Trần Văn Chánh
11-2-2020
Hơn chục năm trước, báo Tuổi Trẻ (21.3.2005) có đăng bài trả lời phỏng vấn của bà Nguyễn Thị Oanh, nhà nghiên cứu và hoạt động giáo dục-xã hội, với đề tài “bài học làm người bị bỏ quên”, liên quan đến một số vấn đề phát triển kinh tế-xã hội trong bối cảnh cuộc sống hiện thực của xã hội hiện tại.
Đây không phải lần đầu tiên bà Nguyễn Thị Oanh tỏ ra băn khoăn về những vấn đề tương tự, trái lại, bà đã phát biểu rất nhiều và khắp nơi khi có dịp, nhưng kết quả chưa đo lường được. Không ai chống lại bà nhưng làm theo thì còn ít, phần lớn chỉ khen bà nói đúng nhưng hơi khó thực hiện.
Đây có lẽ cũng là một đề tài quan trọng mà cả xã hội cần nên chú ý, các phương tiện truyền thông cũng nên khơi gợi để đào sâu thêm bởi nếu không, xã hội trên con đường hung hăng tìm cách phát triển mọi giá sẽ có thể tự rơi vào tình trạng tệ hại một cách không có ý thức và không phương cứu chữa.
Đó là tình trạng mất cân bằng giữa các yếu tố tham gia vào công cuộc phát triển, có khả năng biến xã hội thành một xã hội “duy kinh tế” trong đó con người phần lớn trở nên thực dụng một cách thô thiển, và nhắm mắt chạy theo những thành công đơn thuần về vật chất mà quên đi yếu tố “bài học làm người”, như cái tít báo Tuổi Trẻ đã khéo đặt.
Đại để theo nội dung trả lời trong cuộc phỏng vấn nêu trên, những hậu quả xã hội tiêu cực luôn đi kèm với tiến bộ khoa học kỹ thuật; những giá trị căn bản của văn hóa và đạo đức đang ngày càng xuống dốc theo nhịp sống hiện đại, đặc biệt ở một bộ phận thanh niên, là một thực tế khá trầm trọng nhưng không chỉ ở trong giới trẻ, “Nó bắt đầu ở cấp cao hơn và ở mỗi giới có cách biểu hiện riêng. Trong người lớn là sự gian dối, chạy theo lợi ích riêng, tham nhũng, “ăn sắt thép” chẳng hạn…, đây là vấn đề số một của xã hội ta và nó có thể cản trở sự đi lên của đất nước. Không thể có sự tiến bộ mà yếu tố con người không được đề cao”.
Cũng theo bà Oanh, để cứu chữa cho tình trạng suy đồi, điều cần thiết là xây dựng những nhân cách vững vàng, lại là điều đang bị bỏ ngỏ ở nước ta với hiện trạng giáo dục nhân cách con người tỏ ra rất hời hợt, cha mẹ bất lực, nhà trường chỉ chú tâm dạy chữ, dạy nghề, ít dạy làm người… “Lĩnh vực khoa học kỹ thuật, kinh tế đang phát triển rất nhanh nhưng tôi khẳng định đất nước sẽ khó đi lên và không thể phát triển bền vững nếu lớp trẻ chỉ học về kinh tế, khoa học kỹ thuật mà không coi trọng học và rèn luyện đạo đức làm người… Trong xã hội người ta nói dối, ăn cắp một cách thản nhiên… Không thể có chính trị tốt mà không có đạo đức tốt…”.
Có lẽ một phần bản chất giới tính làm cho người phụ nữ hay lo xa và có khuynh hướng nhạy cảm với những vấn đề thuộc về lối sống nhiều hơn, và trầm tĩnh hơn để nhắc nhở sự thái quá của người khác. Tôi nhớ bà nguyên phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình cũng có những suy nghĩ tương tự, khi trong một bài viết cách nay chừng sáu năm đăng trên tuần báo Văn Nghệ của Hội nhà văn, bà cảnh giác rằng xã hội có xu hướng chạy theo con đường thực dụng thô thiển, coi đồng tiền là tiên là Phật, và đang có những biểu hiện vấp váp trở lại vết xe đổ của “chủ nghĩa tư bản man rợ” (ý nêu trong nguyên văn của bài viết).
