởng và Hồ Duy Hải, nếu thực sự oan, không rõ, chúng ta có thể chờ đợi lương tâm của những người đã tiến hành tố tụng hay lại phải chờ lương tâm hung thủ.
Khi nhậm chức, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng yêu cầu công tác xét xử “không được để xảy ra oan sai”. Đây là điều mà những người tiền nhiệm ông cũng đều nhấn mạnh.
Không phải lúc nào thông điệp này cũng được diễn dịch giống nhau. Nó tùy thuộc vào một hệ thống tư pháp sợ OAN cho thường dân hay chỉ sợ cái SAI của mình bị phát hiện.
Tôi không biết hiện nay, ngành tòa án có còn giữ tiêu chí “án bị cải sửa” làm căn cứ bình xét thi đua và căn cứ để tái bổ nhiệm thẩm phán nữa không. Sợ sai, sợ án bị cải sửa là lý do mà các cơ quan tố tụng rất khó từ bỏ một tiền lệ rất sai là họp án [“ba bộ đồng tình…”] và thỉnh thị án.
Nếu một nền tư pháp vận hành theo hướng để dân không bị OAN, nền tư pháp đó phải luôn đặt ra khả năng tố tụng có thể SAI. Không phải tự nhiên mà ngay từ xa xưa loài người đã nghĩ đến việc tách bạch các cơ quan tố tụng và phân ra nhiều cấp xét xử.
Một nền tư pháp mà hướng tới mục tiêu hoàn hảo, các cơ quan tố tụng không bao giờ sai thì chỗ của những người thực sự bị oan là ở trong tù chứ chưa chắc đã phải là những người được tuyên vô tội.
Tôi đã từng phỏng vấn tử tù “Phước Tám Ngón” và có mặt tại pháp trường cái buổi sáng 3 bị án trong vụ Tamexco bị bắn. Trừ những loại giết người do bệnh lý, thích chơi trò cân não với cơ quan điều tra, phần lớn những hung thủ thật sự giết người rất ít khi kêu oan. Chúng chấp nhận đã vay [mạng người] thì trả.
Chúng ta đang nghe những lời kêu oan từ hai bị án Nguyễn Văn Chưởng và Hồ Duy Hải. Chúng ta có thể vĩnh viễn không biết sự thật nằm ở đâu. Nhưng, tôi nghĩ những người tiến hành tố tụng trong hai vụ án này biết rõ.
Chúng ta đã phải đợi cho đến khi hung thủ thật sự ra đầu thú mới biết là Nguyễn Sỹ Lý, Huỳnh Văn Nén, Nguyễn Thanh Chấn bị oan. Nhưng, những người tiến hành tố tụng chắc chắn đã biết điều đó khi họ bắt đầu sử dụng nhục hình và mớm cung bị cáo.
Đã từng có khá nhiều hung thủ thật ra đầu thú để minh oan cho người gánh án thay mình; nhưng, trong nền tư pháp nước ta, ít khi có một cán bộ từng tiến hành tố tụng tự nhận là mình sai để minh oan cho nạn nhân của chính mình và cộng sự.
Trong các vụ án oan như Nguyễn Sỹ Lý, Huỳnh Văn Nén, Nguyễn Thanh Chấn… đều có vi phạm tố tụng nghiêm trọng. Chúng ta chứng kiến, việc khăng khăng tuyên bố “sai phạm tố tụng” nhưng “không làm thay đổi bản chất vụ án” đáng sợ thế nào.
Một nền tư pháp mà chỉ sợ lộ ra cái SAI sẽ không bao giờ tránh được OAN [khiên – cho dân].
Cứ tống vào tù một dân oan là cấp phép tự do cho một tên tội phạm [hung thủ trong vụ án Huỳnh Văn Nén từng gây án đâm, chém trong thời gian ông Nén bị tù oan].
Không có mô hình tư pháp nào hoàn hảo. Mô hình ưu việt hơn không phải là có khả năng lập thành tích “phá án 100%”, là không phải không có “án bị cải sửa” mà là có khả năng tự phát hiện sai sót.
Mục tiêu của một nền tư pháp là công lý chứ không chỉ là phá án. Chính vì thế mà trong nhiều trường hợp, các cơ quan tố tụng phải chấp nhận thua; bởi, một khi các cơ quan tố tụng cứ khăng khăng thắng sẽ không có chỗ cho công lý.
FB H.Đ
Kính thưa Admin
Tôi rất mong Admin kính mời các nhà tâm lý học (với trình dộ chuyên gia và lương tri trong sáng) hãy viết loạt bài phân tích tâm lý các đồng chí công an hình sự nỡ nào nghĩ ra đủ mọi cách tra tấn tàn bạo nhất để bắt tù nhân khai cung phù hợp với bản án do chính họ bịa đặt ra.
