27-7-2019
TQ cho tàu địa chất hoạt động thăm dò địa chấn bãi trầm tích Tư Chính-Vũng mây, thuộc hải phận Kinh tế độc quyền (Zone Economique Exclusive – 200 hải lý tính từ đường cơ bản) của VN liên tục đến nay đã sang tuần lễ thứ tư. Bãi này TQ đặt tên là Vạn An Bắc, bao gồm các lô 133, 134, 135, 136, 157, 158, 159 trên “bản đồ dầu khí” của VN. Đồng thời với việc thăm dò địa chấn, TQ cho tàu hải cảnh quấy rối sinh hoạt khai thác tại lô 6.1 thuộc bãi trầm tích Nam Côn sơn, do tập đoàn dầu khí Rosneft của Nga hiện đang khai thác. Nguyên nhân vụ “quấy rối” được (tờ báo SCMP – Hoa nam buổi sáng) cho biết là VN tiếp tục gia hạn giấy phép khai thác cho tập đoàn Rosneft ở lô 6.1.
Nếu vấn đề “Vạn An Bắc” TQ đã gây sự từ năm 1992, thì vụ quấy rối lô 6.1 chỉ mới đây. Lô này hiện do công ty dầu khí lớn nhứt nước Nga là Rosneft khai thác (và phát triển) từ năm 2013 với 3 mỏ Lan Tây, Lan đỏ và 5.3. Trước đó lô 6.1 do BP khai thác, từ 2003 đến 2010 (BP rút lui do sức ép kinh tế của TQ).
Lô 6.1 nằm ngoài khu vực Vạn An Bắc, thuộc bãi trầm tích Nam Côn sơn. Theo tin tức từ BBC (24 tháng 8 năm 2017) thì lô 6.1 cũng có mặt của Ấn Độ với tỉ lệ đầu tư là 45%. Lô 6.1 hoàn toàn nằm trong thềm lục địa tự nhiên (và pháp lý) của VN. Ngay cả khi đặt giả thuyết đảo Côn sơn không đủ tiêu chuẩn “đảo” theo điều 121 UNCLOS và Hòn hải (thuộc cụm đảo Phú quí) không có tiêu chuẩn để lấy làm “điểm cơ bản”, thì lô 6.1 vẫn nằm trong vòng 200 hải lý, tính từ bờ biển VN (Trà Vinh hay Phan thiết). Ghi lại các chi tiết này để thấy mọi yêu sách của TQ chống lại VN tại lô 6.1 là ngang ngược, phi lý.
TQ có ý đồ gì qua các hành động này?
Thứ nhứt, TQ muốn thăm dò thái độ của lãnh đạo VN. TBT kiêm chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng “nghỉ bệnh” từ đầu tháng 5, tạo ra một “khoảng trống quyền lực” trong hệ thống quyền lực đảng và nhà nước VN.
TQ cho tàu thăm dò địa chấn ở bãi trầm tích Tư Chính (và tàu hải cảnh cản trở việc khai thác ở lô 6.1) trong lúc Bà Nguyễn Thị Kim Ngân chủ tịch quốc hội đang có chuyến thăm viếng chính thức Bắc Kinh. Bà Ngân được cho là có khả năng thay thế ông Trọng ở ghế Chủ tịch nước. Cho đến khi chuyến thăm viếng kết thúc, ngoài “tuyên bố chung” nội dung cho thấy bà Ngân ưu tư đến “đại cục” và “sự lãnh đạo lâu dài và bền vững của đảng”.
Ta không thấy lời nào của bà Ngân về việc TQ xâm phạm chủ quyền và lợi ích quốc gia. Trong nước thì ông thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc giữ thái độ im lặng, có lẽ để “giữ đại cục”, mặc dầu ông là người được cho là ứng cử viên sáng giá chức tổng bí thư thay thế ông Trọng. Bộ Ngoại giao VN, tuy có chậm trễ một chút, nhưng cũng đã làm tất cả những gì có thể làm được, như phát ngôn nhân liên tục lên tiếng phản đối, gởi công hàm đồng thời yêu cầu các quốc gia quan tâm đến hành vi ngang ngược, gây hấn của TQ.
Qua các phản ứng này TQ có thể “giản lược” để thấy đâu là “bạn”, đâu là “thù” trong đội ngũ những người tự cho là “vừa đồng chí vừa là anh em” với đảng CSTQ.
Thứ hai, ý đồ của Tập Cận Bình khẳng định sự hữu dụng của việc xây dựng 7 đảo nhân tạo. Những chiếc tàu hải cảnh quấy rối VN đều có ghé qua các đảo Chữ Thập và Subi để lấy nhiên liệu.
Tờ SCMP (Hoa nam buổi sáng) hôm đầu tháng có bài viết nội dung trích dẫn ý kiến của khoa học gia TQ, cho rằng TQ đã không nghiên cứu kỹ về địa chất và thời tiết khi xây dựng các đảo nhân tạo. Kiến trúc bằng bê tông ở các đảo này bị hư hỏng sau 3 năm (do tia tử ngoại) và khí tài bằng kim khí bị rỉ sét (vì nước biển) sau 1 năm. Riêng năm 2014 TQ đã phải chi phí 300 tỉ đô la, tương đương 3% GDP cho việc bảo trì gây ra từ việc rỉ sét (tàu bè, súng đạn, máy móc…).
