13-3-2023
Giới thiệu: Ngày nay đa số mọi người chỉ biết đến chủ nghĩa phát xít một cách mơ hồ, liên quan đến bóng ma của chế độ Hitler, của nước Đức thời đảng Quốc xã. Nhiều người cũng đánh đồng chủ nghĩa phát xít vốn xuất thân ở Ý với chủ nghĩa quốc xã (nazism) của Hitler, trong khi nazism thực chất là một hình thức của chủ nghĩa phát xít. Nhà văn Ý Umberto Eco có bài phân tích chi tiết về việc tại sao người ta lại hay dùng chữ phát xít để nói về tất cả các chế độ và tư tưởng liên quan, và chỉ ra 14 dấu hiệu của chủ nghĩa phát xít.
Muốn ngăn chặn sự trở lại của chủ nghĩa phát xít (có thể là dưới một tên gọi mới, thậm chí dưới danh nghĩa chống phát xít), chúng ta cần hiểu rõ nó, để có thể nhìn ra và có những hành động sớm để chặn đứng từ trong trứng nước, bất kể chiêu bài của chúng là gì. Do đó, chúng ta nên đọc bài viết này của cha đẻ của chủ nghĩa phát xít, Benito Mussolini.
Bài viết này (La Dottrina Del Fascismo) gồm 2 chương, xuất hiện lần đầu năm 1932, trong Bách khoa Toàn thư Ý, và được ký tên Mussolini, nhưng người ta cho rằng tác giả của chương đầu tiên là triết gia và chính trị gia Ý Giovanni Gentile.
Bản dịch này dịch từ bản tiếng Nga của V.N. Novikov năm 1938 (dịch từ tiếng Ý, nhà xuất bản “La Renaissance”, 73, đại lộ Champs-Elysees, Paris-8-eme, 1938), có tham khảo bản dịch tiếng Anh. Trong bản dịch của Novikov có phần Chú thích cho Chương 1 mà chúng tôi không dịch ở đây.
Nếu phát hiện sai sót, xin ghi vào comment.
Lời tựa bản tiếng Nga
Hiện tượng vĩ đại nhất trong đời sống của các dân tộc thời hậu chiến (Thế chiến 1- ND) là chủ nghĩa phát xít mà hiện đang trên con đường chiến thắng của mình trên khắp thế giới, chinh phục tâm trí của các lực lượng tích cực của nhân loại và thúc đẩy việc xét lại và thay đổi toàn bộ trật tự xã hội.
Chủ nghĩa phát xít bắt nguồn từ Ý, và người sáng tạo ra nó là nhà lãnh đạo thiên tài của đảng phát xít và người đứng đầu chính phủ Ý, Benito Mussolini.
Trong cuộc đấu tranh của nhân dân Ý chống lại cơn ác mộng của chủ nghĩa cộng sản đỏ đang ập đến đất nước, chủ nghĩa phát xít đã tạo nên nền tảng tư tưởng cho thanh niên Ý, là người tiên phong đấu tranh cho công cuộc tái sinh dân tộc.
Hệ tư tưởng cộng sản bị kháng cự bởi hệ tư tưởng mới về nhà nước dân tộc, đoàn kết dân tộc, cảm xúc dân tộc.
Nhờ đó, chủ nghĩa phát xít đã tạo ra một tổ chức hùng mạnh gồm một thiểu số tích cực mà, nhân danh lý tưởng dân tộc, tham gia vào một cuộc chiến có tính quyết định với toàn bộ thế giới cũ của chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tự do, tư tưởng dân chủ, và bằng chiến công của hy sinh quên mình, đã thực hiện một cuộc cách mạng tinh thần và nhà nước, cuộc cách mạng đã biến đổi nước Ý hiện đại và đặt nền móng cho sự khởi đầu của nhà nước phát xít Ý.
Sau khi hành quân vào Rome vào tháng 10 năm 1922, chủ nghĩa phát xít đã nắm quyền lực nhà nước và bắt đầu giáo dục lại người dân và tổ chức nhà nước, theo các luật cơ bản mà cuối cùng đã ấn định hình thức của nhà nước phát xít.
Trong quá trình đấu tranh này, học thuyết về chủ nghĩa phát xít cũng được phát triển. Trong điều lệ của đảng phát xít, trong các nghị quyết của đại hội đảng và công đoàn, trong các nghị quyết của Đại hội đồng phát xít, trong các bài phát biểu và bài viết của Benito Mussolini, những điều khoản cơ bản của chủ nghĩa phát xít dần dần được hình thành.
Năm 1932, Mussolini cho rằng đã đến lúc đưa ra một công thức hoàn chỉnh cho học thuyết của mình, điều mà ông đã thực hiện trong tác phẩm “Học thuyết về chủ nghĩa phát xít”, nằm trong tập thứ 14 của bộ bách khoa toàn thư Ý. Còn trong một phiên bản riêng của tác phẩm này, ông đã bổ sung thêm các ghi chú.
Việc làm quen với tác phẩm này của B. Mussolini là rất quan trọng đối với độc giả Nga. Chủ nghĩa phát xít là một thế giới quan mới, một triết lý mới, một nền kinh tế tập thể mới, một học thuyết nhà nước mới.
Như vậy, khi trả lời tất cả các câu hỏi của xã hội loài người, chủ nghĩa phát xít đã vượt ra ngoài quốc gia Ý. Trong đó, các nền tảng chung xác định trật tự xã hội mới của thế kỷ 20 đã được phát triển và tìm được lời giải thích tại sao chúng lại có ý nghĩa phổ quát. Nói cách khác, nội dung tư tưởng của chủ nghĩa phát xít đã trở thành tài sản chung.
Mỗi quốc gia đều có chủ nghĩa dân tộc và tạo ra các hình thức tồn tại của riêng mình; việc bắt chước, ngay cả những ví dụ tốt nhất, là không thể chấp nhận. Nhưng những ý tưởng cơ bản của chủ nghĩa phát xít Ý đã thúc đẩy việc xây dựng các quốc gia trên khắp thế giới.
Hiện tại, những ý tưởng về chủ nghĩa phát xít rất phổ biến trong cộng đồng người Nga di cư.
Nghiên cứu kỹ lưỡng về chủ nghĩa phát xít bắt đầu vào khoảng năm 1924, khi một nỗ lực được thực hiện ở Serbia nhằm tổ chức một đảng phát xít Nga. Phong trào này được lãnh đạo bởi giáo sư D. P. Ruzsky và tướng P. V. Chersky.
Năm 1927, tổ chức này, được gọi là “tổ chức quốc gia của những người phát xít Nga”, đã công bố chương trình của mình. Chương trình này dựa trên các nền tảng chung của chủ nghĩa phát xít Ý, nhưng phù hợp với các điều kiện của Nga, vạch ra con đường đấu tranh cách mạng chống lại chủ nghĩa bôn-sê-vích và hướng đi tương lai nhằm phục hồi nước Nga khi được giải phóng khỏi chủ nghĩa cộng sản.
Tuy nhiên, phong trào này đã không nhận được sự phát triển tổ chức.
Nhưng những ý tưởng về chủ nghĩa phát xít đã được chuyển đến Viễn Đông, nơi những người Nga lưu vong đã sử dụng chúng để thành lập Đảng Phát xít Nga (RFP) vào năm 1931, do một người đàn ông trẻ tuổi và tài năng V.K. Rodzaevsky đứng đầu.
Cho đến nay, RFP đã tiến hành nhiều công tác tổ chức và tuyên truyền, xuất bản nhật báo “Con đường của chúng ta” và nguyệt san “Dân tộc”.
Tại Đại hội lần thứ 3 năm 1935, một chương trình mới của đảng đã được thông qua, là nỗ lực điều chỉnh các nguyên tắc của chủ nghĩa phát xít phổ quát vào thực tế Nga trong các vấn đề về tổ chức tương lai của nhà nước Nga.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng hệ tư tưởng của chủ nghĩa phát xít Nga ở Viễn Đông chịu ảnh hưởng nặng nề của Chủ nghĩa quốc xã Đức và gần đây đã nghiêng sang chủ nghĩa dân tộc Nga cũ.
Nhưng ngay cả ở châu Âu, tư tưởng phát xít Nga vẫn tiếp tục phát triển, và đại diện của nó là tạp chí Klich, xuất bản ở Bỉ.
Các biên tập viên của tạp chí “Klich” đã tham gia chương trình của tổ chức quốc gia của những người phát xít Nga và truyền bá hệ tư tưởng phát xít như là đối trọng thực sự duy nhất đối với chủ nghĩa cộng sản, đồng thời công nhận có một giải pháp thực sự cho khủng hoảng của xã hội hiện đại ở trong chế độ nhà nước Ý do thiên tài B. Mussolini tạo ra.
Trong quá trình phát triển chương trình năm 1927, “Klich” đã xuất bản một cuốn sách nhỏ của cây viết Verist (bút danh): “Các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa phát xít Nga”. Trong đó, tác giả, dưới khẩu hiệu của chủ nghĩa phát xít Nga là “Chúa, Dân tộc và Lao động”, đã thiết lập những nền tảng chung của chủ nghĩa phát xít Nga, là học thuyết về phục hưng dân tộc Nga trên cơ sở một nhà nước dân tộc mới, được hình thành và khẳng định trên cơ sở kinh nghiệm của Đế quốc Ý bởi người sáng tạo ra học thuyết phát xít và là lãnh tụ của chủ nghĩa phát xít Ý B. Mussolini.
Với sự quan tâm như vậy của người Nga lưu vong đến học thuyết phát xít, chúng ta cần hoan nghênh nhà xuất bản Phục Hưng vì họ đã mong muốn thu hút sự chú ý của độc giả Nga tới cuốn “Học thuyết về chủ nghĩa phát xít” của B. Mussolini.
Về phần mình, dịch giả thấy có nghĩa vụ bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới B. Mussolini vì đã đồng ý xuất bản bản dịch tiếng Nga cuốn “Học thuyết của chủ nghĩa phát xít”.
Vyacheslav Novikov.
Paris, ngày 10 tháng 6 năm 1938.
CHƯƠNG MỘT – CÁC Ý TƯỞNG CHÍNH
1. Triết học của chủ nghĩa phát xít
Giống như bất kỳ khái niệm chính trị toàn diện nào, chủ nghĩa phát xít vừa là hành động vừa là ý nghĩ: một hành động có một học thuyết bên trong, và một học thuyết phát sinh trên cơ sở một hệ thống lực lượng lịch sử nhất định, được bao gồm trong cái sau và rồi hoạt động như một lực bên trong. [1]
Do đó, khái niệm này có một hình thức tương ứng với hoàn cảnh của địa điểm và thời gian, nhưng đồng thời nó cũng có một nội dung tư tưởng giúp nâng nó lên đến giá trị của chân lý trong lịch sử của tư tưởng cao cả. [2]
Không thể thực hiện ảnh hưởng về mặt tinh thần trên thế giới theo cách thống trị ý chí của người khác, trừ khi người thống trị có quan niệm về cả thực tại tạm thời và cụ thể mà hành động đó sẽ được thực hiện, lẫn thực tại vĩnh viễn và phổ quát mà trong đó cái nhất thời ngự trị và tồn tại.
