19-5-2019
Nếu “qui thành phần”, kiểu phân loại các tầng lớp xã hội khi tiến hành “cuộc cách mạng quan hệ sản xuất”, thì công ty Tân Thuận sẽ thuộc thành phần gì và hình thức cải tạo sẽ như thế nào?
Đó là một câu hỏi nghiêm túc.
Bởi vì xoá bỏ áp bức, bóc lột cũng chính là một động cơ chính yếu làm nên “địa vị lịch sử” của “chúng ta” hôm nay.
Các cuộc đấu tố và cải tạo công thương nghiệp khốc liệt trước đây nhằm xoá bỏ quan hệ sản xuất bóc lột ấy. Mà còn phải xoá bỏ tận gốc rễ nạn bóc lột, áp bức nữa, nên quyền tư hữu đất đai bị xoá bỏ.
Công cuộc đổi mới đã giúp chúng ta nhận thức động lực chính yếu của phát triển là khu vực kinh tế được bảo đảm bằng quyền tư hữu. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trong phát biểu ở các cuộc họp chuẩn bị cho đại hội đảng gần đây thường xuyên nêu góc nhìn này.
Nhưng huyệt vị của kinh mạch phát triển đó, quyền tư hữu đất đai, chúng ta vẫn nhất quyết không thừa nhận.
Thực tế chúng ta quản lí toàn bộ toàn bộ đất đai của quốc gia như những chiến lợi phẩm.
Trong đó, có phần thuộc sở hữu của chính quyền cũ đã bị tịch thu, có phần là của các tổ chức cá nhân nhưng thuộc thành phần “bóc lột” sử dụng phục vụ chiến tranh hoặc “giai cấp áp bức bóc lột” được quốc hữu hoá sau chiến tranh, mà chủ yếu là qua ba đợt cải tạo công thương nghiệp.
Một phần là của những người đi vượt biên bị tịch thu hoặc trở thành tài sản vắng chủ.
Nhưng một phần lớn là ruộng đất đang phục vụ sản xuất nông nghiệp vốn là tài sản tư, biến thành tài sản toàn dân sau khi chúng ta “nhất thể hoá” chế độ sở hữu đất đai thành sỏ hữu toàn dân.
Từ địa vị những ông chủ thật của mảnh ruộng, miếng vườn nhà mình, người nông dân đã bị chúng ta bắt buộc phải uỷ quyền cho chính quyền các cấp làm nhiệm vụ ông chủ toàn quyền định đoạt thay mình.
Mà ông chủ được uỷ quyền ấy, theo từng nhiệm kì được cử ra, lại có thể dễ dàng biến từ vài trăm mét vuông đến hàng ngàn ha đất đai tích tụ vào tay những ông chủ tư mới với tên gọi dự án qui hoạch, khi thì khu dân cư, lúc thì khu công nghiệp.
Người ta lí luận từ một hiện vật trở thành một hàng hoá có giá, đất đai được chuyển đổi từ cơ chế quản lí bao cấp sang cơ chế thị trường. Phần giá trị gia tăng của đất đai trong cơ chế thị trường chính là lợi nhuận của những ông chủ mới. Đó là một thứ lợi nhuận siêu ngạch qua chênh lệch địa tô theo lí luận kinh điển về bóc lột.
Trong trường hợp của công ty Tân Thuận, chênh lệch địa tô đó, hay phần lợi nhuận bóc lột đó, có được chỉ từ một sự cho phép của thành uỷ, vừa hành xử quyền lực chính quyền, vừa là ông chủ công ty.
Cán bộ của đảng được giao trách nhiệm kinh doanh chỉ cần biết “cửa” theo đuổi để xin được chính quyền giao thực hiện dự án qui hoạch ấy, được rồi thì sang nhượng dự án ấy theo một thoả thuận đủ để nhà đầu tư tiếp theo có lợi nhuận hấp dẫn.
Cán bộ kinh doanh của đảng còn được ghi nhận tài năng ở chỗ xin phép cổ phần hoá phần vốn của đảng, mà thực ra là của dân, để phân phối lại cơ hội phân chia tỉ suất lợi nhuận siêu ngạch ấy, kể cả cho những người “có công” với sự phát triển của công ty.
Đất đai của người dân đi theo vòng quay của phương thức bóc lột, yêu nghiệt thay, lại tạo ra trong lòng xã hội một tầng lớp bóc lột có khi còn tham tàn hơn cả giai cấp bóc lột đã bị đánh đổ.
Nếu đó là sơ đồ làm giàu ở trường hợp công ty Tân Thuận thì quả là chúng ta dìu cả bọn bóc lột vô cấp uỷ, thậm chí trở thành cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược, lãnh đạo công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.
Hẳn không ai muốn quay lại cuộc đấu tranh giai cấp oan khiên, chia rẻ, mất mát, ly tán thậm chí đổ máu.
Nhưng đảng, các cấp uỷ có nhìn thấy trớ trêu này và sẽ giải quyết ra sao?
Đảng đổi mới lý luận hay thay đổi lý tưởng?
Ngay cả khi có sự đổi mới về lý tưởng, đảng cũng phải xử lí thực tế, chúng ta đã gô quyền tư hữu đất đai của nhân dân vào cái rọ sở hữu toàn dân rồi để nhà nước hành xử như một chiến lợi phẩm của chế độ mới.
Kiểm điểm xử lí những sai phạm ở công ty Tân Thuận đến nơi đến chốn là phải làm rõ những nội dung này trong đường lối của đảng, mà đại hội các cấp của đảng sẽ phải hoạch định.