Một Thông tư vô tình tiếp tay cho tham nhũng

FB Hoàng Hải Vân

22-5-2018

Ảnh: internet

Đó là trường hợp của Thông tư 02/2011/TT-NHNN ngày 3-3-2011 của Ngân hàng nhà nước quy định mức lãi suất huy động tối đa bằng đồng Việt Nam (lãi suất tiền gửi; lãi suất chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và trái phiếu) của các tổ chức (trừ tổ chức tín dụng) và cá nhân bao gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức không vượt quá 14%/năm.

Nhiều vụ án, trong đó có vụ Bầu Kiên, vụ Hà Văn Thắm … đã và đang áp dụng Thông tư này để xét xử với sai phạm chi “lãi suất ngoài”. Mặc dù nhiều luật sư khi bào chữa cho thân chủ của mình đã chỉ ra cho tòa thấy rằng Thông tư kia không đủ căn cứ pháp lý để kết tội, rằng việc chi “lãi suất ngoài” diễn ra khắp nơi, nhưng lý lẽ của luật sư không khai thông được đôi tai của cán bộ điều tra, công tố và quan tòa.

Trước thời điểm ban hành cái Thông tư kia, lãi suất huy động và cho vay ở mọi ngân hàng đều cao vống theo quan hệ cung cầu của thị trường tiền tệ trong bối cảnh lạm phát cao đột biến. Và ai cũng biết, sau khi Thông tư kia ra đời, lãi suất huy động trên danh nghĩa không vượt quá mức quy định của Thông tư nhưng lãi suất huy động trong thực tế thì hầu như không thay đổi, vì người ta buộc phải chi thêm “lãi ngoài” để bù cho khách hàng. Hầu hết các ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng nhỏ, nếu không chi “lãi ngoài” thì không ai gửi tiền. Cho nên, mục đích của Thông tư nhằm kiềm chế lãi suất hầu như không có tác dụng, ngược lại đã đẩy cả hệ thống ngân hàng vào hoạt động phi pháp.

Theo Bộ luật Dân sự lúc bấy giờ, lãi suất cho vay do các bên thỏa thuận nhưng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản. Tuy nhiên, không phải hễ vượt quá quy định này là chịu trách nhiệm hình sự, nó chỉ dùng làm căn cứ để khi giải quyết tranh chấp luật pháp không bảo vệ quyền lợi của bên cho vay đối với phần lãi suất vượt 150% lãi suất cơ bản mà thôi. Bởi vì, theo Bộ luật hình sự thì lãi suất cho vay phải cao hơn lãi suất cao nhất mà nhà nước quy định ít nhất là 10 lần kèm theo yếu tố “có tính chất chuyên bóc lột” thì mới chịu trách nhiệm hình sự. Có nghĩa là, dù áp dụng lãi suất cao đến bao nhiêu thì ngân hàng và khách hàng của họ vẫn không phải chịu trách nhiệm hình sự, vì ngân hàng và khách hàng của họ không thuộc thành phần “chuyên bóc lột”.

Trong các vụ án nói trên, nhiều quan tòa lập luận: việc chi “lãi ngoài” đã gây thiệt hại cho ngân hàng và tòa đã thống kê số “lãi ngoài” được chi là bao nhiêu để buộc các bị cáo phải bồi thường cho ngân hàng chừng ấy. Chẳng lẽ các quan tòa lại không đủ trình độ để hiểu rằng, nếu không chi “lãi ngoài” cho phù hợp với quan hệ cung cầu trên thị trường tiền tệ thì ngân hàng không thể nào thu hút được tiền gửi, khi ấy số thiệt hại mà ngân hàng phải chịu còn lớn hơn rất nhiều, thậm chí có thể rơi vào tình trạng mất khả năng chi trả hay sao?

Một văn bản quy phạm pháp luật như Thông tư 02, chưa nói có trái luật hay không, chỉ riêng việc hầu hết các đối tượng điều chỉnh của nó đều vi phạm đã chứng tỏ nó không phù hợp với cuộc sống. Trong trường hợp Thông tư này không trái luật, thì việc vi phạm, tức là việc ngân hàng chi “lãi ngoài”, chỉ có thể xử lý bằng cách không cho hạch toán khoản “lãi ngoài” này vào chi phí mà trừ vào lợi nhuận của ngân hàng. Xử lý như vậy là Ngân hàng Nhà nước đã gây ra thiệt hại không đáng có cho hệ thống tin dụng rồi. Còn nếu xử lý hành chính thì lẽ ra người ban hành cái Thông tư phi thị trường kia phải bị xử lý hành chính chứ không phải người vi phạm bị xử lý hành chính.

