Tác giả: Francesco Guarascio
Cù Tuấn, dịch
17-3-2023
HÀ NỘI, ngày 16 tháng 3 (Reuters) – Việt Nam đã nhận được làn sóng đầu tư từ nước láng giềng kể từ khi Trung Quốc đột ngột hủy bỏ chiến lược ngăn chặn vi-rút nghiêm ngặt và giải phóng mối quan tâm bị dồn nén từ các công ty – và nhà cung cấp của họ – nhằm chạy trốn khỏi tác động của xung đột thương mại Trung-Mỹ.
Sau khi Trung Quốc kết thúc chính sách Zero COVID-19 vào tháng 12 năm 2022, các công ty Trung Quốc đã dành 50 ngày đầu tiên của năm 2023 để đầu tư vào 45 dự án mới tại Việt Nam, nhiều nhất tính theo quốc gia, theo dữ liệu của chính phủ Việt Nam.
Các chuyên gia trong ngành cho biết, với những tên tuổi lớn đã có mặt tại quốc gia Đông Nam Á này, vốn bị thu hút bởi các hiệp định thương mại tự do và vị trí gần Trung Quốc, các công ty tạo nên làn sóng đầu tư hiện nay chủ yếu là các nhà cung cấp nhỏ hơn cho các công ty lớn hơn đã có mặt từ trước.
Thêm động lực cho động thái này là chi phí lao động ngày càng tăng ở Trung Quốc, việc mở rộng các hạn chế của Mỹ đối với thương mại liên quan đến công nghệ cao với Trung Quốc và chính sách thuế quan ăn miếng trả miếng từ cuộc chiến thương mại Trung-Mỹ đã gây ra làn sóng đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam trong quá khứ.
Michael Chan, giám đốc cấp cao về cho thuê của công ty chuyên về bất động sản công nghiệp BW Industrial Development, cho biết: “Các yêu cầu từ các công ty Trung Quốc về đầu tư sản xuất tại Việt Nam đã tăng theo cấp số nhân trong quý cuối cùng của năm ngoái”.
Ông nói: “Đầu tư của Trung Quốc cũng tăng lên đáng kể”.
XUYÊN BIÊN GIỚI
Sự đổ bộ sớm của các tập đoàn nước ngoài lớn như Samsung Electronics Co Ltd, Canon Inc và Apple Inc nhà lắp ráp thiết bị Hon Hai Precision Industry Co Ltd (Foxconn) và Luxshare Precision Industry Co Ltd đã góp phần mở rộng nhanh chóng các cụm công nghiệp trong các lĩnh vực đa dạng như điện thoại thông minh và máy in.
Nhưng nguồn cung cấp cho nhiều công ty vẫn chủ yếu đến từ Trung Quốc. Nước này chiếm hơn 20% đầu vào nhập khẩu cho xuất khẩu của Việt Nam vào năm 2021, gần gấp đôi so với năm 2017, theo tính toán của chuyên gia thương mại David Dollar thuộc Viện Brookings của Mỹ dựa trên dữ liệu của Ngân hàng Phát triển Châu Á.
Các công ty nhỏ hơn cung cấp vật tư và dịch vụ cho các tập đoàn lớn hơn có cơ sở ở Việt Nam hiện chiếm phần lớn trong số các công ty Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam, đặc biệt là ở phía bắc, ngay bên kia biên giới, các giám đốc điều hành ngành cho biết.
Quy mô của các nhà cung cấp này được phản ánh trong chi tiêu trung bình của Trung Quốc cho các dự án mới của Việt Nam trong năm nay là khoảng 5,6 triệu USD, so với mức trung bình dài hạn là 6,5 triệu USD.
Ví dụ, trong ngành công nghiệp tấm pin mặt trời của Việt Nam, do các công ty Trung Quốc thống trị, đã có một lượng lớn các nhà cung cấp dịch vụ hỗ trợ như đúc nhựa, đúc khuôn và lưu trữ năng lượng, theo các nguồn tin trong ngành.