Để biết mọi người bạn cần biết một người, và để biết một người thì bạn cần biết thực tại và các quy luật của nó. Không tồn tại khái niệm về nhà nước mà trong cốt lõi của nó lại không có khái niệm về cuộc sống. Đó là triết học hoặc trực giác, hệ thống tư tưởng được phát triển thành một cấu trúc logic hoặc được thể hiện trong tầm nhìn hoặc niềm tin, nhưng nó luôn luôn, ít nhất là về tiềm năng, là một học thuyết hữu cơ về thế giới.
2. Quan niệm tinh thần về cuộc sống
Vì vậy, không thể hiểu chủ nghĩa phát xít trong nhiều biểu hiện thực tế của nó, với tư cách là một tổ chức đảng, một hệ thống giáo dục và một khuôn phép, nếu không xem xét nó dưới góc độ hiểu biết chung về cuộc sống, tức là hiểu biết từ góc độ tinh thần. [3]
Thế giới đối với chủ nghĩa phát xít không chỉ là một thế giới vật chất, chỉ biểu hiện ra bên ngoài, trong đó một người, là một cá thể độc lập, tách biệt với tất cả những người khác, tuân theo quy luật tự nhiên, cái quy luật thu hút anh ta theo bản năng đến một cuộc sống ích kỷ và lạc thú nhất thời.
Đối với chủ nghĩa phát xít, con người là một cá thể, thống nhất với dân tộc, Tổ quốc, tuân theo quy luật đạo đức ràng buộc cá nhân bằng truyền thống, sứ mệnh lịch sử, làm tê liệt bản năng sống – cái bản năng bị giới hạn bởi vòng lạc thú phù du, nhằm tạo ra một cuộc sống cao đẹp hơn, thoát khỏi ranh giới của thời gian và không gian, trong ý thức về bổn phận. Trong cuộc sống này, cá nhân, thông qua sự tự phủ định, hy sinh lợi ích riêng tư, thậm chí bằng chiến công của cái chết, thực hiện một cuộc sống tinh thần thuần túy, mà giá trị con người của anh ta nằm trong đó.
3. Quan niệm tích cực về cuộc sống như một cuộc đấu tranh
Như vậy, chủ nghĩa phát xít là một khái niệm tinh thần, xuất hiện từ phản ứng chung của thế kỷ chống lại chủ nghĩa thực chứng duy vật (materialistic positivism) đang suy yếu của thế kỷ 19. Một khái niệm phản thực chứng, nhưng tích cực; không hoài nghi, không bất khả tri, không bi quan, không lạc quan một cách thụ động, tức là khác với những học thuyết (tất cả đều tiêu cực) đặt trung tâm cuộc sống bên ngoài con người, con người có thể và phải tạo ra thế giới của riêng mình bằng ý chí tự do của mình.
Chủ nghĩa phát xít mong muốn một người năng động, cống hiến hết mình cho hành động, dũng cảm nhận thức được những khó khăn trước mắt và sẵn sàng đấu tranh với chúng. Anh ta hiểu cuộc sống là một cuộc đấu tranh, ghi nhớ rằng một người phải giành lấy cuộc sống xứng đáng cho mình, trước hết tạo ra từ chính mình một công cụ (thể chất, đạo đức, trí tuệ) để xây dựng nó. Điều này đúng cho cá nhân riêng lẻ, cũng như cho quốc gia và nhân loại nói chung. [4]
Từ đó mà có sự đánh giá cao văn hóa dưới mọi hình thức (nghệ thuật, tôn giáo, khoa học) [5] và giá trị to lớn của giáo dục. Từ đó cũng nảy sinh giá trị cơ bản của lao động, nhờ đó con người chinh phục thiên nhiên và tạo ra thế giới của riêng mình (kinh tế, chính trị, đạo đức, trí tuệ).
4. Quan niệm luân lý về cuộc sống
Cách hiểu tích cực về cuộc sống như vậy rõ ràng là một sự hiểu biết về đạo đức. Nó bao gồm tất cả thực tại chứ không chỉ con người cai trị thực tại đó. Không có hành động nào không bị đánh giá về mặt luân lý; không có gì trên thế giới có thể bị tước đoạt giá trị luân lý của nó.
Do đó, người phát xít hình dung cuộc sống là nghiêm túc, khắc nghiệt, có tính tôn giáo, hoàn toàn nằm trong thế giới của các lực lượng luân lý và tinh thần. Người phát xít khinh bỉ “cuộc sống thoải mái.” [6]
5. Quan niệm tôn giáo về cuộc sống
Chủ nghĩa phát xít là một khái niệm tôn giáo [7]; trong đó, một người được nhìn nhận trong mối quan hệ nội tại của anh ta với quy luật cao nhất, với Ý chí khách quan giúp nâng tầm mỗi cá nhân, khiến anh ta trở thành một người tham gia có ý thức trong giao tiếp tinh thần. Trong chính sách tôn giáo của chế độ phát xít, bất cứ ai chỉ dừng lại ở những tính toán cơ hội thuần túy thì sẽ không hiểu rằng chủ nghĩa phát xít, với tư cách là một hệ thống chính quyền, cũng, và trên hết, là một hệ thống tư tưởng.
6. Quan niệm đạo đức và hiện thực về cuộc sống
Chủ nghĩa phát xít là một khái niệm lịch sử, trong đó con người được nhìn nhận tuyệt đối như một người tham gia tích cực vào quá trình tinh thần trong nhóm gia đình và nhóm xã hội, trong quốc gia và trong lịch sử – nơi tất cả các quốc gia hợp tác. Do đó, có tầm quan trọng to lớn của truyền thống trong ký ức, ngôn ngữ, phong tục, các quy tắc của đời sống xã hội [8].
Bên ngoài lịch sử, con người không là ai. Vì vậy, chủ nghĩa phát xít chống lại mọi sự trừu tượng của chủ nghĩa cá nhân trên cơ sở duy vật của thế kỷ 19; nó chống lại tất cả những điều không tưởng và những đổi mới của Jacobin. Nó không tin vào khả năng “hạnh phúc” trên trái đất, như trong những khát vọng của sách vở kinh tế thế kỷ 18, và do đó nó bác bỏ tất cả các học thuyết mục đích luận, mà theo đó, vào một giai đoạn lịch sử nhất định, loài người sẽ đạt đến tổ chức xã hội cuối cùng. Điều đó chẳng khác nào là đưa mình ra ngoài lịch sử và cuộc sống, vốn là một dòng chảy và phát triển không ngừng.
Về mặt chính trị, chủ nghĩa phát xít hướng đến trở thành một học thuyết hiện thực; trong thực tế, nó chỉ muốn giải quyết các nhiệm vụ mà bản thân lịch sử đặt ra, vạch ra hoặc dự đoán giải pháp cho chúng. [9] Để hành động giữa con người cũng như trong tự nhiên, cần phải đi sâu vào quá trình thực tế và nắm vững các lực lượng hành động [10].
7. Chủ nghĩa chống cá nhân (antiindividualism), và tự do
Khái niệm phát xít về nhà nước là chống chủ nghĩa cá nhân; chủ nghĩa phát xít chỉ thừa nhận cá nhân khi nó đồng nhất với nhà nước, cái nhà nước đại diện cho ý thức và ý chí phổ quát của con người trong sự tồn tại có tính lịch sử của mình [11] .
Chủ nghĩa phát xít đối lập với chủ nghĩa tự do cổ điển, vốn xuất phát từ nhu cầu phản ứng chống lại chủ nghĩa chuyên chế (absolutism) và đã hết nhiệm vụ khi nhà nước trở thành ý thức và ý chí của nhân dân. Chủ nghĩa tự do vì lợi ích của cá nhân mà phủ định nhà nước; còn chủ nghĩa phát xít khẳng định nhà nước là thực tại đích thực của cá nhân [12].
Nếu tự do là một tính chất không thể tách rời của một con người có thực, chứ không phải một con rối trừu tượng, như chủ nghĩa tự do cá nhân hình dung về anh ta, thì chủ nghĩa phát xít là vì tự do. Nó ủng hộ thứ tự do duy nhất có thể hiện hữu như một sự thật nghiêm túc, cụ thể là tự do của nhà nước và tự do của cá nhân trong nhà nước [13]. Và điều này là bởi vì đối với một người phát xít thì mọi thứ đều ở trong nhà nước, và không có gì thuộc về con người hay tinh thần có thể tồn tại, chứ chưa nói đến việc có giá trị, bên ngoài nhà nước. Theo nghĩa này, chủ nghĩa phát xít là toàn trị và nhà nước phát xít, với tư cách là sự tổng hợp và thống nhất của tất cả các giá trị, diễn giải và phát triển toàn bộ cuộc sống của người dân, đồng thời tăng cường nhịp điệu của nó [14].
8. Chống chủ nghĩa xã hội (antisocialism), và chủ nghĩa nghiệp đoàn
Bên ngoài nhà nước không có cá nhân, và cũng không có nhóm (đảng chính trị, xã hội, công đoàn, giai cấp) [15]. Do đó, chủ nghĩa phát xít chống lại chủ nghĩa xã hội, vốn quy sự phát triển lịch sử thành đấu tranh giai cấp và không thừa nhận sự thống nhất của nhà nước, vốn hợp nhất các giai cấp thành một thực tại kinh tế và đạo đức duy nhất; tương tự như vậy, chủ nghĩa phát xít chống lại chủ nghĩa công đoàn giai cấp.
Nhưng trong khuôn khổ của nhà nước cầm quyền, chủ nghĩa phát xít thừa những yêu cầu thực sự mà từ đó các phong trào xã hội chủ nghĩa và công đoàn bắt nguồn, và hiện thực hóa chúng trong một hệ thống các lợi ích tập thể được đồng ý trong sự thống nhất của nhà nước [16].
9. Dân chủ và Dân tộc
Các cá nhân tạo nên: các giai cấp tương ứng các phạm trù lợi ích, các công đoàn theo các lĩnh vực hoạt động kinh tế khác nhau được thống nhất bởi một lợi ích chung; nhưng trước hết và quan trọng nhất, các cá nhân cấu thành nhà nước. Nhà nước không phải là một con số dưới dạng tổng của các cá nhân tạo thành đa số nhân dân. Vì vậy, chủ nghĩa phát xít là chống tư tưởng dân chủ, vì dân chủ coi nhân dân chỉ là đa số, và giảm nhân dân xuống thành đa số [17].
