BTV Tiếng Dân
Ngoài thực địa
Một báo cáo của chính phủ Philippines mà AP có được cho thấy, trong nửa cuối năm ngoái, máy bay quân sự Philippines đã nhận được cảnh báo của Trung Quốc qua radio ít nhất 46 lần trong khi đang bay tuần tra gần các đảo nhân tạo do Trung Quốc xây dựng trên quần đảo Trường Sa ở Biển Đông.
Các quan chức Philippines đã hai lần nêu lên mối lo ngại về những cảnh báo này, kể cả trong một cuộc họp với những người đồng sự Trung Quốc tại Manila hồi đầu năm nay về vấn đề Biển Đông, theo hai quan chức giấu tên vì họ không được phép thảo luận vấn đề một cách công khai.
Trong những năm trước, những cảnh báo này thường bắt nguồn từ các tàu cảnh sát biển của Trung Quốc. Nhưng các quan chức quân sự nghi ngờ hiện nay việc phát thanh được truyền đi từ các đảo nhân tạo mà Trung Quốc đang chiếm đóng, nơi đã lắp đặt các thiết bị giám sát và truyền thông mạnh hơn cùng với các vũ khí như hệ thống tên lửa đất đối không.
“Tàu và máy bay của chúng tôi đã quan sát thấy sự gia tăng các truy vấn qua radio bắt nguồn từ các cơ sở mới đặt trên các vùng đất ở Biển Đông“, Tư lệnh Clay Doss, viên chức công vụ của Hạm đội 7 Hoa Kỳ, trả lời AP qua email.
Hôm 30 tháng 7, truyền thông đưa tin Trung Quốc lần đầu tiên triển khai một tàu tìm kiếm cứu hộ Nan Hai Jiu 115 neo đậu lâu dài tại bãi Xubi thuộc quần đảo Trường Sa trên Biển Đông. Nan Hai Jiu 115 là tàu tìm kiếm cứu hộ có khả năng triển khai trực thăng cứu hộ tầm trung.
Một giới chức Bộ Giao thông Vận tải, ông Du Haipeng nói với Tân Hoa Xã rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục đóng các tàu cứu hộ lớn với phạm vi hoạt động xa hơn và được trang bị các công nghệ tiên tiến hơn. Ông Haipeng nói thêm rằng, Bắc Kinh cũng sẽ triển khai các trực thăng với khả năng tìm kiếm cứu hộ tốt hơn và nhanh hơn.
Theo Giáo sư Carl Thayer, Trung Quốc triển khai tàu tìm kiếm và cứu hộ Nan Hai Jiu 115 vừa là một biện pháp thực tế để hỗ trợ ngư dân – chủ yếu là người Trung Quốc – gặp nạn, vừa để nhằm mục đích chứng minh rằng Trung Quốc có quyền tài phán chủ quyền trên vùng biển xung quanh.
Ông Carl Thayer cũng cho biết, trong Văn Bản Đàm Phán Dự Thảo COC Duy Nhất, có 4 bản đề xuất của Philippines, Indonesia và Singapore, Trung Quốc, và Campuchia đều ủng hộ hợp tác tìm kiếm và cứu nạn trên biển. Và đáng chú ý là Trung Quốc nhiệt tình nhất trong đề xuất này.
Cụ thể, đề xuất của Trung Quốc ghi rằng: “An toàn hải hành và hoạt động tìm kiếm – cứu hộ. Các bên sẽ tăng cường hợp tác về an toàn hải hành… Các bên sẽ tăng cường hợp tác tìm kiếm và cứu nạn trên biển, xây dựng các hệ thống thông tin và truyền thông để cung cấp các dịch vụ tìm kiếm và cứu hộ tốt cho những người gặp nguy hiểm trên biển”.
Còn theo một số chuyên gia khác, việc triển khai tàu tìm kiếm và cứu hộ chỉ nhằm để giảm nhiệt, một nỗ lực nhằm tạo ra một vỏ bọc thân thiện phủ bên ngoài những gì rõ ràng là quân sự hoá. Nó giống như “một sự tẩy não”, Jonathan Spangler, giám đốc Viện tư vấn chính sách Biển Đông (South China Sea Think Tank) ở Đài Bắc nhận xét.
Các nhà hoạch định chính sách Philippines cũng có thể nghi ngờ hành động này của Trung Quốc, theo giáo sư ngành khoa học chính trị Ela Atienza ở Đại học Philippines Ela Atienza. Bởi lẽ, (Trung Quốc) “đã không đóng một vai trò như vậy trong những lần thiên tai gần đây trong khu vực cần đến các hoạt động cứu hộ”.