Năm ngoái, các nhà cung cấp nhà sản xuất bảng điều khiển Trung Quốc, bao gồm cả công ty lưu trữ điện Growatt, đứng sau hai trong số các khoản đầu tư chính vào Việt Nam vào các nhà máy sản xuất sẵn, theo dữ liệu từ Tập đoàn tư vấn bất động sản CBRE của Mỹ. Những nhà máy như vậy thường được các công ty nhỏ ưa chuộng hơn khi thâm nhập vào các quốc gia mới.
Growatt đã không trả lời yêu cầu bình luận của Reuters.
Dữ liệu cho thấy các công ty điện tử, robot và thiết bị gia dụng của Trung Quốc cũng nằm trong số những công ty chi tiêu nhiều nhất cho các hợp đồng thuê công nghiệp vào năm ngoái. Những công ty khác bao gồm các công ty ván sàn, nhà sản xuất kính và nhà cung cấp hộp và linh kiện cho các thiết bị của Apple được Foxconn và Luxshare lắp ráp, theo Đỗ Hồng Quân, người đứng đầu Công ty Tư vấn Đầu tư Việt Nam, chuyên tập trung vào các nhà đầu tư Trung Quốc.
Nhìn chung, trong khi các nền kinh tế trên toàn thế giới gặp khó khăn trong việc bình thường hóa sau đại dịch và kéo theo đó là sự sụt giảm đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, các công ty Trung Quốc đã tăng gấp ba lần chi tiêu cho các địa điểm xây dựng mới ở Việt Nam trong năm nay lên 250 triệu USD so với cùng kỳ năm trước, theo dữ liệu chính thức. Con số này chỉ đứng sau đầu tư từ Singapore và hơn hẳn các nhà đầu tư lớn hơn theo truyền thống như Hàn Quốc và Nhật Bản.
Koen Soenens, giám đốc kinh doanh tại khu công nghiệp DEEP C ở miền bắc Việt Nam, nói với Reuters rằng số lượng hợp đồng mà công ty của ông ký với các công ty Trung Quốc vào năm 2022 đã tăng mạnh vào cuối năm và trong quý vừa qua cao hơn đáng kể so với số lượng hợp đồng đã ký với các công ty từ bất kỳ quốc gia nào khác.
“Chúng tôi hy vọng xu hướng này sẽ tiếp tục trong năm nay dựa trên các yêu cầu mà chúng tôi nhận được từ Trung Quốc”, Soenens nói.
Trong số các đối tác mới, ông đề cập đến nhà cung cấp ô tô Xiamen Sunrise Group Co Ltd, nhà sản xuất linh kiện bảng điều khiển năng lượng mặt trời Hanghzou First Applied Material Co Ltd và nhà sản xuất thiết bị sạc xe điện Starchange. Không có công ty nào trong số này trả lời yêu cầu bình luận của Reuters.
LỊCH SỬ ĐẪM MÁU
Thực hiện việc di chuyển không phải là không có rủi ro. Với hàng ngàn năm lịch sử đẫm máu giữa hai nước láng giềng này, các tuyên bố chủ quyền cạnh tranh ở Biển Đông đã khơi dậy tâm lý chống Trung Quốc cố hữu vào năm 2014, với việc một số công nhân bạo loạn Việt Nam tấn công các nhà máy Trung Quốc.
Các đơn xin đầu tư từ các công ty Trung Quốc có xu hướng được xem xét kỹ càng hơn, dẫn đến sự chậm trễ hoặc bị từ chối, thay vào đó khuyến khích việc đầu tư thông qua các công ty vỏ bọc có trụ sở tại Hồng Kông hoặc Singapore, các chuyên gia trong ngành và các nhà ngoại giao cho biết.
Filippo Bortoletti, người đứng đầu đơn vị tư vấn đầu tư Dezan Shira của Việt Nam, cho biết các công ty Trung Quốc cũng mất nhiều thời gian hơn để có được visa cho nhân viên và giấy phép lao động.
Cả Bộ Ngoại giao và Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam đều không trả lời yêu cầu bình luận.
Tuy nhiên, những rủi ro như vậy không ngăn được các công ty nhỏ.
Chan của BW Industrial Development cho biết: “Các công ty Trung Quốc chuyển đến đây chủ yếu để phục vụ những khách hàng của họ đã chuyển đến sớm hơn”.