Nhưng bản thân chủ nghĩa phát xít là một hình thức dân chủ thực sự, nếu người dân được hiểu theo đúng nghĩa của nó, tức là định tính chứ không phải định lượng, nghĩa là, như một tư tưởng mạnh mẽ, đạo đức, đúng đắn và nhất quán nhất. Tư tưởng này được hiện thực hóa trong nhân dân thông qua ý thức và ý chí của một số ít, thậm chí chỉ một người, và với tư cách là một lý tưởng, nó cố gắng được hiện thực hóa trong ý thức và ý chí của tất cả mọi người [18].
Đó là những người, phù hợp với bản chất dân tộc và lịch sử của họ, tạo thành một quốc gia, được hướng dẫn bởi một ý thức và ý chí duy nhất trên cùng một dòng phát triển và tổ hợp tinh thần.
Dân tộc không phải là một chủng tộc hay một khu vực địa lý nhất định, mà là một nhóm trường tồn trong lịch sử, tức là một tập hợp được thống nhất bởi một tư tưởng là ý chí tồn tại và thống trị, tức là tự nhận thức, và do đó, cũng là nhân cách [19].
10. Khái niệm nhà nước
Cái nhân cách tối cao này chính là dân tộc, bởi vì nó là nhà nước. Không phải dân tộc tạo ra nhà nước, như cách hiểu của chủ nghĩa tự nhiên cũ, đã hình thành nên cơ sở của các nhà nước dân tộc thế kỷ 19. Ngược lại, nhà nước tạo ra dân tộc bằng cách trao ý chí và do đó, tạo ra sự tồn tại hiệu quả cho nhân dân, những người nhận thức được sự thống nhất về đạo đức của chính mình.
Quyền độc lập của một dân tộc không bắt nguồn từ ý thức văn học và tư tưởng về sự tồn tại của chính nó, càng không phải từ một trạng thái thực tế ít nhiều vô thức và không hoạt động, mà từ một ý thức tích cực, từ một ý chí chính trị tích cực có khả năng chứng minh quyền của mình, tức là từ một loại nhà nước đang hình thành (in fieri). Nhà nước, chính xác với tư cách là ý chí đạo đức phổ quát, là người tạo ra luật [20].
11. Nhà nước đạo đức
Dân tộc, dưới hình thức nhà nước, là một thực tại đạo đức, tồn tại và đầy sức sống, bởi lẽ nó phát triển. Ngừng phát triển nghĩa là chết. Vì vậy, nhà nước không chỉ là lực lượng thống trị, trao hình thái luật cho các ý chí cá nhân và tạo ra giá trị của đời sống tinh thần, mà còn là lực lượng thực hiện ý chí của mình ở cả bên ngoài, buộc họ phải thừa nhận và tôn trọng nó, tức là thực sự chứng minh tính phổ quát của nó trong tất cả những biểu hiện cần thiết của sự phát triển của nó [21]. Từ đó mà có sự tổ chức và bành trướng, ít nhất là trong khả năng có thể. Như vậy, ý chí của nhà nước về bản chất được coi là đồng nhất với ý chí con người, ý chí này không có giới hạn trong sự phát triển của nó và chứng tỏ tính vô tận của bản thân thông qua việc thực hiện [22].
12. Nội dung của nhà nước
Nhà nước phát xít, hình thức cao nhất và mạnh mẽ nhất của nhân cách, là một lực lượng, nhưng là lực lượng tinh thần. Nó tổng hợp tất cả các hình thức của đời sống đạo đức và đời sống trí tuệ của con người. Do đó, nhà nước không thể chỉ giới hạn trong các nhiệm vụ trật tự và bảo vệ, như chủ nghĩa tự do mong muốn. Nó không phải là một cơ chế đơn giản chỉ để phân định phạm vi của các quyền tự do cá nhân được đề xuất.
Nhà nước là một hình thái và chuẩn mực bên trong, bó buộc bằng kỷ luật toàn bộ con người, và bao trùm cả ý chí lẫn trí tuệ của anh ta. Nguyên lý chủ đạo của nó là cảm hứng chính của nhân cách con người sống trong xã hội dân sự, thấm vào trong sâu thẳm, bén rễ trong trái tim của con người hành động, dù đó là nhà tư tưởng, nghệ sĩ hay nhà khoa học: đây là tâm hồn của tâm hồn.
13. Quyền hạn
Do đó, chủ nghĩa phát xít không chỉ là nhà lập pháp và người tạo ra các thể chế, mà còn là nhà giáo dục và động cơ của đời sống tinh thần. Nó tìm cách thay đổi không phải hình thức của cuộc sống con người, mà là nội dung của nó, bản thân con người, tính cách, và đức tin.
Vì mục đích này, nó hướng đến kỷ luật và quyền hạn, thâm nhập vào tinh thần của con người và cai trị anh ta một cách miễn bàn cãi. Do đó, biểu tượng của nó là bó gậy của đao phủ thủ (fasces, Lictor’s rods) – biểu tượng của sự thống nhất, sức mạnh và công lý.
CHƯƠNG HAI – HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ VÀ XÃ HỘI
1. Nguồn gốc của học thuyết
Khi, vào tháng 3 năm 1919 đã xa, thông qua tờ báo “Il Popolo d’Italian”, tôi tập hợp ở Milan những người còn lại sau cuộc chiến – những người đã đi theo tôi kể từ khi thành lập các biệt đội (fascio) của hành động cách mạng từ tháng Giêng năm 1915 – trong đầu tôi không hề có kế hoạch cụ thể nào cho một học thuyết.
Tôi đã giữ lại kinh nghiệm sống từ một học thuyết, cụ thể là chủ nghĩa xã hội, trong khoảng thời gian từ năm 1903/4 đến mùa đông năm 1914 – khoảng mười năm. Trong kinh nghiệm này, tôi đã trải qua cả vị trí phục tùng lẫn lãnh đạo, nhưng đó không phải là một kinh nghiệm về học thuyết. Và trong thời kỳ đó, học thuyết của tôi là học thuyết về hành động. Kể từ năm 1905, đã không còn một học thuyết xã hội chủ nghĩa duy nhất được thừa nhận rộng rãi. Sau đó, một phong trào theo chủ nghĩa xét lại bắt đầu ở Đức, do Bernstein đứng đầu, và trong sự tương phản về thay đổi xu hướng, một phong trào cách mạng cánh tả đã được hình thành, phong trào này ở Ý chỉ dừng ở các lời nói, trong khi ở chủ nghĩa xã hội Nga, nó đã trở thành khúc dạo đầu của chủ nghĩa bôn-sê-vích.
Chủ nghĩa cải cách, chủ nghĩa cách mạng, chủ nghĩa trung tâm – không còn sót lại tiếng vọng nào của tất cả các thuật ngữ này, trong khi trong con nước mạnh mẽ của chủ nghĩa phát xít, bạn sẽ tìm thấy các dòng chảy bắt nguồn từ Sorel, Peguy, Lagardel của Phong trào xã hội chủ nghĩa (Mouvement Socialiste). Từ các dòng chảy đó xuất hiện các nhóm theo chủ nghĩa nghiệp đoàn Ý, mà trong các năm 1904 đến 1914 cùng với các tờ báo Pagani Libere của Olivetti, La Lupa của Orano, và Divenire Sociale của Heinrich Leone đã mang đến một nốt nhạc mới cho cuộc sống hàng ngày của chủ nghĩa xã hội Ý, vốn đã bị lỏng lẻo và bị mê hoặc bởi sự lầm lạc của Giolitti.
Khi chiến tranh kết thúc năm 1919, chủ nghĩa xã hội với tư cách là một học thuyết đã chết; nó chỉ tồn tại dưới hình thức thù hận và có một cơ hội nữa, đặc biệt là ở Ý, để trả thù những người đã muốn chiến tranh và những người phải “chuộc lỗi” nó.
“Il Popolo d’ltalia” được xuất bản với phụ đề: “Nhật báo của những người tham gia chiến tranh và các nhà sản xuất”. Từ “nhà sản xuất” đã là một chỉ dấu về định hướng tinh thần. Chủ nghĩa phát xít không nắm quyền từ trước bằng việc soạn học thuyết trên bàn; nó được sinh ra từ nhu cầu hành động và là hành động; nó đã không là một đảng, mà trong hai năm đầu là một hình thức phản đảng – một phong trào. Cái tên mà tôi đặt cho tổ chức đã quyết định đặc điểm của nó.
Trong mọi trường hợp, bất cứ ai đọc trên những trang sách báo vốn đã nhàu của thời đại đó báo cáo về việc tập hợp các đội chiến đấu của Ý (fascio), thì anh ta sẽ không tìm thấy một học thuyết nào, mà chỉ tìm thấy một số điều khoản, dự đoán, gợi ý, mà sau đó, sau một vài năm, khi được giải phóng khỏi sự phát triển không thể tránh khỏi của tính nhất thời, lẽ ra đã phát triển thành một loạt cơ sở học thuyết, biến chủ nghĩa phát xít thành một học thuyết chính trị độc lập trong mối quan hệ với tất cả những học thuyết khác, cả quá khứ và hiện tại.
“Nếu giai cấp tư sản,” – khi đó tôi nói – “hy vọng chúng ta sẽ là cột thu lôi, thì họ đã nhầm. Chúng ta phải ủng hộ lao động… Chúng ta muốn dạy giai cấp công nhân nghệ thuật quản lý, thậm chí chỉ để thuyết phục họ rằng hoàn toàn không dễ dàng để dẫn dắt ngành công nghiệp hoặc thương mại phát triển… Chúng ta sẽ đấu tranh chống lại sự lạc hậu về kỹ thuật và tinh thần… Chúng ta không được hèn nhát trước cơ nghiệp sẽ mở ra sau cái chế độ hiện tại này. Chúng ta phải nhanh lên! Nếu chế độ bị khuất phục, chúng ta phải thay thế nó. Quyền thừa kế thuộc về chúng ta, vì chúng ta đã đẩy đất nước vào chiến tranh và đã dẫn dắt nó đến chiến thắng. Mức độ đại diện chính trị hiện tại không làm chúng ta hài lòng, chúng ta muốn đại diện trực tiếp cho các lợi ích riêng lẻ. Chống lại chương trình này có nghĩa là sự trở lại của các tập đoàn… Không quan trọng!… Tôi muốn cuộc họp chấp nhận các yêu cầu của chủ nghĩa nghiệp đoàn quốc gia từ quan điểm kinh tế.”
Chẳng ngạc nhiên sao, khi từ ngày đầu tiên của cuộc họp tại quảng trường San Sepolcro đã vang lên từ “tập đoàn”, mà trong quá trình diễn ra cuộc cách mạng sẽ được dùng để chỉ một trong những sáng tạo về lập pháp và xã hội, làm nền tảng cho chế độ?