Riêng đối với các trường hợp tiền “lãi ngoài” bị chiếm đoạt, như trường hợp Nguyễn Xuân Sơn trong vụ án Hà Văn Thắm, nếu phân tích rốt ráo sẽ thấy một sự thật kinh hoàng. Trong số 1.576 tỷ đồng OceanBank chi “lãi ngoài” cho khách hàng, ông Sơn nhận tới 246 tỷ đồng, ngoài số tiền đưa cho Ninh Văn Quỳnh, ông Sơn không chứng minh được số tiền khổng lồ này được chi cho ai, nên phải suy luận là ông ta đã chiếm đoạt, vì vậy tội của ông ta là đặc biệt nghiêm trọng. Nhưng tòa lập luận rằng, trong số tiền ông Sơn chiếm đoạt có tới 49 tỷ đồng là của PVN (tính theo tỷ lệ sở hữu của PVN tại OceanBank), vì đây là tiền thuộc sở hữu nhà nước nên ông Sơn phạm tội tham ô. Hà Văn Thắm là người chi tiền cho ông Sơn, tức là tiếp tay cho việc tham ô, nên ông Thắm cũng bị quy kết đồng phạm tội tham ô. Lập luận này không có sức thuyết phục. Bởi lẽ, như đã nói ở trên, chi “lãi ngoài” về bản chất là chi phí kinh doanh, nếu không chi thì không huy động được tiền gửi, mà không huy động được tiền gửi thì thiệt hại không thể lường hết, do đó số tiền chi “lãi ngoài” này không thể coi là thiệt hại của ngân hàng. Theo lẽ thường thì số tiền này thuộc về người gửi tiền, cho nên việc chiếm đoạt là chiếm đoạt của người gửi tiền, chứ không phải chiếm đoạt của ngân hàng, vì sở dĩ người ta gửi tiền là do có sự thỏa thuận khoản “lãi ngoài” kia.

Câu hỏi đặt ra là số tiền mà ông Nguyễn Xuân Sơn cầm lẽ ra phải được chi cho nhóm khách hàng nào? Khó có thể nói đó là khách hàng cá nhân, vì nếu vậy thì số khách hàng sẽ quá lớn, việc ông Sơn cầm tiền để chi cho từng người hay chiếm đoạt của họ đều khó có khả năng xảy ra. Chỉ có thể hiểu đây là nhóm khách hàng tổ chức. Không cần biết ông Sơn có phải là đại diện phần vốn của PVN tại OceanBank hay không, chỉ biết là với vai trò của ông, nhóm khách hàng tổ chức kia nhiều khả năng chỉ là các doanh nghiệp nhà nước ngành dầu khí thuộc PVN. Vấn đề là khách hàng cá nhân có thể nhận “lãi ngoài”, còn khách hàng là doanh nghiệp nhà nước thì không thể, vì theo quy định của Thông tư 02, đây là khoản tiền bất hợp pháp. Nó chỉ có thể vào túi của những cá nhân của lãnh đạo các doanh nghiệp này. Ông Nguyễn Xuân Sơn có đưa tiền cho họ hay là chưa chúng ta không thể biết, nhưng khi ông ta không chứng minh được là đã đưa cho ai thì tòa có thể suy diễn là ông ta chiếm đoạt. Và con số 49 tỷ đồng mà tòa cho rằng của PVN chỉ là suy diễn máy móc từ con số mà tòa cho rằng OceanBank bị thất thoát, trong thực tế số tiền lẽ ra nhóm doanh nghiệp của PVN được hưởng có thể là tất cả số tiền 246 tỷ đồng tiền “lãi ngoài” mà ông Sơn nhận. Vì sao như vậy? Vì nếu không có Thông tư 02, nhóm doanh nghiệp của PVN đã được hưởng nguyên lãi suất mà ngân hàng và họ thỏa thuận, Thông tư 02 đã biến phần lãi suất thỏa thuận vượt 14% thành bất hợp pháp, khoản chênh lệch gọi là “lãi ngoài” này chỉ có thể rơi vào túi những người có quyền mang tiền của doanh nghiệp hay có quyền sai bảo các doanh nghiệp kia mang tiền gửi vào đâu.

Qua phân tích trên, chúng ta thấy gì? Chúng ta thấy rằng, với việc can thiệp phi thị trường vào hoạt động ngân hàng bằng Thông tư 02/2011/TT-NHNN, Ngân hàng Nhà nước không những không làm giảm được lãi suất huy động (vì thực tế các ngân hàng vẫn chi “lãi ngoài”) mà còn biến một khoản tiền khổng lồ lẽ ra các doanh nghiệp nhà nước được hưởng thành khoản tiền bất hợp pháp chỉ còn một đường đi duy nhất là chạy vào túi những kẻ tham nhũng.

Chỉ tính riêng thiệt hại của các doanh nghiệp nhà nước của ngành Dầu khí thuộc PVN tại vụ án Hà Văn Thắm, con số đã lên tới hàng trăm tỉ đồng. Từ đó chúng ta có thể suy ra thiệt hại do tham nhũng tại các doanh nghiệp nhà nước khác từ khoản “lãi ngoài” này trong cả nền kinh tế mà các cơ quan tố tụng chưa sờ tới.

Tôi không nói những người ban hành Thông tư nói trên cố ý tiếp tay cho tham nhũng, tôi chỉ dám nói cái Thông tư đó vô tình tiếp tay cho tham nhũng mà thôi. Và đừng cho rằng cái Thông tư kia kiềm chế được lạm phát, chỉ mỗi việc kiềm chế lãi suất thực tế nó đã không làm nổi thì làm sao có thể kiềm chế được lạm phát. Lạm phát sau đó được kiềm chế, lãi suất trên thị trường tiền tệ giảm dần là kết quả tổng hợp của các chính sách kinh tế tạo thông thoáng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hồi phục chứ không phải là do các biện pháp can thiệp phi thị trường.

Bình Luận từ Facebook