Tác giả: Vương Đan (*)
Dịch giả: Bùi Xuân Bách
1-6-2019
Tôi đã trả một giá quá đắt cho việc biểu tình ba chục năm trước. Nước Trung Hoa cũng vậy.
Tôi được biết rằng, mình là kẻ tội phạm bị truy nã gắt gao nhất trên toàn quốc, trong khi đang cắt tóc trên một con tầu hơi nước cũ rích, đầy người, chạy trên sông Dương Tử. Hệ thống loa phóng thanh công cộng trên tầu đang oang oang thông báo rằng, Văn phòng Công an Bắc Kinh đã công bố lệnh bắt 21 sinh viên phạm tội xúi giục “các cuộc bạo loạn phản cách mạng” trên quảng trường Thiên An Môn. Tên tôi đứng đầu bảng danh sách.
Đó là tháng Sáu năm 1989, chín ngày sau khi quân đội cùng xe thiết giáp đã tràn vào trung tâm Bắc Kinh và đè bẹp dã man các cuộc biểu tình đòi dân chủ do sinh viên dẫn dắt, kéo dài bảy tuần.
Thông báo trên loa đã làm tôi chấn động. Là một trong những người tổ chức chính của cuộc biểu tình, tôi đang trốn chạy chính quyền ở Thủ đô. Tôi không ngờ rằng, cuộc khủng bố của Bắc Kinh đã đi quá xa như vậy.
Mọi chuyện bắt đầu vào buổi tối ngày 17 tháng 4 năm 1989, khi sinh viên Bắc Đại (Viện đại học Bắc Kinh) tụ tập để tưởng niệm Hồ Diệu Bang (vừa mất hai ngày trước đó). Ông là cựu Tổng Bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc, nhưng bị gạt ra vì ủng hộ cải cách theo kiểu phương Tây. Vài bạn cùng lớp còn khích lệ tôi phát biểu một bài, bởi vì tôi đã tổ chức “Sa lông dân chủ” từ hồi học năm thứ nhất.
Trong khi tôi bắt đầu nói về những vấn đề đất nước đang phải đối mặt, mọi ức chế trong tôi dần biến mất. Tôi gợi ý rằng, chúng ta sẽ tuần hành 10 dặm tới quảng trường Thiên An Môn nhân cái chết của Hồ Diệu Bang, để phản đối sự tham nhũng trong Chính phủ và đẩy mạnh cải cách dân chủ.
Hàng trăm người trong số chúng tôi rời trường khi đêm đã muộn và chiếm quảng trường Thiên An Môn. Sinh viên từ các trường Đại học khác cũng tham gia cùng, và sau này, còn có nhiều người khác nữa trong đủ mọi tầng lớp của Bắc Kinh. Vào lúc mà xã hội Trung Hoa đang chuyển mình từ thời đại của Mao, phong trào đã mang lại hy vọng cho nhân dân, những người khao khát đổi thay. Cuộc biểu tình phản đối đã lan rộng sang các thành phố khác.
Trong thời gian biểu tình ngồi, tôi được bầu vào ban lãnh đạo Liên đoàn sinh viên tự trị Bắc Kinh, được thành lập nhằm tiến hành đối thoại với Chính phủ. Các lãnh đạo cao cấp đã khước từ những đòi hỏi của chúng tôi, và họ đã tuyên bố tình trạng thiết quân luật, khi cho rằng, cuộc biểu tình của chúng tôi có thể làm tổn hại sự lãnh đạo của Đảng. Quân đội bao vây chặt Thủ đô.
Ngày mùng 3 tháng 6, sau khi đề nghị rút lui khỏi quảng trường của tôi bị các lãnh đạo sinh viên khác phản đối, tôi trở về ký túc xá của mình để nghỉ ngơi. Khuya đêm hôm đó, các bạn đã gọi điên thoại cho tôi, thông báo rằng, binh lính đã bắn vào người biểu tình, và tôi bị rơi vào tình trạng sốc nặng. Chúng tôi không thể tin được rằng, lãnh đạo Đảng lại có thể sử dụng bạo lực, bởi vì chúng tôi chỉ yêu cầu Đảng Cộng sản tự hoàn thiện mình, chứ không phải là chuyển giao quyền lực.
Trong những tuần trốn tránh sau đó, tôi thấy trên TV các bạn hoạt động cùng tôi đã lần lượt bị bắt từng người một. Tôi quyết định trở về Bắc Kinh, dù biết rằng, chính tôi cũng có thể bị bắt. Ngày mùng 2 tháng 7 công an đã tìm ra và bắt được tôi sau một cuộc săn đuổi bằng xe ô tô. “Đã bắt được Tiểu Vương!”, một sĩ quan cảnh sát đã phấn khởi gọi điện thoại báo tin cho sếp.
Tôi đã phải ngồi tù ba năm và bảy tháng. Trái tim tôi thường chất chứa cảm giác tội lỗi và đau khổ. Một con số lớn sinh viên và cư dân Bắc Kinh đã bị chết trong cuộc đàn áp đẫm máu. Tôi cảm thấy có một phần trách nhiệm của mình.
Năm 1993, khi Trung Quốc lần đầu tiên xin đăng cai Thế vận hội Olympics, tôi được thả ra như một biểu hiện nới lỏng về đàn áp chính trị. Tôi bị bắt lại hai năm sau đó, và bị kết án 11 năm tù, vì đã tham gia ủng hộ các tù nhân chính trị và ký Thỉnh nguyện thư đòi Chính phủ phải xin lỗi vì cuộc tàn sát Thiên An Môn. Rồi tôi lại được thả ra trước thời hạn, năm 1998, vào một thời điểm tan băng chính trị, ngay sát trước cuộc viếng thăm Trung Quốc của Tổng thống Bill Clinton. Sau đó, tôi đã đến được nước Mỹ, và cũng từ đó, tôi bị cấm cửa, không được phép trở lại quê hương mình.