2. Sự phát triển của học thuyết
Những năm trước cuộc hành quân vào Rome (Marcia su Roma) là những năm mà sự cấp thiết phải hành động không cho phép dành thời gian cho nghiên cứu và phát triển học thuyết chi tiết. Chiến trận liên miên ở các thành phố và làng mạc. Người ta đã tranh luận, nhưng điều thiêng liêng và ý nghĩa hơn là họ đã chết. Họ đã biết chết như thế nào. Một học thuyết được xây dựng với sự chia nhỏ thành các chương và đoạn văn với lý luận cẩn thận đã có thể bị thiếu; thay thế nó là một cái gì đó rõ ràng hơn: niềm tin…
Tuy nhiên, nếu có ai đó dựng lại quá khứ từ hàng đống sách vở, bài báo, nghị quyết của các đại hội, các bài phát biểu lớn nhỏ, nếu ai biết nghiên cứu và chọn lọc, sẽ thấy rằng trong sức nóng của cuộc đấu tranh, những nền tảng của học thuyết đã được phác thảo. Chính trong những năm này, tư tưởng phát xít được vũ trang, mài giũa và hình thành.
Đã giải quyết được các vấn đề của cá nhân và nhà nước; vấn đề quyền hạn và tự do; các vấn đề chính trị, xã hội và đặc biệt là dân tộc; cuộc đấu tranh chống lại các học thuyết tự do, dân chủ, xã hội chủ nghĩa, tam điểm, công giáo nhân dân (popolari) được tiến hành đồng thời với “các cuộc viễn chinh trừng phạt”.
Nhưng vì không có “hệ thống”, nên các đối thủ đã phủ nhận một cách ác ý bất kỳ khả năng học thuyết nào của chủ nghĩa phát xít, mà trong khi đó, học thuyết này đã được tạo ra, có lẽ, một cách dữ dội, đầu tiên dưới hình thức phủ nhận một cách gay gắt và giáo điều, như chuyện thường xảy ra với tất cả các tư tưởng mới nổi, và sau đó trong hình thức một khái niệm tích cực, mà lần lượt vào các năm 1926, 1927 và 1928 được thể hiện trong các luật và cơ quan của chế độ.
Ngày nay, chủ nghĩa phát xít được xác lập rõ ràng không chỉ với tư cách là một chế độ mà còn với tư cách là một học thuyết. Tình trạng này phải được giải thích theo nghĩa là chủ nghĩa phát xít hiện nay, trong khi chỉ trích chính mình và những người khác, thì có quan điểm độc lập của riêng mình, và do đó có một hướng đi, trong tất cả các vấn đề gây đau khổ cho các dân tộc trên thế giới về vật chất hoặc tinh thần.
3. Chống lại chủ nghĩa hòa bình: chiến tranh và cuộc sống như một nghĩa vụ
Trước hết, chủ nghĩa phát xít không tin vào khả năng cũng như lợi ích của một nền hòa bình lâu dài, vì nói chung, vấn đề liên quan đến sự phát triển trong tương lai của nhân loại, và những cân nhắc về chính trị hiện tại bị gạt sang một bên. Do đó, nó bác bỏ chủ nghĩa hòa bình, là chủ nghĩa che giấu việc chối bỏ chiến đấu và nỗi sợ hãi của nạn nhân.
Chỉ có chiến tranh mới kéo căng tất cả các lực lượng của con người ở mức độ cao nhất và đóng dấu ấn của sự cao quý lên những dân tộc có can đảm thực hiện điều đó. Tất cả các thách thức khác chỉ là thứ yếu, vì chúng không đặt một người trước sự lựa chọn của sự sống hay cái chết. Vì vậy, một học thuyết dựa trên tiền đề hòa bình là xa lạ với chủ nghĩa phát xít.
Tất cả các tổ chức quốc tế có tính chất xã hội cũng đều xa lạ với tinh thần của chủ nghĩa phát xít, mặc dù chúng có thể được chấp nhận vì lợi ích trong những điều kiện chính trị nhất định. Như lịch sử cho thấy, những tổ chức như vậy có thể tan thành mây khói, khi những cảm xúc về tư tưởng và thực tiễn khuấy động lên trái tim của các dân tộc.
Chủ nghĩa phát xít mang tinh thần chống chủ nghĩa hòa bình này đi vào cuộc sống của cả các cá nhân. Lời tự hào của người chiến sĩ “Không thể đe dọa tôi” (me ne frego), được ghi trên băng vết thương, không chỉ là một hành động của triết học khắc kỷ, không chỉ là một kết luận từ học thuyết chính trị; đó là giáo dục hướng đến chiến đấu, chấp nhận rủi ro đi kèm với nó; đây là phong cách mới của cuộc sống Ý.
Như vậy, người phát xít tiếp nhận và yêu cuộc sống; anh ta phủ nhận việc tự sát và coi đó là hèn nhát; anh ta hiểu cuộc sống như là nghĩa vụ của việc tiến đến hoàn hảo, của sự chinh phục. Cuộc sống cần phải thăng hoa và viên mãn, được trải nghiệm cho chính mình, nhưng trên hết là cho những người khác, thân và xa lạ, hiện tại và tương lai.
4. Chính sách nhân khẩu học và “người anh em” của chúng ta
Chính sách nhân khẩu học của chế độ là một kết luận từ những tiền đề này.
Người phát xít yêu người anh em của mình, nhưng “người anh em” này không phải là một hình ảnh mơ hồ và khó nắm bắt đối với anh ta; tình yêu dành cho người anh em không loại bỏ tính nghiêm khắc giáo dục cần thiết, và hơn nữa là tính hiểu được và kiềm chế trong các mối quan hệ.
Người phát xít từ chối sự ôm ấp thân mật trên thế giới và, khi sống trong tương giao với các dân tộc văn minh, anh ta không cho phép mình bị lừa bởi vẻ ngoài dễ thay đổi và lừa dối; cảnh giác và không dễ tin, anh ta nhìn thẳng vào mắt họ và theo dõi trạng thái tinh thần của họ cũng như sự thay đổi sở thích của họ.
5. Chống chủ nghĩa duy vật lịch sử và chống đấu tranh giai cấp
Cách hiểu như vậy về cuộc sống đã khiến chủ nghĩa phát xít kiên quyết bác bỏ học thuyết tạo nên nền tảng của cái gọi là chủ nghĩa xã hội khoa học của Marx; học thuyết của chủ nghĩa duy vật lịch sử, theo đó lịch sử của nền văn minh nhân loại chỉ được giải thích bằng cuộc đấu tranh vì lợi ích của các nhóm xã hội khác nhau và những thay đổi trong phương tiện và công cụ sản xuất.
Không ai phủ nhận rằng các yếu tố kinh tế – khám phá ra tài nguyên thô, phương pháp làm việc mới, các phát minh khoa học – đều có giá trị của chúng, nhưng thật vô lý khi cho rằng chúng là đủ để giải thích lịch sử loài người mà không xem xét các yếu tố khác.
Bây giờ và mãi mãi, chủ nghĩa phát xít tin vào sự thánh thiện và chủ nghĩa anh hùng, nghĩa là vào hành động mà trong đó không có bất kỳ động cơ kinh tế nào – dù là xa hay gần.
Sau khi bác bỏ chủ nghĩa duy vật lịch sử, theo đó con người chỉ xuất hiện với tư cách là vai phụ của lịch sử, xuất hiện và biến đi trên bề mặt của cuộc sống, trong khi các lực định hướng đang chuyển động và hoạt động ở bên trong, chủ nghĩa phát xít phủ nhận cuộc đấu tranh giai cấp liên tục và tất yếu, vốn là sản phẩm tự nhiên của một cách hiểu biết mang tính kinh tế về lịch sử như vậy, và trên hết nó phủ nhận rằng đấu tranh giai cấp là yếu tố chủ yếu của sự thay đổi xã hội.
Sau khi đập tan hai trụ cột này của học thuyết, chủ nghĩa xã hội chẳng còn lại gì ngoài những giấc mơ nhạy cảm, xưa như loài người, về một sự tồn tại xã hội mà trong đó những đau khổ và buồn phiền của những người bình thường sẽ được xoa dịu. Nhưng cả ở đây, chủ nghĩa phát xít cũng bác bỏ khái niệm “hạnh phúc” kinh tế, đang được thực hiện ở thời điểm hiện tại của quá trình phát triển kinh tế về mặt xã hội, như thể sẽ tự động bảo đảm cho tất cả mọi người mức độ sung túc cao nhất. Chủ nghĩa phát xít phủ nhận khả năng có một cách hiểu duy vật về “hạnh phúc”, và để nó lại cho các nhà kinh tế học nửa đầu thế kỷ 18, tức là nó phủ nhận sự bình đẳng: – “an sinh-hạnh phúc”, thứ sẽ biến con người thành những con vật chỉ nghĩ duy nhất về một điều: được hài lòng và thỏa mãn, tức là, cuộc sống đơn giản và thực vật.
6. Chống ý thức hệ dân chủ
Sau chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa phát xít chiến đấu chống lại toàn bộ phức hợp các hệ tư tưởng dân chủ, bác bỏ chúng hoặc là trong tiền đề lý thuyết, hoặc là trong ứng dụng và cấu trúc thực tế của chúng.
Chủ nghĩa phát xít phủ nhận việc số lượng, chỉ đơn giản như bản thân nó, có thể quản lý xã hội loài người; nó phủ nhận việc số này, thông qua các cuộc tham vấn định kỳ, có thể quản lý; nó khẳng định rằng sự bất bình đẳng là không thể tránh khỏi, là nhân từ và có lợi cho những con người vốn không thể được bình đẳng hóa một cách cơ học và bởi yếu tố bên ngoài, như là phổ thông đầu phiếu.
Có thể định nghĩa các chế độ dân chủ bằng thực tế là dưới các chế độ này, đôi khi người dân ảo tưởng về chủ quyền của chính họ, trong khi chủ quyền thực sự và thực chất nằm ở các lực lượng khác, thường là vô trách nhiệm và bí mật. Dân chủ là một chế độ không có vua, nhưng có rất nhiều vua, thường là tuyệt đối, chuyên chế và tàn tạ hơn là một ông vua duy nhất, cho dù là một bạo chúa.
Đó là lý do tại sao chủ nghĩa phát xít, mà cho đến năm 1922, vì những cân nhắc quá độ, đã có quan điểm theo xu hướng cộng hòa, thì trước cuộc Hành quân về Rome đã từ bỏ nó với niềm tin rằng, ngày nay câu hỏi về hình thức chính trị của nhà nước là không cần thiết, và rằng khi nghiên cứu các mô hình quân chủ hay cộng hòa xưa và nay, rõ ràng không nên bàn đến quân chủ và cộng hòa dưới dấu hiệu trường tồn, mà chỉ là những hình thức mà trong đó thể hiện sự tiến hóa chính trị, lịch sử, truyền thống và tâm lý của một quốc gia cụ thể.