Một em nữ sinh viên cũng viết bài than phiền trên mục “Bạn đọc” báo Tuổi Trẻ (25.3.2005), cho rằng ngành “nhân học” đã bị bỏ rơi: “Tôi nhớ khi tôi còn học tại một trường đại học chuyên đào tạo các ngành xã hội nhân văn, nhiều người thường tỏ ý tội nghiệp và ngạc nhiên, sao không học kinh tế để ra làm có tiền?… Ai quan niệm như thế? Chính gia đình, trường học và xã hội. Ngày nay phần đông phụ huynh chỉ tích cực cho con cái học thêm toán, lý… chứ mấy ai nghĩ đến chuyện học thêm các môn xã hội? Còn trường học vì chạy theo thành tích đã không chú trọng giáo dục nhân cách. Cuối cùng là xã hội, khi những Lục Vân Tiên không còn đất sống, khi cứ toàn ca ngợi lối sống “sành điệu”, “đẳng cấp”… thì trách sao tuổi trẻ lầm đường?”.
Không hẹn mà nên. Có những quan điểm tương tự nhau từ người cao tuổi dày dặn kinh nghiệm đến người trẻ tuổi hồn nhiên chân thật, về thực trạng của xã hội, và một khi sự suy bại đã xâm nhập đến cổng nhà trường, như tôi cũng thật sự thấy vậy khi có dịp tiếp xúc với một số anh em giáo viên trẻ thuộc thế hệ đang lên, đọc được tư tưởng và đường lối thăng tiến thực dụng của họ, thì tình trạng cũng đã không còn thảnh thơi nhẹ nhàng.
Trong khách quan nhận định, người ta thấy dường như các nhà đương cuộc cũng có lỗi với những công dân phụ nữ tiêu biểu nầy, vì với tư cách một nhà nước chuyên trị về “điều tiết kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” mà trên thực tế không rõ điều tiết ra sao, bằng phương pháp gì, để đến nỗi cho các bà đã cao tuổi rồi mà còn phải lo lắng nhiều quá cho hậu vận của đám trẻ, còn tuổi trẻ thì cũng không ngớt băn khoăn.
Nguyên do dẫn đến nỗi lo không phải chỉ có một, và cũng không phải chỉ được tạo nên trong thời gian ngắn ngủi, muốn cứu chữa chắc chắn phải mất không ít thời giờ và công sức. Nói theo cách của người xưa thì “bề tôi giết vua, con giết cha, nguyên nhân không phải một sớm một chiều, mà gốc nguồn tích tụ lại từ rất xa xôi” (thần thí kỳ quân, tử thí kỳ phụ, phi nhất triêu nhất nhật chi cố, kỳ sở do lai viễn hĩ).
Từ vài chục năm nay, sau khi thoát khỏi cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài 30 năm, đi tới đâu, từ trung ương đến cấp cơ sở, người ta cũng đều nói và nghe đến mấy chữ “phát triển kinh tế”, lần lần còn có thêm những cụm từ thông dụng khác như “đuổi kịp”, “đi tắt đón đầu”… Trong khi “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” có thể chỉ là một trong những khía cạnh nhu cầu chứ không phải toàn diện nhu cầu của một số quốc gia đang cần phát triển để thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, trở thành nguyện vọng chân thật thiết tha chính đáng của tầng lớp nghèo khổ, thì nhu cầu nầy lẽ ra phải có trước hết ở bộ phận nghèo khổ của dân tộc, lại bị một số kẻ xấu không nghèo và có chức quyền lạm dụng như một chiêu bài để tuyên truyền, tạo cái cớ và cơ sở lý luận cho những dự án, công cuộc đầu tư xây dựng phần nhiều có hiện tượng rút ruột công trình trị giá hàng ngàn tỉ đồng mỗi năm mà kết quả kinh doanh, vận hành lại rất thấp, khiến tình trạng tham nhũng ngày càng gia tăng không có thuốc chữa và khoét sâu thêm những bất bình đẳng trong xã hội.