Các vụ án tử hình được giải oan gần đây đều có yếu tố tra tấn tàn bạo mà người lương thiên không thể hình dung ra được.
Trân trọng kính xin
NguyenDo
TQM. “ăn cơm quốc gia thờ ma CS.” nhưng nhân danh thành phần thú 3 cho ra vẻ ở
giữa, không theo ai cả. Màn kịch hay họ lúc đò này đã dẫn tới hậu qủa như người ta
thấy ngày nay. Kẻ nào nối giáo cho giặc thì kẻ đó đáng bị nguyền rũa nhất !
Cả nước bị đảng CS. lừa bịp ngon ơ vì không phải họ thực sự muốn quyền tư quyết
dân tộc hay “giải phóng” gì hết mà là tròng gông cùm CS. lên cả nước !
Có một câu chuyện được luật sư Triệu Quốc Mạnh – Chỉ huy lực lượng cảnh sát Sài Gòn – Gia Định, kể lại như vầy: Ngày 29/4/1975, sau khi nhậm chức Chỉ huy lực lượng cảnh sát Sài Gòn – Gia Định, ông Mạnh đến Tòa Sài Gòn – Gia Định thì thấy lực lượng cảnh sát tư pháp ở đây vẫn tề tựu đầy đủ, quân trang gọn gàng đứng chào ông nghiêm cẩn. Ông mới vội vã hỏi: “Các anh còn làm gì ở đây mà chưa đi di tản?” Chỉ huy trưởng cảnh sát tư pháp mới nói: “Tại sao chúng tôi phải di tản? Chúng tôi đâu có liên quan gì đến chính quyền?”
Chuyện này tôi được nghe chính một người cùng trong “lực lượng thứ ba” với ông Mạnh kể lại. (Vì sự riêng tư của ông, tôi sẽ không nói tên, nhưng tôi tin ông, và cũng không thấy ông có lý do để bịa đặt chuyện này).
Bây giờ nghe chuyện này chúng ta có thể thấy vô lý, nhưng đó chính là nhận thức của những người thời đó, cụ thể là của những người trong ngành tư pháp Sài Gòn bấy giờ: “TƯ PHÁP ĐỘC LẬP”.
Chính vì thế mới có chuyện, những “trùm sinh viên” của Tổng hội Sinh viên Sài Gòn như Huỳnh Tấn Mẫn, Dương Văn Đầy… được thả ngay tại tòa, trước sự tức tối của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, trong vụ “10 tháng 3” nổi tiếng.
Tư pháp độc lập không phải sự đảm bảo tuyệt đối cho công lý, nhưng nó là điều kiện tối cần thiết để có được công lý.
Công lý cần cho tất cả chúng ta. Công lý cần cho mọi người dân, và cần cho cả chính quyền.
Một chính quyền muốn thực sự vững mạnh, muốn giữ được xã hội thực sự ổn định bền vững thì phải đảm bảo công lý cho từng người dân và tất cả nhân dân.
Hôm qua, đọc bức thư của Nguyễn Văn Chưởng trên trang FB của luật sư Lê Văn Hòa tôi chợt nhớ lại câu chuyện của luật sư Triệu Quốc Mạnh ở trên.
Có lẽ cũng đã đến lúc nghiêm túc đặt ra vấn đề độc lập tư pháp và thành lập một lực lượng cảnh sát tư pháp độc lập, để hạn chế tối đa những oan sai do sự chồng chéo của hệ thống điều tra – xét xử hiện hành.
FB NĐK
Những cái “khó” mà tác giả bài này nêu ra… đều là do con người nghĩ ra và ghi vào giấy, biến thành Luật.
Con người tạo ra luật, thì con người cũng sửa luật
Kit test đểu gián tiếp làm chết bao nhiêu người còn không quyết, vài ba thảo dân nghĩa lý gì với sự vĩ đại của đảng ….
Chiều Nay mà cứ bàn về quyền với luật mà không thấy nhảm nhí và vô ích à. Cương lĩnh “luật là tao, tao là luật” là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử đảng, là kim chỉ nam cho mọi hành động. Giáo trình triết học Mác Lê đã nói rõ “luật pháp là công cụ của chuyên chính vô sản”.
Nói ra thì sẽ có người nói này nọ, nhưng cách duy nhất còn lại & cũng hữu hiệu nhứt là các bác nên kêu cứu với Đảng Cộng Sản Trung Quốc