Giờ đây, chủ nghĩa phát xít đã vượt qua sự đối lập “quân chủ-cộng hòa” mà trong đó nền dân chủ bị mắc kẹt, lên án quân chủ với mọi thiếu sót và ca ngợi nền dân chủ như một hệ thống hoàn hảo. Bây giờ rõ ràng là có những nền cộng hòa về bản chất là phản động và chuyên chế, và có những nền quân chủ chấp nhận những thử nghiệm chính trị và xã hội táo bạo nhất.
7. Sự dối trá của nền dân chủ
Trong một trong những “suy tư triết học” của mình, Renan (Ernest Renan 1823-1892), người đã le lói những ý tưởng tiền phát xít, nói: “trí tuệ, kiến thức là sản phẩm của loài người, nhưng sẽ là hão huyền nếu mong muốn trí tuệ trực tiếp cho nhân dân và thông qua nhân dân.”
“Để trí tuệ tồn tại, không nhất thiết nó phải là tài sản chung cho tất cả mọi người. Trong mọi trường hợp, nếu cần phải thực hiện việc phổ biến trí tuệ như vậy, thì không nên bắt đầu với dân chủ bậc thấp, vì điều này sẽ dẫn đến sự phá hủy của bất kỳ nền văn hóa cao cấp nào, và bất kỳ lĩnh vực chuyên môn cao nào”.
“Nguyên tắc bảo rằng xã hội tồn tại chỉ vì hạnh phúc và tự do của những cá nhân tạo nên nó tỏ ra không phù hợp với kế hoạch của tự nhiên, nơi chỉ quan tâm đến loài còn các cá thể thì bị làm vật hy sinh. Cần phải lo ngại rằng, lời cuối của cái gọi là (tôi phải nói thêm rằng nó có thể được hiểu theo một cách khác) nền dân chủ sẽ trở thành một cộng đồng xã hội mà trong đó quần chúng thoái hóa sẽ chỉ tham gia vào một thứ là chạy theo những thú vui thấp hèn của một kẻ thô lậu.”
Đó là những gì Renan nói. Chủ nghĩa phát xít bác bỏ trong nền dân chủ sự dối trá phi lý về bình đẳng chính trị, thói quen vô trách nhiệm tập thể và huyền thoại về hạnh phúc và tiến bộ không giới hạn. Nhưng, nếu có thể hiểu dân chủ theo cách khác, tức là nếu dân chủ có nghĩa là: không dồn nhân dân vào sân sau của nhà nước, thì tác giả của những dòng này có thể định nghĩa chủ nghĩa phát xít là “một nền dân chủ có tổ chức, tập trung và độc đoán.”
8. Chống lại các học thuyết tự do
Trong mối quan hệ với các học thuyết tự do, thì chủ nghĩa phát xít luôn đối lập vô điều kiện, cả trong lĩnh vực chính trị và kinh tế. Vì mục đích của cuộc tranh luận hiện tại, không nên phóng đại tầm quan trọng của chủ nghĩa tự do trong thế kỷ trước và biến một trong nhiều học thuyết phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ đó thành tôn giáo của nhân loại cho mọi thời đại, cả hiện tại lẫn tương lai.
Chủ nghĩa tự do chỉ phát triển mạnh trong 15 năm. Nó sinh năm 1830, như một phản ứng chống lại Liên minh Thần thánh, những người muốn đẩy châu Âu trở lại những năm 1789, và nó đã có một năm đặc biệt rực rỡ, cụ thể là năm 1848, khi ngay cả Giáo hoàng Pius IX cũng là một người theo chủ nghĩa tự do.
Ngay sau đó, sự suy thoái bắt đầu. Nếu năm 1848 là năm của ánh sáng và thơ ca, thì năm 1849 là năm của bóng tối và bi kịch. Nền Cộng hòa La Mã đã bị giết bởi một kẻ khác, cụ thể là Cộng hòa Pháp. Cùng năm đó, Marx xuất bản phúc âm của tôn giáo xã hội chủ nghĩa dưới hình thức bản tuyên ngôn cộng sản nổi tiếng. Năm 1851, Napoléon III tổ chức một cuộc đảo chính phi tự do và trị vì nước Pháp cho đến năm 1870, khi ông bị lật đổ bởi một cuộc nổi dậy của quần chúng, nhưng là hệ quả của một thất bại quân sự, được coi là một trong những thất bại lớn nhất trong lịch sử. Người chiến thắng là Bismarck, là người không bao giờ biết tôn giáo tự do ngự trị ở đâu và có những nhà tiên tri nào phục vụ nó.
Có một triệu chứng là người dân Đức, một dân tộc có nền văn hóa cao nhất, trong thế kỷ 19 hoàn toàn không biết đến tôn giáo tự do. Nó chỉ xuất hiện trong thời kỳ chuyển tiếp, dưới hình thức của cái gọi là “quốc hội lố bịch” ở Frankfurt, kéo dài một mùa.
Nước Đức đạt được sự thống nhất dân tộc ở bên ngoài chủ nghĩa tự do, chống lại chủ nghĩa tự do – một học thuyết xa lạ với tâm hồn Đức, một tâm hồn tuyệt đối quân chủ, trong khi chủ nghĩa tự do về mặt logic và lịch sử là ngưỡng cửa của vô chính phủ. Các giai đoạn thống nhất nước Đức, là ba cuộc chiến tranh năm 1864, 1866 và 1870, do những người theo chủ nghĩa tự do như Moltke và Bismarck lãnh đạo.
Đối với sự thống nhất của Ý, chủ nghĩa tự do đã đóng góp một phần nhỏ hơn rất nhiều so với Mazzini và Garibaldi, là những người không theo chủ nghĩa tự do. Nếu không có sự can thiệp của một Napoléon phi tự do, chúng ta đã không có Lombardy; và nếu không có sự giúp đỡ của Bismarck phi tự do ở Sadovaya và Sedan, rất có thể chúng ta đã không có Venice năm 1866 và sẽ không tiến vào Rome năm 1870.
Từ năm 1870 đến năm 1915 là thời kỳ mà chính các giáo sỹ của giáo phái mới này nhận ra sự bắt đầu của thời kỳ hoàng hôn của tôn giáo của họ – bị đánh bại trong văn học bởi sự suy đồi, trong thực tế bởi chủ nghĩa tích cực; tức là chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa vị lai, chủ nghĩa phát xít.
Tích lũy được vô số nút thắt Gordian, thời đại tự do cố gắng tháo gỡ chúng thông qua sự tàn sát khủng khiếp của chiến tranh thế giới. Chưa bao giờ có bất kỳ tôn giáo nào áp đặt một sự hy sinh to lớn như vậy. Có phải các vị thần của chủ nghĩa tự do khát máu? Bây giờ chủ nghĩa tự do đang phải đóng cửa những ngôi đền trống của nó, bởi vì các dân tộc cảm thấy rằng chủ nghĩa bất khả tri của nó trong kinh tế, sự thờ ơ của nó trong chính trị và đạo đức đang dẫn nhà nước đến cái chết chắc chắn, giống như trước đây.
Điều này giải thích tại sao tất cả các kinh nghiệm chính trị của thế giới hiện đại đều là phản tự do, và do đó, việc loại trừ chúng ra khỏi tiến trình lịch sử là vô cùng nực cười. Như thể lịch sử là nơi săn bắn dành riêng cho chủ nghĩa tự do và các giáo sư của nó, còn chủ nghĩa tự do là lời cuối cùng không thể chối cãi của nền văn minh.
9. Chủ nghĩa phát xít không lùi bước
Tuy nhiên, việc chủ nghĩa phát xít bác bỏ chủ nghĩa xã hội, nền dân chủ, chủ nghĩa tự do không cho phép nghĩ rằng chủ nghĩa phát xít muốn đẩy thế giới trở lại thời điểm trước năm 1789, được coi là điểm bắt đầu của thời đại dân chủ tự do.
Không trở lại quá khứ! Học thuyết phát xít đã không chọn De Maistre làm nhà tiên tri của nó. Chủ nghĩa quân chủ chuyên chế đã hết thời, và có lẽ là mọi chế độ thần quyền. Cũng đã qua rồi các đặc quyền phong kiến và sự phân chia thành các đẳng cấp “đóng” không giao tiếp với nhau. Khái niệm quyền lực của chủ nghĩa phát xít không liên quan gì đến một nhà nước cảnh sát. Một đảng, cai trị độc tài một dân tộc, là một thực tế mới trong lịch sử. Mọi tương quan và so sánh là không thể.
Từ đống đổ nát của các học thuyết tự do, xã hội chủ nghĩa và dân chủ, chủ nghĩa phát xít rút ra những yếu tố vẫn còn giá trị và sống còn. Nó giữ lại cái gọi là những cuộc chinh phục của lịch sử và bác bỏ mọi thứ khác, tức là một khái niệm học thuyết phù hợp với mọi thời đại và mọi dân tộc. Cứ giả sử thế kỷ 19 là thế kỷ của chủ nghĩa xã hội, dân chủ và chủ nghĩa tự do; tuy nhiên, điều này không có nghĩa là thế kỷ 20 cũng sẽ trở thành thế kỷ của chủ nghĩa xã hội, dân chủ và chủ nghĩa tự do. Các học thuyết chính trị qua đi, các dân tộc vẫn còn. Có thể cho rằng thế kỷ này sẽ là thế kỷ của quyền hạn, thế kỷ của cánh “hữu”, thế kỷ của chủ nghĩa phát xít. Nếu thế kỷ 19 là thế kỷ của cá nhân (chủ nghĩa tự do cũng giống như chủ nghĩa cá nhân), thì có thể cho rằng thế kỷ này sẽ là thế kỷ của “tập thể”, do đó là thế kỷ của nhà nước.
Hoàn toàn hợp lý khi một học thuyết mới có thể sử dụng các thành phần vẫn còn quan trọng của các học thuyết khác. Không có học thuyết nào được sinh ra hoàn toàn mới, chưa từng thấy hoặc chưa từng nghe. Không có học thuyết nào có thể khoe khoang về tính độc đáo tuyệt đối. Mỗi học thuyết, ít nhất là về mặt lịch sử, được kết nối với các học thuyết khác trong quá khứ và tương lai. Ví dụ, chủ nghĩa xã hội khoa học của Marx gắn với chủ nghĩa xã hội không tưởng của Fourier, Owen, Saint-Simon. Hay chủ nghĩa tự do của thế kỷ 19 có liên quan đến chủ nghĩa ánh sáng của thế kỷ 18. Đây là cách các học thuyết dân chủ được kết nối với Bách khoa toàn thư.
Mọi học thuyết đều tìm cách hướng hoạt động của con người tới một mục tiêu nhất định, nhưng đến lượt mình, hoạt động của con người lại tác động đến học thuyết, thay đổi nó, điều chỉnh nó cho phù hợp với nhu cầu mới hoặc vượt qua nó. Do đó, bản thân học thuyết không phải là một hoạt động bằng lời nói, mà là một hành động của cuộc sống. Đây là màu sắc thực dụng của chủ nghĩa phát xít, ý chí của nó đến quyền lực, sự phấn đấu để tồn tại, mối quan hệ của nó với sự việc “bạo lực” và ý nghĩa của bạo lực.