Ngày nay, người ta ai cũng thích nói đến chuyện thành rồng, thành hổ, nên bước đi vội vã, nhưng rồng mà bay quá đà thì cũng có lúc sinh ra điều hối hận (“kháng long hữu hối”), như kinh nghiệm ở Trung Quốc hiện nay đã từng chứng tỏ. Bên cạnh mức tăng trưởng GDP đạt cao khoảng 9 % trở lên kéo dài trong nhiều năm, theo kết quả nghiên cứu phân tích của Viện khoa học xã hội Trung Quốc công bố đầu năm nay, Trung Quốc giờ đây phải đối phó và tìm cách cứu chữa cho 7 loại vấn nạn: mâu thuẫn xã hội gia tăng, phân hóa giàu nghèo có xu hướng mở rộng, giảm nghèo vẫn là nhiệm vụ nặng nề trong thế kỷ mới đối với Trung Quốc, nạn thất nghiệp gia tăng, tham nhũng gia tăng, và cuối cùng có những hạn chế về nguồn tài nguyên, năng lượng và môi trường.
Việt Nam hiện cũng đang có đủ 7 loại vấn nạn gần y như Trung Quốc, mà nếu không lo điều chỉnh cho kịp thời, tình trạng chắc chắn sẽ ngày càng trầm trọng hơn. Về hội chứng của căn bệnh phát triển vô tội vạ, có lần tôi đã mạnh dạn phát biểu trong một bài viết khác: “Thời nào cũng vậy, các tầng lớp đặc quyền cũng vịn vào hai chữ “phát triển” để lạm dụng; họ lấy cớ vì lo cho dân tộc bị thua kém thế giới mà bày ra hết kế hoạch nầy đến dự án nọ, kỳ thật chỉ là để rút rỉa chứ ít khi đạt được tính khả thi như mong muốn. Ngày nay, tạm thời bỏ qua những phần tử lạm dụng xà xẻo đất nước, trong vấn đề phát triển kinh tế-xã hội, vì mong muốn bứt phá tình trạng nghèo nàn lạc hậu mà không ít người có thiện chí trong chúng ta cũng thường quen tìm đến những giải pháp dễ dãi bằng những công thức có sẵn và được nghe nói, nhất là có khuynh hướng hô hào chạy theo những nước tiên tiến trong một tâm thái luôn luôn sợ bị tụt hậu, mà không chịu nghĩ mình làm như thế là nhằm đạt tới những mục tiêu gì xứng đáng, cho ai, có bảo đảm mang lại sự bình yên hạnh phúc cho đại đa số quần chúng hay không. Hơn thế nữa, trong điều kiện của quốc nạn tham nhũng và nhân tâm ly tán như hiện tại, mọi sự phát triển thiếu chuẩn bị về nền tảng con người thường chỉ có thể dẫn tới khả năng băng hoại ngày càng trầm trọng hơn, và trở thành cái cớ cho một số kẻ gian tham lợi dụng” (xem nguyệt san Công giáo và Dân tộc, số 105, tháng 9.2003). Đây có thể cũng là cái giá phải trả cho những thời kỳ quá độ, thời kỳ bóc lột man rợ tuy khác về hình thái nhưng có bản chất tương tự chủ nghĩa tư bản thế kỷ thứ 19, song vẫn có thể khắc phục được phần nào nếu phương thức điều tiết được thực hiện đúng dựa trên những kinh nghiệm xương máu mà nhân loại đã tổng kết được, và các định chế quốc tế vẫn thường đem ra nhắc nhở đối với một số nhà nước Châu Á.
Trong khi đó, trên thực tế ở nước ta những năm gần đây, điều tiết hầu như chỉ có nghĩa là liên tục đưa ra những chỉ thị nếu không mù quáng thì cũng thiếu tính khả thi để trở thành một đống luật pháp rối nùi chồng chéo lên nhau vượt khỏi tầm kiểm soát, khiến cho trên bảo dưới không nghe, khác nào một gã phù thủy ban đầu tài giỏi nhưng sau đã mất các phép thần thông, không còn khả năng trị được đám âm binh do chính mình tạo ra. Về điều tiết thu nhập trong dân, bộ phận thuế khóa và tài chính đã tỏ ra kém hiệu lực, một phần cũng do tình trạng tham nhũng gây ra, thành thử không thực hiện được sự tái phân lợi tức trên cơ sở công bằng, thay vào đó chỉ thấy nổi lên phương thức xóa đói giảm nghèo tuy có giá trị về phương diện nhân bản và tình người nhưng lại không phải là cách làm căn cơ bài bản theo đúng chức năng của một nhà nước phúc lợi (welfare state) nên hiệu quả cũng thường không bền vững và lâu dài. Bằng cách làm nầy, người nghèo lại có khả năng tái nghèo, và ngay trong những định chế nâng đỡ họ qua hệ thống các ngân hàng nông thôn cũng có hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, cò mồi tràn lan, khiến cho người nghèo có khi chẳng những không hết nghèo mà còn mang thêm nỗi lo nợ nần chồng chất! Nếu tính đến những con số báo cáo về kết quả thoát nghèo, do căn bệnh thành tích đã trở thành một chứng nghiện thâm căn cố đế, đôi khi cũng cần có sự kiểm chứng lại bằng những cuộc điều tra xã hội học khách quan hơn để nắm lại tình hình một cách chắc chắn nhằm định lại các phương pháp và bước đi cho thêm phù hợp.
