Phật giáo và Nhân quyền: Quyền cơ bản và nghĩa vụ

Thục Quyên

8-1-2022

Sự chú tâm và đề cao nhân quyền như đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (UDHR) và đã được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua vào ngày 10.12.1948, là một hiện tượng hậu tôn giáo, có liên quan nhiều hơn đến các hệ tư tưởng thế tục và tình hình thế giới gây ra bởi những quyền lực chính trị.

Mặc dù Phật giáo không dùng những thuật ngữ như trong bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, các nguyên tắc cơ bản của UDHR có mặt và được củng cố phong phú trong kinh điển Phật giáo (Buddhavacana/ Lời dạy của Đức Phật). Theo sự so sánh của một số học giả Âu – Mỹ, Phật giáo là một tôn giáo và triết học, chú trọng đến phúc lợi và hạnh phúc của con người, nên giáo lý Phật giáo đề cao giá trị những nguyên tắc này cũng như đi sâu và hướng dẫn cách thực hiện.

Khi Đức Phật nói rằng, mọi người đều có thể thành Phật thì ngài khẳng định tất cả mọi người đều bằng nhau, đều có “Phật tính” và có cơ hội để đạt tới sự giải thoát như chính bản thân Ngài. Lời dạy này hoàn toàn phù hợp với Điều 1 của UDHR: “Tất cả con người được sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm giá và quyền lợi”.

Phật giáo không sử dụng chính thuật ngữ “Nhân quyền”, nhưng sự tự do của con người để thoát khổ là cốt lõi của giáo lý phật giáo. Theo Phật giáo, các yếu tố thiết yếu của quyền con người được bảo đảm khi mỗi người đều giữ tròn vai trò và nhiệm vụ thiêng liêng của mình trong việc duy trì và thúc đẩy sự công bằng.

Đức Phật dùng những “Pháp” (những lời thuyết giảng, Pháp còn có nghĩa là luật tự nhiên) để xác định những điều đúng và chính đáng trong mọi bối cảnh, mọi tình huống. Trọng tâm của Phật giáo là con người và mối quan hệ giữa con người với con người trong cuộc sống trên trái đất. Những hướng dẫn của Pháp được thể hiện dưới dạng “nhiệm vụ” hơn là “quyền”, nhấn mạnh vào chỗ “nhiệm vụ” và “quyền” chỉ là hai mặt không tách rời của một thực thể.

Thí dụ không được sát sinh, có nghĩa là mọi sinh vật đều có quyền sống và bảo vệ thân thể và ta phải tôn trọng sự sống của mọi người và mọi lòai. Không được trộm cắp, vì mọi người có quyền sở hữu…

Như vậy không có vấn đề bổn phận (nghĩa vụ) được đặt ra nếu trước đó không có sự có mặt của “quyền”.

Trong bản “Năm giới quý báu“ hay “Năm giới hạnh về đạo đức” (Pancha sila) mà mọi người đều làm lễ tiếp nhận khi trở thành phật tử, năm giới được tóm gọn như thấy khắc trên một bia đá tại Lumbini (nơi Đức Phật đản sanh).

 

Giới thứ 1: Con nguyện, không giết bất kỳ chúng sinh nào

Giới thứ 2: Con nguyện, không lấy những gì mà người sở hữu không cho

Giới thứ 3: Con nguyện, không làm những hành vi sai trái về tình dục

Giới thứ 4: Con nguyện, không nói dối

Giới thứ 5: Con nguyện, không dùng bất kỳ chất gây say hoặc ma túy nào

Năm giới theo Pancha sila đã được Viện Nhân quyền Campuchia (CIHR) so sánh:

1/ Giới đầu tiên với quyền được sống,

2/ Giới thứ hai với quyền sở hữu tài sản,

3/ Giới thứ ba với nghĩa rộng là quyền ứng xử của cá nhân trong xã hội,

4/ Giới thứ tư với quyền không bị lừa đảo, với nghĩa rộng quyền nhân phẩm,

5/ Và giới thứ năm với quyền có an ninh cá nhân và một xã hội an toàn.