10. Giá trị và sứ mệnh của nhà nước
Nguyên tắc chính của học thuyết phát xít là học thuyết về nhà nước, bản chất, nhiệm vụ và mục tiêu của nó. Đối với chủ nghĩa phát xít, nhà nước xuất hiện dưới dạng tuyệt đối, so với nó thì các cá nhân và nhóm chỉ là “tương đối”. Các cá nhân và các nhóm chỉ có thể được “hình dung” bên trong nhà nước. Nhà nước tự do không kiểm soát trò chơi và sự phát triển vật chất và tinh thần của tập thể, mà chỉ giới hạn ở việc tính kết quả.
Nhà nước phát xít có ý thức riêng, ý chí riêng nên được gọi là nhà nước “đạo đức”. Năm 1929, tại cuộc họp 5 năm của chế độ, tôi đã nói: “Đối với chủ nghĩa phát xít, nhà nước không phải là người gác đêm, chỉ bận tâm đến sự an toàn cá nhân của công dân; cũng không phải là một tổ chức với những mục tiêu thuần túy vật chất để đảm bảo hạnh phúc và sự bình yên tương đối của việc chung sống trong xã hội, để thực hiện điều này chỉ cần một Hội đồng hành chính; và thậm chí cũng không phải là một thiết chế chính trị thuần túy không có mối liên hệ với thực tại vật chất phức tạp của cuộc sống của các cá nhân và toàn bộ quốc gia.”
“Nhà nước, như chủ nghĩa phát xít hiểu và thực hiện nó, là một thực tế tinh thần và đạo đức, vì nó tiết lộ tổ chức chính trị, pháp lý và kinh tế của quốc gia; và tổ chức này trong sự sinh ra và phát triển của nó là biểu hiện của tinh thần. Nhà nước là một sự đảm bảo cho an ninh bên ngoài và bên trong, nhưng nó cũng là người gìn giữ và bảo vệ tinh thần dân tộc, được phát triển qua nhiều thế kỷ trong ngôn ngữ, phong tục, tín ngưỡng. Nhà nước không chỉ là hiện tại, nó còn là quá khứ, nhưng quan trọng nhất, nó là tương lai.”
“Vượt qua ranh giới của một cuộc sống cá nhân ngắn ngủi, nhà nước đại diện cho ý thức bất biến của quốc gia. Hình thức bên ngoài của nhà nước thay đổi, nhưng sự cần thiết của nó vẫn còn. Chính là nhà nước giáo dục công dân về đạo đức công dân, nó cho họ ý thức về sứ mệnh của mình và khuyến khích họ đoàn kết, hài hòa lợi ích trên nguyên tắc công bằng; đảm bảo sự kế thừa những thành tựu tư tưởng trong lĩnh vực tri thức, nghệ thuật, pháp luật, đoàn kết nhân đạo, nâng con người từ cuộc sống sơ đẳng, nguyên thủy lên đỉnh cao của quyền lực con người, tức là tiến lên đế chế, gìn giữ cho các thời đại tương lai tên của những người đã chết vì sự toàn vẹn của nó và nhân danh sự tuân theo luật pháp của nó, nêu gương và tôn vinh cho các thế hệ tương lai những lãnh tụ đã mở rộng lãnh thổ của nó, những thiên tài đã làm rạng danh nó.”
“Khi cảm giác về tính quốc gia yếu đi và những tham vọng tan rã và ly tâm lên ngôi, thì các dân tộc tiến tới suy tàn.”
11. Tính thống nhất của nhà nước và những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản
Từ năm 1929 đến nay, sự tiến hóa rộng khắp về kinh tế và chính trị đã củng cố thêm tầm quan trọng của các nguyên tắc học thuyết này. Nhà nước trở thành người khổng lồ. Chỉ có nhà nước mới có khả năng giải quyết những mâu thuẫn gay gắt của chủ nghĩa tư bản. Cái gọi là khủng hoảng chỉ có thể được giải quyết bởi nhà nước và trong nhà nước.
Bây giờ ở đâu rồi những hình bóng của Jules-Simon, những người đã tuyên bố vào buổi bình minh của chủ nghĩa tự do rằng “nhà nước phải nỗ lực để khiến mình trở nên vô dụng và chuẩn bị từ chức?”. Cả những cái bóng của McCulloch, người vào nửa sau của thế kỷ trước đã lập luận trước nhà nước phải kiềm chế không quản lý quá mức?
Trước yêu cầu không ngừng đòi hỏi sự can thiệp tất yếu của nhà nước vào các quan hệ kinh tế, liệu bây giờ gã người Anh Bentham có thể nói gì, khi mà theo ông ta, thì ngành công nghiệp nên yêu cầu nhà nước một điều: hãy để chúng tôi yên; cũng như tay Humboldt của Đức, mà theo ông ta, một nhà nước “nhàn rỗi” nên được coi là tốt nhất?
Đúng là làn sóng thứ hai của các nhà kinh tế tự do không cực đoan như làn sóng đầu tiên, và chính Adam Smith, mặc dù rất thận trọng, đã mở hé cánh cửa cho sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế.
Ai nói chủ nghĩa tự do tức là nói “cá nhân”; ai nói “phát xít” tức là nói “nhà nước”. Nhưng nhà nước phát xít là duy nhất và là một sáng tạo độc đáo. Nó không phải là phản động, mà mang tính cách mạng, bởi vì nó dự báo giải pháp cho những vấn đề phổ quát nhất định, được đặt ra trong mọi lĩnh vực: trong lĩnh vực chính trị do sự chia rẽ của các đảng phái, sự tùy tiện của quốc hội, sự vô trách nhiệm của các hội đồng lập pháp; trong lĩnh vực kinh tế – bởi hoạt động công đoàn ngày càng sâu rộng và mạnh mẽ hơn, cả trong khu vực lao động và khu vực công nghiệp, bởi những xung đột và thỏa thuận của họ; – trong lĩnh vực đạo đức – bởi nhu cầu về trật tự, kỷ luật, sự tuân theo các điều răn đạo đức của tổ quốc.
Chủ nghĩa phát xít muốn một nhà nước mạnh mẽ, hữu cơ và đồng thời dựa trên nền tảng nhân dân rộng lớn. Nhà nước phát xít cũng yêu cầu đưa vào phạm vi năng lực của mình cả lĩnh vực kinh tế, do đó, cảm giác về tính nhà nước thông qua các tổ chức doanh nghiệp, xã hội và giáo dục do nó tạo ra, thâm nhập vào những nhánh xa nhất, và trong nhà nước, tất cả các lực lượng chính trị, kinh tế và tinh thần của dân tộc được bộc lộ, vì được đưa vào các tổ chức tương ứng. Một nhà nước dựa trên hàng triệu cá nhân, những người công nhận nó, cảm nhận nó, sẵn sàng phục vụ nó, thì không thể là nhà nước chuyên chế của một kẻ thống trị thời trung cổ. Nó không liên quan gì đến các nhà nước chuyên chế trước hay sau năm 1789.
Trong một quốc gia phát xít, cá nhân không bị tiêu diệt mà ngược lại, giá trị của anh ta được tăng lên, giống như một người lính trong hàng ngũ không bị giảm sút mà được củng cố nhờ số lượng đồng đội của mình. Nhà nước phát xít tổ chức dân tộc, nhưng để lại đủ không gian cho các cá nhân; nó cắt giảm những quyền tự do vô ích và có hại và bảo tồn những quyền tự do thiết yếu. Phán quyết trong lĩnh vực này không thể là cá nhân, mà chỉ có nhà nước.
12. Nhà nước phát xít và tôn giáo
Nhà nước phát xít không thờ ơ với hiện tượng tôn giáo nói chung và một tôn giáo tích cực nói riêng ở Ý là Công giáo. Nhà nước không có thần học riêng, nhưng có đạo đức. Trong một quốc gia phát xít, tôn giáo được coi là một trong những biểu hiện sâu sắc nhất của tinh thần, vì vậy nó không chỉ được tôn kính mà còn được bảo vệ và bảo trợ.
Nhà nước phát xít không tạo ra “Chúa” của mình, như Robespierre đã làm vào thời điểm mê sảng của Quốc Ước; nó không cố gắng một cách vô ích, như chủ nghĩa bôn-sê-vích, để xóa bỏ tôn giáo khỏi tâm hồn người dân. Chủ nghĩa phát xít tôn vinh Thượng đế của những kẻ khổ hạnh, của những vị thánh, của những anh hùng, và cũng là Thượng đế như trái tim ngây thơ và nguyên thủy của nhân dân chiêm ngưỡng và kêu xưng.
13. Đế chế và kỷ luật
Nhà nước phát xít là ý chí cường quyền và thống trị. Truyền thống La Mã trong mối quan hệ này là ý niệm về sức mạnh. Trong học thuyết phát xít, đế chế không chỉ là một thể chế lãnh thổ, quân sự hay thương mại, mà còn là một thể chế tinh thần và đạo đức. Có thể nghĩ về một đế chế, tức là một dân tộc, trực tiếp hoặc gián tiếp cai trị các dân tộc khác, mà không cần phải chinh phục dù chỉ một kilomet lãnh thổ.
Đối với chủ nghĩa phát xít, khát vọng đế chế, tức là mở rộng quốc gia, là một biểu hiện quan trọng; ngược lại, “ngồi nhà” là dấu hiệu sa sút. Các dân tộc đang trỗi dậy và đang phục sinh đều là đế quốc; còn các dân tộc đang hấp hối thì từ bỏ mọi yêu sách.
Chủ nghĩa phát xít là học thuyết phù hợp nhất để thể hiện khát vọng và trạng thái tinh thần của người dân Ý, vùng dậy sau nhiều thế kỷ bị bỏ rơi và làm nô lệ cho ngoại bang. Nhưng sự hùng mạnh đòi hỏi kỷ luật, sự phối hợp của các lực lượng, tinh thần trách nhiệm và hy sinh; điều này giải thích nhiều biểu hiện hoạt động thực tế của chế độ, định hướng của các nỗ lực của nhà nước, mức độ nghiêm khắc cần thiết đối với những kẻ muốn chống lại phong trào không thể tránh khỏi này của Ý trong thế kỷ 20; chống lại bằng cách kích động các hệ tư tưởng đã lỗi thời của thế kỷ 19, đã bị khước từ ở tất cả các nơi mà các thử nghiệm vĩ đại về thay đổi chính trị và xã hội được thực hiện một cách táo bạo.