Trong lãnh vực khoa học công nghệ và kinh doanh, các chính sách và phương thức quản lý (cũng bao hàm nghĩa điều tiết) đã tỏ ra không thích hợp, dẫn đến kết quả mà nói như giáo sư Phan Đình Diệu là rất sát thực tế: “Khá phổ biến vẫn là các cơ quan nhà nước và một số đông công chức có chút quyền thì sống bằng cách bán quyền lực, các doanh nghiệp quốc doanh sống bằng bao cấp và độc quyền, và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì do nhiều luật lệ hạn chế nên không lớn lên được, phải hối lộ để tồn tại và kiếm lãi bằng móc ngoặc, chụp giật…” (tạp chí Tia Sáng, tháng 6.2002, tr. 8). Còn về giáo dục, ngày nào Bộ cũng ra những quyết định liên tục thay đổi bằng cách lấy quyết định sau điều chỉnh quyết định trước, kết quả rất tệ ai cũng thấy rõ; ngay như chỉ có điều lệ thi cử mà từ giáo sư đến thí sinh không ai đọc hiểu, phải mở hàng trăm cuộc họp khắp nơi trên toàn quốc để triển khai, giải thích hết sức tốn kém…
Nhìn chung, phương thức điều tiết, điều hành xã hội hiện tại chủ yếu chỉ được thực hiện bằng cách đưa ra những chỉ thị liên tục bị động và thiếu tính khả thi, hoặc theo cách tự nhiên bằng khả năng tự điều chỉnh của xã hội, được phụ trợ bởi phương thức bôi trơn qua những con đường ngoằn ngoèo khác, trong đó có tham nhũng hối lộ, giữa tư nhân và một số cơ quan nhà nước, cũng như giữa một số cơ quan nhà nước với nhau. Có một số loại điều tiết phải nói là bất lợi hẳn cho người nghèo, như trong chuyện quy hoạch đất đai, phần lớn chỉ tạo siêu lợi nhuận để làm giàu thêm cho một số kẻ đặc quyền đặc lợi, khiến cho các vụ khiếu kiện và mâu thuẫn xã hội ngày một gia tăng.
Đã hơn một lần, trên nhiều bài viết khác nhau ở nhiều nơi, tôi đã đề cập đến khả năng băng hoại của xã hội trong điều kiện nền kinh tế thị trường khi chưa có sự chuẩn bị đầy đủ về nền tảng con người, nhất là khi phổ biến có không ít người tuy giàu thiện chí nhưng suy nghĩ bất cập đối với cuộc hưng suy của đất nước, vì sợ bị tụt hậu hay dựa vào cớ đó chỉ nghĩ và phát biểu một chiều về khía cạnh phát triển kinh tế mà quên nhấn mạnh đến yếu tố phát triển quân bình, phù hợp với hoàn cảnh, đặc tính văn hóa và nhu cầu riêng của mỗi dân tộc. Các chuyên gia kinh tế cũng chỉ chuyên nói về kinh tế sao cho đuổi kịp bằng người, chạy theo mô hình phát triển của những nước tiền tiến về kinh tế, mà ít khi có những suy nghiệm tổng hợp sâu xa về mặt văn hóa, lịch sử, để làm sao xây dựng được một nước Việt Nam tuy không bằng người về các chỉ tiêu kinh tế nhưng vẫn đạt được một cuộc sống bình yên và hạnh phúc trong sự chan hòa tình nhân ái giữa các thành viên trong cũng như ngoài cộng đồng dân tộc. Nói theo cách nói của nhà sư Nhất Hạnh, “Giấc mơ Việt Nam là người Việt có khả năng sống đơn giản mà hạnh phúc, có thì giờ và tình thương để làm việc giúp cho người trong nước và ngoài nước vượt thắng nghèo khổ và bệnh tật, thất học, hòa giải được với người thân và tìm được nguồn vui sống” (“Giấc mơ Việt Nam”, tạp chí Văn Hóa Phật Giáo, số 01, tháng 2.2005).