30 năm trước, phong trào của chúng tôi đã thất bại, bởi vì chúng tôi thiếu sự ủng hộ và kinh nghiệm trong việc thúc đẩy những thay đổi dân chủ. Nhiều người trong chúng tôi đã gắn liền hy vọng của mình vào phái tự do trong ban lãnh đạo Đảng Cộng sản, nhằm kích hoạt những thay đổi từ bên trong hệ thống, song chúng tôi đã đánh giá thấp quyền lực của những cán bộ lão thành trong Đảng. Cuộc tàn sát đã đập tan ảo tưởng của chúng tôi, giúp chúng tôi thấy rõ sự tàn bạo của chế độ độc đảng Trung Hoa.
Sinh viên chúng tôi không chỉ là những người ngây thơ. Chỉ trong vòng vài năm sau cuộc thảm sát, nhiều chính phủ Tây phương đã bãi bỏ những chế tài đối với Trung Quốc. Chính sách tương tác của phương Tây – dựa trên hy vọng rằng, thương mại và đầu tư sẽ đem lại những thay đổi dân chủ ở Trung Quốc – đã thắng thế.
Song thay vì cổ vũ tự do hóa, tư bản phương Tây đã vỗ béo túi tham của các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản, cho họ sức mạnh để kéo dài sự cai trị bằng cách vô hiệu hóa những người bất đồng chính kiến trong nước và mở rộng ảnh hưởng quốc gia trên toàn cầu.
Mặc dù thất bại, tôi tin rằng, chúng tôi, những người biểu tình, đã tạo ra một sự khác biệt. CNN đã tường thuật trực tiếp về những gì đã xảy ra ở Quảng trường Thiên An Môn, và chính phủ Trung Quốc nhận ra rằng, họ không còn có thể tàn sát công dân của mình khi cả thế giới đang theo dõi. Chúng tôi nâng cao nhận thức của công chúng về dân chủ; nhiều luật sư và các nhà hoạt động nhân quyền đã thách thức tính hợp pháp của Đảng Cộng sản trong nhiều năm, kể từ khi vụ thảm sát, là những người tham gia hoặc ủng hộ phong trào năm 1989. Và ngày nay, phương Tây cuối cùng đã nhận ra sự nguy hiểm của chế độ toàn trị Trung Quốc.
Mong ước của tôi muốn mang lại nền dân chủ cho Trung Quốc, dường như một giấc mơ xa xôi, vẫn còn mạnh mẽ. Chính phủ Trung Quốc đã tẩy xóa cuộc thảm sát Thiên An Môn ra khỏi sách lịch sử của họ. Bất kỳ sự đề cập nào đến nó trên phương tiện truyền thông xã hội đều được coi là hành vi lật đổ. Tuy nhiên, tôi cố gắng tiếp xúc với những người trẻ tuổi hơn, chia sẻ kinh nghiệm của mình và giữ cho những kỷ niệm không tàn phai.
Giới trẻ ở Trung Quốc ngày nay, họ gần như tất cả đều lớn lên trong gia đình một con, thực dụng hơn chúng tôi vào những năm 1980. Và bất chấp việc tẩy não của chính phủ, họ biết cách sử dụng công nghệ và thu thập thông tin từ bên ngoài. Họ hiểu về phương Tây nhiều hơn chúng tôi trước kia. Không giống như những sinh viên thuộc thế hệ tôi, những người đã đặt hy vọng sai lầm vào đảng, các bạn trẻ ngày nay không còn cả tin và rất thực tế. Một khi cơ hội đến, họ sẽ đứng dậy như chúng tôi đã làm 30 năm trước.
Khi cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung bùng nổ, tôi thấy một cơ hội lớn lao để biến cải cách chính trị thành một phần của các cuộc đàm phán. Vào những năm 1990, Washington gắn nhân quyền với việc trao cho Trung Quốc quy chế tối huệ quốc. Trước áp lực đó chính phủ Trung Quốc đã nới lỏng sự kiểm soát chính trị và thả tôi cùng một số nhà bất đồng chính kiến khác. Song một khi thương mại và nhân quyền bị tách rời, tình hình ở đó xấu đi nghiêm trọng.
Ngày nay, những người bất đồng chính kiến đang bị cầm tù và buộc phải nhận tội trên truyền hình cả nước. Chính phủ theo dõi và kiểm duyệt quan điểm chính trị của sinh viên học tập ở nước ngoài.
Thật tai quái, lập trường cứng rắn của Tổng thống Trump đối với Bắc Kinh, mặc dù không thể tiên đoán được, đang tỏ ra hiệu quả. Thông qua cuộc chiến thương mại này, tôi hy vọng Washington sẽ cho lãnh đạo Trung Quốc thấy rằng, phương Tây sẽ không dung thứ cho việc sử dụng công nghệ để do thám và kiểm soát công dân bình thường.
Ba mươi năm trước, một phong trào ngắn ngủi đã đưa tôi ra mắt công chúng, biến tôi từ một sinh viên lịch sử, mọt sách và nhút nhát, thành một nhà lãnh đạo đam mê và lý tưởng của vài triệu người biểu tình. Vì điều đó, tôi đã trả một giá quá đắt. Ngoài việc phải trải qua một phần tuổi trẻ tươi đẹp của mình trong tù, tôi không được phép trở về quê hương, nơi cha mẹ già yếu của tôi đang sống. Tuy nhiên, dù đau đớn như vậy, tôi không hối tiếc với sự lựa chọn của mình.
Tác giả: Vương Đan là lãnh tụ sinh viên trong thời gian biểu tình tại quảng trường Thiên An Môn.