Chưa bao giờ như lúc này, các dân tộc lại khao khát một uy quyền, định hướng, trật tự đến thế. Nếu mỗi thời đại có học thuyết của mình cho cuộc sống, thì từ hàng ngàn dấu hiệu, rõ ràng học thuyết của thời đại hiện nay là chủ nghĩa phát xít. Việc nó là một học thuyết sống động là điều hiển nhiên vì nó kích thích đức tin; và việc đức tin này chinh phục được các linh hồn đã được chứng minh bằng thực tế rằng chủ nghĩa phát xít có những anh hùng, những kẻ tử vì đạo của mình. Do đó, chủ nghĩa phát xít sở hữu tính phổ quát của những học thuyết mà khi được thực hiện thì đại diện cho một giai đoạn trong lịch sử tinh thần con người.
Nguồn và tham khảo:
– Bài wikipedia (tiếng Anh): The Doctrine of Fascism
KHÔNG NHƯ hơn 20.000.000 di dân da vàbng ĐẠI HÁN thực dân đến LỤC ĐỊA ĐEN khai thác bóc lột CÒN TÀN BẠO DÃ MAN KHỦNG KHIẾP hơn cả bọn thực dân da trắng …..
XUẤT HIỆN cô gái ĐỨC — Stephanie Fuchs, người Đức, sinh ra ở Frankfort, Đức.
Con cháu các Bác Hitler, Beethoven, Goethe….có cách suy nghĩ và yêu thương một cách kỳ lạ TÌNH không BIÊN GIỚI (hát như bố già họ PHẠM..)
https://www.youtube.com/watch?v=PemEnz1YOr4
Trong khi toàn thế giới, Nhân loại đang khủng hoảng cực kỳ trầm trọng ĐẠI DỊCH siêu vi trun..g c..uốc, chiến tranh tiệm cần Thế chiến, …nguồn gốc từ những nền văn minh khác nhau và đặc biệt vô cùng xâu xa LÀ LÒNG THAM LAM TIỀN BẠC NHỤC DỤC là chính giữa các chủng tộc khác nhau …
XUẤT HIỆN cô gái ĐỨC — Stephanie Fuchs, người Đức, sinh ra ở Frankfort, Đức.
Con cháu các Bác Hitler, Beethoven, Goethe….có cách suy nghĩ và yêu thương một cách kỳ lạ TÌNH không BIÊN GIỚI (hát như bố già họ PHẠM..)
https://www.youtube.com/watch?v=PemEnz1YOr4
Stephanie Fuchs đã đến Tanzania ở Đông Phi với tư cách là trợ lý nghiên cứu cho một dự án bảo tồn biển. Một ngày nọ, cô ấy đang đi dạo thì tình cờ gặp Sokoine, chồng sắp cưới của cô ấy. “Điều thu hút tôi ở anh ấy là đôi mắt của anh ấy. Ánh mắt bình tĩnh, kiên định của anh ấy,” cô nói. Ngày nay, họ thậm chí còn có với nhau một cậu con trai.
Cách đây một thời gian, chúng tôi đã kể cho bạn nghe về một phụ nữ Anh đến sống ở Amazon vì cô ấy yêu một chàng trai trẻ người Peru. Tình yêu không có giới hạn địa lý, và hôm nay chúng tôi lại chứng minh điều đó bằng một câu chuyện tình yêu mới. Lần này, cốt truyện lấy bối cảnh ở Tanzania, một quốc gia Đông Phi nơi một phụ nữ Đức đến và yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên với người chồng hiện tại của cô, một người đàn ông thuộc bộ tộc Maasai. Họ đã ở bên nhau được chín năm và có một cậu con trai.
Stephanie Fuchs (34) và Sokoine là bằng chứng sống cho thấy tình yêu chiến thắng tất cả. Cô đến từ Đức và gặp người chồng hiện tại của mình vào ngày 5 tháng 1 năm 2011, sau khi cô đến Tanzania để làm trợ lý nghiên cứu cho một dự án bảo tồn biển. Theo tài khoản Instagram của người phụ nữ, người đàn ông làm bảo vệ tại một trung tâm lặn trong khu vực.
Stephanie cùng với các nhà nghiên cứu đồng nghiệp của mình đến làng Utende. Họ ổn định cuộc sống và cô quyết định ra ngoài khám phá khu vực. Cô ấy nói tiếng Swahili – ngôn ngữ Tanzania – một cách hoàn hảo bởi vì cô ấy đã trải qua một năm ở một trại khác. “Tôi đã yêu Tanzania rồi. Tôi đã yêu những con người tuyệt vời và vùng hoang dã lạ thường,” cô ấy nói trong một bài đăng trên nền tảng mạng xã hội ảnh và video phổ biến.
Cô tiếp tục chuyến đi đến vùng hoang dã và tình cờ gặp một nhóm đàn ông Maasai, một bộ lạc ở Tanzania với khoảng 880.000 người. Stephanie nhìn thấy ba thành viên, nhưng chỉ có một người khiến cô chú ý. Đó là Sokoine. “Điều thu hút tôi ở anh ấy là đôi mắt của anh ấy. Ánh mắt điềm tĩnh, kiên định của anh ấy toát lên rất nhiều sự bình yên và tự tin”, người phụ nữ viết trên Instagram.
Nhiều ngày trôi qua, nhưng Stephanie không thể quên Sokoine. “Vài tuần trôi qua và niềm đam mê của tôi với Sokoine ngày càng mạnh mẽ hơn,” cô nói. Tuy nhiên, cô vẫn cảm thấy xấu hổ khi tiếp cận anh.
Một ngày nọ, người phụ nữ Đức đang đi chơi trong một nhà hàng với một người bạn địa phương thì đột nhiên Sokoine bước vào. Bạn của cô ấy nói “ồ, nhìn này, Maasai của bạn đến rồi”. Cô ấy ngạc nhiên hỏi anh ấy tại sao anh ấy lại nói như vậy, anh ấy trả lời “Ồ… bạn không biết sao? Anh ấy thích bạn”. Một vài ngày trôi qua và cả hai bắt đầu nói chuyện… và phần còn lại là lịch sử.
“11 tháng sau, tôi chuyển đến sống cùng anh ấy và gia đình trong trang trại truyền thống của anh ấy ở giữa sa mạc Tanzania,” Stephanie nói thêm trên mạng xã hội.
Hiện nay, Stephanie và Sokoine đã kết hôn được 9 năm và có một cậu con trai 4 tuổi. Mặc dù cô ấy thừa nhận rằng cuộc hôn nhân của cô ấy không hoàn hảo và cuộc sống của cô ấy “không phải là một câu chuyện cổ tích”, nhưng cô ấy đang sống hạnh phúc ở Đông Phi.
Trong một cuộc phỏng vấn với Globstory, người phụ nữ Đức đã kể về cuộc sống của cô ở Tanzania và nói rằng trong khi cô phải thích nghi với văn hóa Maasai, thì chồng cô cũng phải thích nghi với văn hóa của cô. Đây là cách họ quản lý để duy trì một mối quan hệ cân bằng. “Trong mối quan hệ của chúng tôi, có một số điều anh ấy làm mà những người đàn ông Maasai khác không làm,” cô giải thích.
Sokoine tích cực tham gia vào việc nuôi dạy con trai mình, giống như thể anh ấy là một người đàn ông phương Tây, và giống như anh ấy nên vậy. Hóa ra trong văn hóa Maasai, nhiệm vụ nuôi dạy con cái chủ yếu thuộc về người mẹ, nhưng chồng của Stephanie đang phá vỡ định kiến đó.
Mặt khác, mối quan hệ của người phụ nữ với gia đình chồng khá tốt. Cô ấy thân thiết với bố mẹ chồng và đặc biệt là với mẹ chồng, người đã nhiều lần hỏi cô ấy liệu họ có sinh thêm một đứa trẻ nữa hay không.
“Tôi đang chịu một chút áp lực từ mẹ chồng và bà ngoại của chồng. Bất cứ khi nào tôi ở trong cabin, họ luôn thích hỏi, ‘Stephanie, khi nào đứa trẻ tiếp theo đến?’, nhưng tôi luôn chạy ra khỏi cabin, ”cô nói.
Cuối cùng, cần lưu ý rằng Sokoine cũng là một ngoại lệ đối với quy tắc trong nền văn hóa của mình. Theo Stephanie, anh ấy chưa bao giờ kết hôn với người phụ nữ khác, như đàn ông Maasai thường làm. Anh ấy hoàn toàn yêu vợ và gia đình ba người mà họ đã tạo ra.
https://www.afrikmag.com/stephanie-fuchs-lallemande-qui-a-abandonne-la-vie-moderne-pour-vivre-avec-son-mari-massai-dans-un-village/
https://passionpassport.com/life-maasai-tribe-tanzania-stephanie-fuchs/
CHÂU PHI, TANZANIA, CÂU CHUYỆN DU LỊCH
Stephanie Fuchs về Sống chung với Bộ lạc Maasai ở Tanzania
Xuất bản ngày 29 tháng 9 năm 2021
Cư trú trong các công viên trò chơi gần Hồ Lớn Châu Phi ở phía bắc Tanzania cũng như phía bắc, trung và nam của Kenya, Maasai là một nhóm dân tộc bản địa bán du mục nổi tiếng với điệu nhảy truyền thống, trang phục sặc sỡ và phong tục đặc biệt.
Mặc dù những tập tục như uống máu gia súc sống có thể khác xa với ‘chuẩn mực’ của phương Tây, nhưng Stephanie Fuchs, người Đức, sinh ra ở Đức, đã nhận thấy sự tôn trọng của họ đối với những con vật mà họ chăn gia súc và săn bắt, cũng như những thảo nguyên mà họ gọi là nhà, đến nỗi cô ấy đã chọn để sống cuộc sống Maasai truyền thống trong 10 năm qua.
Đã theo dõi Stephanie trên Instagram trong vài năm qua, tôi tò mò muốn biết thêm về hành trình của cô ấy. Cô ấy vui lòng chia sẻ với chúng tôi cách cô ấy gặp chồng mình, những điều chỉnh mà cô ấy phải đối mặt để thích nghi với lối sống của người Maasai, cũng như những suy nghĩ rộng hơn của cô ấy về người Maasai liên quan đến niềm đam mê bảo tồn của cô ấy.
Stephanie sinh ra ở một ngôi làng nhỏ gần Frankfurt, nơi cô sống với mẹ. Năm 19 tuổi, cô rời Đức để đi du lịch. Cô đã đến thăm Úc, sau đó đến Anh và theo đuổi bằng cấp về sinh học và bảo tồn với mục đích làm việc trong lĩnh vực bảo tồn và tạo ra sự khác biệt tích cực trên thế giới.
Sau khi bỏ lỡ cơ hội việc làm với một tổ chức phi chính phủ của Anh ở Tanzania, Stephanie đã tiếp tục và đăng ký làm tình nguyện viên cho cùng một tổ chức. Lần đầu tiên cô gặp người chồng hiện tại của mình, Sokoine, khi cô ở trong trại nghiên cứu ở Đảo Mafia, phía nam đảo Zanzibar.
“Anh ấy làm bảo vệ tại một trung tâm lặn và tôi nhớ mình đã nghĩ anh ấy rất đẹp”.