Để thực hiện được hoài bão tốt đẹp trên con đường phát triển tương lai của cả dân tộc, vai trò điều tiết của nhà nước là rất quan trọng, nhưng chỉ có nghĩa là điều tiết thu nhập trong dân bằng hệ thống phúc lợi xã hội một cách có căn cơ hơn, tạo điều kiện cho mọi người dân được sống tự do trong khuôn khổ pháp luật để mỗi người có thể phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mình. Muốn vậy phải xóa bỏ cơ chế xin-cho và mọi hình thức độc quyền, nhất là phải biết hướng dân chúng vào con đường phát triển nhân cách, biết nói không khi cần thiết trước những cám dỗ của quyền lợi đơn thuần vật chất. Trong chiều hướng đó, thiết tưởng ngày nay tuy chúng ta khó tìm được những nhà lãnh đạo triết nhân thông đạt cả chính trị lẫn nhân tình nhưng cũng có quyền hi vọng có được những người thiện chí, hiểu biết sâu một số bộ môn khoa học xã hội và có khả năng tư duy liên ngành, đánh giá đúng trước những hậu quả có thể xấu khi chúng mới phát sinh từ trong trứng nước, từ đó luôn có chính sách và hành động thích hợp, để góp phần lèo lái con thuyền quốc gia vượt qua được những cơn phong ba bão táp.
TVC (theo Trần Văn Chánh, Khủng hoảng môi trường, có phải nguy cơ hết thuốc chữa?, NXB Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 2.2020)
Tiến hóa thì cũng phải có lộ trình, thời gian chứ
Viêtusi Trần văn Chánh giúp đảng tiến hóa nhanh lên cho dân nhờ
Cái gọi là chủ nghĩa Tư bản cũng chỉ là một khái niệm do con người gắn cho một biểu hiện kinh tế xã hôi rồi thành tên gọi.Đến giai đoạn xhcn nó biến tướng hại nhiều hơn lợi- gọi nó là tư bản man rợ vì nó thoát thai từ tầng lớp dưới đáy của xã hội ngoi lên thượng tầng xã hội mang trên mình đầy rác rưỡi cặn bã ,có thể tạo cho nó một tên khác như tầng lớp trọc phú, khủng lòng bạo chúa,v.v.cũng chả sao!
Trích “Bà nguyên phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình… cảnh giác rằng xã hội có xu hướng chạy theo con đường thực dụng thô thiển, coi đồng tiền là tiên là Phật, và đang có những biểu hiện vấp váp trở lại vết xe đổ của “chủ nghĩa tư bản man rợ”.
“CN tư bản man rợ” sinh ta từ “CM công nghiệp lần thứ nhất” cách đây hơn 200 năm, nhưng nó chỉ là thứ “chủ nghĩa” của những tên tư bản cá biệt ở phương Tây.
“CN tư bản man rợ” ấy “man rợ” nhất, được phát triển có tầm cỡ quốc gia, là chỉ ở những nước Độc tài theo đuổi “Chủ nghĩa tư bản nhà nước” như ở Trung quốc, Việt Nam!
Nó “man rợ”, “không có yếu tố con người”(từ dùng của tác gỉả, gọi thẳng ra là VÔ NHÂN ĐẠO), vỉ chúng không những độc quyền sở hữu tư bản, công cụ sản suất, mà chúng độc quyền sở hưũ người lao động, giống như sở hữu nô lê, theo giõi suy nghĩ, chính kiến của từng cá nhân cho đến cả xã hội.
Chừng nào VN vẫn còn lũ Tư bản mang danh “cộng sản” ấy “độc tài lãnh đạo đất nước”, vẫn không có các “tổ chức xhds” được tư do thành lập – đừng mong xã hội VN bớt bất công, khốn nạn, vô cảm! VÔ ích!