Atienza nhắc lại sự thiếu vắng giúp đỡ của Trung Quốc trong đợt bão Yolanda, đã cướp đi 6000 sinh mạng Philippines vào năm 2013.
Philippines bắt đầu đẩy mạnh cải tạo đảo
Ngày 14 tháng 8 vừa rồi, truyền thông Philippines đưa tin, ông Delfin Lorenzana, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines cho biết việc sửa chữa đường bay ở đảo Thị Tứ, nơi Philippines đang chiếm đóng, sẽ được hoàn tất vào cuối năm sau. Việc sửa chữa đường băng đã bị hư hỏng trầm trọng này đã bị đình trệ trong một thời gian dài vì lo ngại sẽ khiến Trung Quốc không vui.
Lorenzana cũng cho biết các đoạn đường nối bãi biển đang được xây dựng và có thể hoàn thành vào cuối năm, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các tàu vận chuyển vật liệu xây dựng cho đường băng sau này.
Học giả Việt Nam nói về lập trường của Việt Nam trong giải quyết tranh chấp Biển Đông
Đó là “kiên trì đàm phán,” theo như trình bày của ông Đỗ Thanh Hải đến từ Học viện Ngoại giao Việt Nam tại Hội nghị Biển Đông thường niên lần thứ 8 do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) tổ chức vào cuối tháng Bảy vừa qua ở Washington, VOA tường thuật lại.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, Hà Nội không gạt sang một bên biện pháp pháp lý giống như Manila đã từng kiện Bắc Kinh ra Tòa trọng tài thường trực (PCA) hồi năm 2014. Ông Hải cho biết Hà Nội ủng hộ vụ kiện của Manila và bảo lưu quyền của mình sử dụng biện pháp pháp lý tương tự.
Hà Nội theo đuổi giải pháp “công bằng, lâu dài và chấp nhận được” và xem đó là con đường để bảo đảm hòa bình và an ninh trong khu vực.
Trong khi chờ đợi có được giải pháp lâu dài đó, Việt Nam cũng sẵn sàng chấp nhận những giải pháp tạm thời nhưng “thỏa đáng”, ông Hải nói và nhấn mạnh nguyên tắc “thỏa đáng”.
Giải pháp tạm thời này bao gồm hợp tác trên những vấn đề không nhạy cảm như tìm kiếm, cứu nạn, hỗ trợ nhân đạo và bảo vệ môi trường và hợp tác cùng khai thác.
Riêng trên vấn đề hợp tác cùng khai thác (dầu khí), ông Hải nhấn mạnh rằng, Việt Nam không hợp tác cùng khai thác ở những vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam mà chỉ ở những vùng biển có chủ quyền chồng lấn. Ngoài ra, Hà Nội chỉ hợp tác cùng khai thác sau khi dùng luật pháp quốc tế xác định rõ ràng vùng biển nào có chủ quyền chồng lấn.
Nguyên tắc cơ bản của Việt Nam khi theo đuổi con đường đàm phán cũng như giải pháp tạm thời, theo ông Hải, là bám theo luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Quốc tế về Luật Biển UNCLOS 1982, còn những yếu tố khác chỉ mang tính bổ sung và chỉ có giá trị tham vấn. Điều này trái với lập trường của Trung Quốc là ‘chủ quyền lịch sử’ đối với Biển Đông vốn không có căn cứ trên luật pháp quốc tế.
Tuy nhiên, theo ông Hải những trở ngại đối với việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông một cách hòa bình là: thiếu trách nhiệm và thiếu thiện chí, mưu cầu bá quyền thông qua việc quân sự hóa để tạo “sự đã rồi”, khăng khăng đòi hợp tác cùng khai thác không đúng nơi, không đúng trình tự (trước khi có phân định biên giới rõ ràng) và tuyên bố chủ quyền phi pháp (đường chín đoạn và đòi hỏi vùng biển tối đa cho những thực thể không đủ điều kiện theo luật quốc tế).
Đàm phán giữa các bên liên quan theo luật pháp quốc tế hay tham khảo kinh nghiệm nhờ trọng tài phán xử từ các tranh chấp chủ quyền khác trên thế giới là những giải pháp giúp giải quyết tranh chấp Biển Đông một cách hòa bình phù hợp với nguyện vọng của tất cả các bên, theo ý kiến của các học giả đưa ra tại hội thảo.
Xem thêm: Toàn bộ nội dung Hội thảo Biển Đông của CSIS.