Một thiền sư Việt Nam, thầy Thích Nhất Hạnh, đã trình bày năm giới trong “Văn bản năm giới tân tu” (*) theo chiều hướng tích cực và phù hợp với cuộc sống trong thế kỷ thứ 21, nêu rõ tinh thần của 5 giới làm ngọn đuốc soi sáng con đường bảo vệ môi sinh, bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài. Do đó “Văn bản năm giới tân tu” đang được phổ biến rất rộng tại Âu – Mỹ và đang đem tuệ giác của Đạo Phật đóng góp cho nền đạo đức toàn cầu.

Trọng trách của các tu sĩ Phật giáo Việt Nam

Đức Phật đã đưa ra một thông điệp xã hội thông qua giáo pháp của mình. Thông điệp bao gồm những giảng dạy về Ahimsa (bất bạo động), hòa bình, công lý, tình thương, tự do, bình đẳng và tình huynh đệ, v.v… điều đó chỉ ra rõ ràng và thuyết phục rằng thông điệp của ngài gói trọn các nguyên tắc hiện đại về Quyền con người nằm trong nhiều tuyên bố, giao ước quốc tế, các quyết nghị và hiến pháp của hầu hết các quốc gia hiện nay.

Đức tính từ bi của Phật giáo khuyến khích mọi người đặt mình vào vị trí của người khác, phát triển khả năng cảm thông của con người ở mức độ có thể liên hệ hoàn toàn với sự đau khổ của người khác.

Trách nhiệm của người tu sĩ Phật giáo Việt Nam là phải học, hiểu, bảo trì và thực hành giáo pháp. Học hành xôi đậu, không hiểu thấu đáo, đuổi theo tiền tài, bằng cấp, chức vụ, thì chỉ tạo nên một đám nhố nhăng rồi ê a sơn phết bên ngoài một lớp sơn Phật giáo.

_____

(*) https://langmai.org/phat-duong/tung-gioi/van-ban-5-gioi-tan-tu/

Bình Luận từ Facebook

2 BÌNH LUẬN

  1. Nói xin lỗi là Phật giáo ở đâu cũng tốt lành cả, chỉ trừ ở các nước CS. độc tài
    toàn trị thì PG. biến thành công cụ trong việc giúp đảng CS.thống trị.
    Không chỉ tôn giáo mà những lãnh vực khác thì bất cứ ai có tài năng hay uy
    tín đều bị CS.trưng dụng để rồi lợi dụng họ cho mục đích “đè đầu cỡi cổ” dân
    đen. Thử hỏi những trí thức kiết xuất như Trần Đức Thảo,Nguyễn Mạnh Tường
    v.v. và các nhân tài văn chương như Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên v.v. hay âm
    nhạc như Trịnh Công Sơn v.v. có được tự do và độc lấp phát triển tài năng của
    họ không ? Hoàn toàn không ! Tuyệt đối không !

  2. “Học hành xôi đậu, không hiểu thấu đáo, đuổi theo tiền tài, bằng cấp, chức vụ, thì chỉ tạo nên một đám nhố nhăng rồi ê a sơn phết bên ngoài một lớp sơn Phật giáo“.
    Trước hết nên điểm mặt và coi chừng mấy ông Tiến sĩ nhà Phật, đam mê bám víu vào học vị bằng cấp rồi còn bảo vệ những luận án TS không có liên quan một chút nào đến Phât giáo, Pháp Phật-Buddha Dhamma … để cho người khác biết mình có học vị T.Sĩ- lý luận cao cấp gì đó thì ai cũng nể nang tôn vinh mình. Đức Phật Thích Ca thuyết trong Kinh Tương Ưng với một BàLamôn rằng chừng nào Kinh TứNiệmXứ- SatiPatthana Sutta còn thì Chính pháp của Phật còn, nhưng rõ ràng ngay trong thời buổi này thì chính mấy ông TS Phật giáo làm cho nhà Phật điên đảo- tụt nhanh hơn vào thời kỳ mạt pháp.

Comments are closed.