Nếu các con số này là “sự thật” thì chi phí bảo trì cho các đảo nhân tạo cực kỳ lớn. Các đảo thay vì là các “tiền đồn trên biển” của TQ nhằm mục đích khẳng định chủ quyền thì trở thành những “cục nợ” mà Tập Cận Bình là thủ phạm.
Điều này khiến cho các hành vi quấy rối VN của TQ sẽ trở nên lâu dài và thường xuyên. Tập Cận Bình không chỉ muốn chứng minh cho phe chống đối thấy rằng các đảo nhân tạo hỗ trợ đắc lực cho tàu hải cảnh cản trở công tác khai thác ở lô 6.1, hay các tàu thăm dò địa chấn ở bãi trầm tích Tư chính (như đã thấy). Mà về lâu về dài, các vị trí quân sự đóng ở các đảo này sẽ can thiệp nhanh chóng để bảo vệ (trong tương lai) các giàn khoan của TQ hoạt động trong khu vực.
Thứ ba, hoạt động quấy rối lô 6.1 và thăm dò địa chấn bãi Tư chính xảy ra sau khi quân lực TQ tập trận bằng đạn thật vào tháng 6 ở vùng biển bắc Trường sa. Tin từ các nguồn nước ngoài cho biết TQ đã phóng thành công loại hỏa tiễn “chống tiếp cận, chống hạm” đời mới, từ các đảo nhân tạo mà TQ mới xây dựng. Sau đó TQ đính chính rằng các hỏa tiễn được phóng từ đất liền. Tuần rồi lại có tin tức 24 chiến đấu cơ Su-35 của TQ đưa thêm về Trạm giang, một căn cứ thuộc Quảng Đông phụ trách Biển Đông. Đội Su-35 này đã hoạt động thực tập “phối hợp chiến đấu” với các lực lượng trên bộ, dưới biển ở Biển Đông. Báo chí cũng đưa tin Nga chuẩn bị hoàn tất việc chuyển giao trung đoàn phòng không S 400 thứ hai cho TQ.
Các việc này xảy ra đối xứng với tình hình căng thẳng địa chiến lược ở vịnh Ba tư (nay được gọi với tên chung chung là vùng Vịnh).
Tháng năm năm 2018 TT Trump đơn phương rút khỏi Thỏa ước Vienne về giới hạn sản xuất chất phân nhân dùng cho quân sự, ký kết năm 2013 giữa Iran với 5 đại cường Mỹ, Nga, TQ, Anh, Pháp và Đức (và EU). Theo đó Iran cam kết giới hạn “làm giàu” chất urani dưới 3,5% nhằm phục vụ cho năng lượng nguyên tử dân sự (phẩm chất uranium phục vụ cho quân sự tinh luyện trên 90%).
Sau một tuyên bố của thủ tướng Do thái ông Netanyau vào đầu tháng năm, Iran không tôn trọng thỏa ước. TT Trump đơn phương rút khỏi thỏa ước cuối tháng, mặc dầu nhân viên thuộc Ủy ban quốc tế kiểm soát năng lượng nguyên tử thuộc LHQ không tìm ra chứng cớ nào. TT Trump đơn phương “cấm vận” khắc khe Iran trên các vấn đề xuất khẩu dầu hỏa và việc sử dụng đồng tiền đô la. Hành vi này được xem là có mục đích “làm khó” TQ. 30% năng lượng của TQ đến từ khu vực vùng Vịnh.
TQ qua các việc làm căng thẳng eo biển Đài loan và khuấy động việc tranh chấp tài nguyên với VN dĩ nhiên có mục đính gia tăng áp lực địa chiến lược lên Mỹ để đối trọng với căng thẳng Mỹ-Iran. TQ muốn thăm dò phản ứng của Mỹ để biết quyết tâm chiến lược của Mỹ như thế nào (ở hai điểm nóng) để có thái độ thích ứng với cuộc thương chiến Mỹ-TQ.
Sơ kết lại, với tình hình TT Trump chủ trương “cô lập chủ nghĩa”, không muốn can dự vào những tranh chấp về chiến lược, mà chỉ muốn “làm kinh tế”. Ta thấy có khả năng TQ cho kéo dài việc quấy rối, mục đích để chứng minh quyết định xây dựng 7 đảo nhân tạo của Tập Cận Bình là hữu dụng. Ta không loại trừ TQ sẽ sớm cho giàn khoan khai thác các vùng trầm tích này (bãi trầm tích Tư chính và lô 6.1).
Ta cũng không loại trừ khả năng TQ ra tuyên bố Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên Biển Đông. Việc phóng thành công hỏa tiễn “chống hạm, chống tiếp cận” và các “trung đoàn phòng không S400” sẽ răn đe mọi lực lượng không quân, hải quân của Mỹ (và Anh, Pháp, Ấn, Úc, Nhật…) lai vãng trên Biển Đông.
Ta cũng không loại trừ, nếu TT Trump, vì các yêu cầu của Do Thái và bị chỉ trích thụ động, có thể thay đổi ý định và tấn công Iran. TQ sẽ tấn công Đài loan và các đảo của VN ở Trường Sa.