Tại thời điểm này, Stephanie đã sống ở Tanzania được một năm và đã học tiếng Swahili—ngôn ngữ mẹ đẻ của Tanzania. Họ quen nhau hai tháng sau khi gặp gỡ và kết hôn một năm sau đó. Để ở với Sokoine, Stephanie chuyển đến sống cùng đại gia đình của anh trong ngôi nhà Maasai truyền thống của họ.
Chắc hẳn bạn đang thắc mắc cuộc sống hàng ngày của người Maasai như thế nào. Tôi cũng vậy, và Stephanie rất tử tế khi chia sẻ một số chi tiết về thói quen hàng ngày của cô ấy.
“Trước khi tôi bắt đầu hoạt động trên mạng xã hội và trước khi có con trai, tôi rất dễ buồn chán. Tôi vẫn bị mắc kẹt trong tư duy phương Tây, nhưng bây giờ, luôn có việc phải làm. Thật là một đặc ân khi có thể có thời gian chỉ để ngồi và suy nghĩ—để ngẫm nghĩ và suy ngẫm. Cuộc sống của người Maasai rất chậm”.
Cô ấy thức dậy lúc 7 giờ sáng và ăn sáng bằng chai. Cô chuẩn bị cho con trai đi học, chăm sóc đàn dê và thả chúng ra khỏi chuồng. Sau bữa trưa từ 12 giờ đến 1 giờ chiều, đã đến giờ nghỉ — những người phụ nữ tập trung vào công việc kết hạt cho những chiếc vòng bắt giấc mơ, may vá và lấy củi để nấu ăn. Stephanie cũng sử dụng thời gian này để tập trung vào mạng xã hội của mình, vì vậy cô ấy sẽ khám phá và chụp vài bức ảnh.
Mặc dù cô ấy đã ổn định cuộc sống với gia đình và bộ tộc mới của mình, Stephanie nói với chúng tôi rằng cô ấy vẫn đang thích nghi với lối sống của người Maasai. “Bây giờ tôi có thể nói rằng tôi cảm thấy thoải mái, điều mà 5 năm trước tôi không thể nói được. Nó chiếm của tôi một khoảng thời gian dài”.
Mặc dù có thể nói tiếng Swahili, Stephanie vẫn bị bỏ rơi nhiều lần vì người Maasai nói ngôn ngữ bộ lạc truyền thống của họ, Maa. Cô cũng nhận thấy văn hóa vợ chồng không dành quá nhiều thời gian cho nhau là điều khó khăn. Các anh trai của Sokoine luôn ở bên cạnh, đôi khi họ còn ngủ chung phòng với Stephanie và Sokoine. Và trong khi cô ấy nghĩ rằng việc có con có thể thay đổi điều này, thì nó lại có một tác động hoàn toàn khác – và không ngờ tới -.
“Việc có con trai đã tạo ra bức tường ngăn cách giữa tôi và Sokoine, nhưng lại đưa tôi đến gần hơn với những người phụ nữ trong gia đình anh ấy, đặc biệt là mẹ anh ấy. Dành nhiều thời gian với mẹ chồng cho phép tôi học ngôn ngữ của bộ tộc Maa.”
Một điều chỉnh khác là môi trường vật chất. Stephanie bị ốm nhiều lần. Từ nhiễm trùng huyết ở chân cho đến sốt rét và amip, không có gì ngạc nhiên khi một năm đó Stephanie chỉ đơn giản là chịu đựng đủ và muốn quay trở lại Đức. Sự điều chỉnh là tâm lý, cảm xúc và thể chất.
Để cơ thể cô ấy thích nghi với môi trường vật lý, cần phải thực hiện một số thay đổi nhỏ. Cô ấy cần được tiếp cận với nước uống sạch vì đó là thứ mà cô ấy đã quen. Uống từ cùng nguồn nước như người Maasai sẽ không tốt trong một cơ thể chỉ được cung cấp nước uống sạch.
Giờ đây, bồn nước được lắp đặt đã được dùng chung cho cả gia đình và đã tác động tích cực đến sức khỏe của họ. Cô ấy cũng phải lắp đặt một cái bếp gas. Người Maasai nấu ăn bằng củi, nhưng điều này gây ra nhiều vấn đề về phổi cho Stephanie do khói.
Sokoine rất hài lòng với những điều chỉnh nhỏ này; anh ấy đặt sự thoải mái của cô ấy lên trên văn hóa của anh ấy. Miễn là Stephanie không xúc phạm văn hóa theo bất kỳ cách nào, những thay đổi nhỏ này có thể được thực hiện. Nó sẽ
càng nhiều khía cạnh có giá trị cao của nền văn hóa mà Stephanie phải thích nghi.
“Đã sống với họ 10 năm, tôi có thể nói rằng người Maasai bẩm sinh đã là những nhà bảo tồn. Những nhà bảo tồn chân chính là những người dân bản địa thuộc về một vùng đất, chứ không phải những người da trắng có đặc quyền theo đuổi bằng cấp về bảo tồn và sinh học bị vấy bẩn bởi quan điểm tư bản phương Tây.”
Tương tự như thổ dân Úc và người Mỹ bản địa ở Mỹ, Stephanie kể cho chúng tôi về cách người Maasai làm việc để sống hòa hợp với thiên nhiên xung quanh họ nhằm bảo tồn nó. Từ khi sinh ra và sống với thiên nhiên, họ biết cách chăm sóc nó. Họ có mối liên hệ với thiên nhiên mà phần lớn thế giới phương Tây không có.
“Vấn đề với việc bảo tồn là nó được điều hành bởi những người ở thế giới phương Tây, những người không nhất thiết phải đủ điều kiện để bảo tồn thiên nhiên xung quanh chúng ta. Dù được học về sinh học và đàm thoại, nhưng chính những cộng đồng bản địa sống giữa thiên nhiên mới là những người có trình độ hơn chúng ta về cách bảo tồn thiên nhiên.
“WWF đang trục xuất các cộng đồng bản địa, thường là bằng bạo lực. Người bản địa đang bị đuổi ra khỏi Brazil để khoan dầu phục vụ phát triển kinh tế thậm chí không phát triển chúng ta. Người Maasai đang bị đuổi khỏi vùng đất của họ ở Ngorongoro và Serengeti vì nền văn hóa safari và vì những người thợ săn.
“Tất cả bắt nguồn từ quyền tối cao của người da trắng, lý tưởng mà người da trắng tin rằng họ có quyền đưa ra những quyết định này cho các quốc gia khác. Trên thực tế, người Maasai chăn thả gia súc của họ trong miệng núi lửa cùng với ngựa vằn và các động vật hoang dã khác, nhấn mạnh rằng con người và động vật có thể cùng tồn tại hòa thuận.”
Stephanie lập luận rằng bảo tồn có bản chất đế quốc bắt nguồn từ thời thuộc địa. Mặc dù ngày nay chủ nghĩa thực dân không còn tồn tại, nhưng việc bảo tồn được ngụy trang để có vẻ có lợi nhưng thay vào đó lại gây ra nhiều thiệt hại hơn cho các nước đang phát triển như Tanzania, càng cản trở sự phát triển kinh tế của họ.
Stephanie cũng chia sẻ với chúng tôi một số suy nghĩ về việc ăn thịt trong văn hóa Maasai so với văn hóa phương Tây.
“Khi bạn nhìn vào cách thịt được nuôi ở phương Tây, bạn nên ăn chế độ ăn dựa trên thực vật. Nhưng theo cách mà người Maasai sống, có gia súc là bền vững. Cây không bị chặt cho bò; những người chăn gia súc đang bảo tồn đất bằng cách chăn gia súc trong rừng.
“Người Maasai uống máu bò để lấy protein—thực tế đây là món ăn chay vì con vật không bị giết, bạn chỉ lấy máu giống như cách bạn làm với người muốn hiến máu.”
Nhiều người tin rằng người Maasai góp phần vào sự nóng lên toàn cầu do khí mê-tan được tạo ra từ gia súc của họ và việc chăn thả quá mức. Stephanie lập luận rằng tình trạng chăn thả quá mức xảy ra không phải do số lượng gia súc ở một nơi mà vì gia súc dành quá nhiều thời gian ở một khu vực—chủ yếu là vì chúng không còn nơi nào khác để đi. Ngày càng có ít đất dành cho người Maasai, một phần do sự xâm lấn của các bộ lạc khác và cũng do dân số quá đông.
Stephanie nói với chúng tôi rằng những người nông dân trồng trọt để lấy thực phẩm thuần chay là thứ phá hủy nguồn nước và cây cối.
“Vấn đề của việc ăn thuần chay ở thế giới phương Tây là bạn có thể ăn thuần chay trong khi vẫn thưởng thức đồ ăn theo cách của những người ăn thịt vì bạn có thể bước vào siêu thị và mua thịt thuần chay. Và trong nhiều trường hợp, những người tiêu thụ thịt thuần chay sẽ không quan tâm đến việc nó đến từ đâu và tác hại tiềm tàng mà nó có thể gây ra cho môi trường.”
Từ kinh nghiệm sống với người Maasai, Stephanie có một vài nhận xét về cách duy trì lối sống của người Maasai.
Họ có ít đất đai hơn, nhưng nền văn hóa của họ dựa vào đất đai vì họ cần gia súc. Họ tiếp tục sinh nhiều con, điều này là không bền vững do thiếu đất. Nhờ được giáo dục, Stephanie có đặc ân nhận thức được những điều này.
Theo truyền thống, người Maasai không sử dụng biện pháp tránh thai. Trong nỗ lực giúp họ bảo tồn văn hóa của họ ở dạng chân thực nhất, cô ấy cố gắng giải thích cho họ những gì cô ấy biết về kế hoạch hóa gia đình bất cứ khi nào có thể. Kiểm soát tỷ lệ sinh của họ là một điều cần thiết nếu họ muốn tiếp tục sống theo cách của họ. Cô ấy cũng khuyến khích cộng đồng của mình suy nghĩ về những câu hỏi xung quanh việc họ sẽ sống như thế nào và ở đâu trong nhiều năm tới, cách họ sẽ duy trì bản thân và cách họ sẽ kiếm thu nhập.
Stephanie thực sự tin rằng chúng ta cần thể hiện sự tôn trọng nhiều hơn đối với các cộng đồng bản địa của mình. Họ là những người bảo vệ thực sự cho hành tinh của chúng ta và chúng ta cần đứng lên bảo vệ họ khi quyền của họ bị vi phạm.
https://universite-digitale1.com/wp-content/uploads/2018/05/MeVietNam.jpg
TỶ LƯƠNG DÂN
Tóm lại, thuyết phát xít và cộng sản khác nhau ở hữu thần và vô thần.
Những người theo “vô thần” thì kết tội rất nặng thuyết phát xít để người ta quên
mất hay làm nhẹ tội thuyết CS., một cách biện hộ khôn khéo nhưng gian trá !