“Vạn Niên là Vạn Niên nào”

Phạm Đình Trọng

23-2-2018

30 năm, ba lần đánh tan quân Nguyên Mông hùng mạnh xâm lược, giữ vững biên cương phía Bắc, dẹp yên sự quấy rối của Chiêm Thành, mở mang bờ cõi về phía Nam, triều Trần là triều viết lên trang chói lọi nhất trong lịch sử Việt Nam dựng nước. Triều Trần cũng là triều thịnh trị, kinh tế sung túc, văn hóa rực rỡ, xã hội thanh bình, dân ấm no, yên vui lâu bền nhất trong các triều đại phong kiến Việt Nam. Triều Trần cũng là triều gần dân nhất, trong dân nhất. Thời chiến, vua Trần mời trí lự của dân đến điện Diên Hồng trong Hoàng thành Thăng Long, hỏi dân, nghe dân đối sách với giặc. Thời bình, buổi tối vua Trần thường ngồi thuyền ra khỏi Hoàng Thành. Ngày đó Thăng Long còn lênh láng nước. Thuyền vua dạt vào quán nước, ghé vào chiếu hát ca trù. Sống gần dân, khi chết các vua Trần cũng về nằm chung nghĩa trang làng với dân.  

Có công lớn với dân, với nước như vậy nhưng các vua nhà Trần khi rời ngôi đều về với lũy tre xanh ở quê nhà Tức Mặc, Thiên Trường, Nam Định. Khi về với tổ tiên đều lặng lẽ và thanh thản gửi xác vào mảnh đất quê Tức Mặc, gửi hồn vào ngọn cỏ lá cây Thiên Trường. Không xây bia mộ bề thế, không đúc tượng đồng uy nghi, không tạc tượng đá sừng sững, các vua Trần chỉ lo xây chùa, đúc chuông, tô tượng Phật cho dân có nơi gửi đức tin. Vị tướng lẫm liệt có công trạng lớn nhất của triều Trần huy hoàng, cũng là vị tướng tài võ công hiển hách nhất trong lịch sử Đại Việt, được cả sử sách thế giới ghi nhận là Trần Hưng Đạo cũng chọn nơi về với tổ tiên là mảnh đất bình dị, thiên nhiên hoang sơ giữa cánh rừng Kiếp Bạc, Chí Linh, Hải Dương, nơi ông đặt bản doanh chỉ huy cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông, cách kinh kì Thăng Long hơn 80 cây số.

Ngày nay lí luận cộng sản, sử sách cộng sản vẫn nhìn nhận, phê phán xã hội phong kiến là xã hội phân biệt giai cấp nặng nề, sâu sắc. Nhưng các quan lớn, nhỏ triều Trần cũng như tất cả các triều đại phong kiến khác khi rũ áo từ quan đều trở về với làng xóm, khi chết đều gửi xác vào mảnh đất quê. Tang lễ đều do con cháu họ mạc tự lo, ngân khố quốc gia không phải chi một xu, một hào. Ân huệ của nước, của vua chỉ là mấy cờ lọng, sắc phong vua ban cho khi làm quan: Cờ biển vua ban cho ngày trước / Khi đưa thầy con rước đầu tiên (Nguyễn Khuyến).

Chế độ cộng sản lên án chế độ phong kiến bất công, thối nát, quyết đào mồ chôn chế độ tư bản bóc lột và những người cộng sản cầm quyền đã lùa cả dân tộc vào cuộc đấu tranh giai cấp, cải cách xã hội, chiến tranh ý thức hệ. Cả chục triệu dân lành phải bỏ xác trong những cuộc đấu tranh giai cấp man rợ, hủy hoại tính người và trong những cuộc chiến tranh ý thức hệ liên miên, đẫm máu để xóa bỏ giai cấp, xóa bỏ bất công, xây dựng xã hội theo tiêu chí bình đẳng, công bằng, không còn áp bức, bóc lột, bất công, không còn giai cấp.

Nhưng hiện thực đang diễn ra ở xã hội cộng sản Việt Nam lại là xã hội phân biệt giai tầng, phân chia đẳng cấp quái gở nhất, lố bịch nhất, trơ trẽn nhất. Cách mạng vô sản đưa tầng lớp khốn cùng trở thành giai cấp thống trị. Ngàn đời khốn cùng, thua kém mọi người, nay có vị trí thống trị xã hội, cái mà họ khao khát không phải là cống hiến, thể hiện mình, đóng góp cho đời vì họ chẳng có gì để thể hiện, đóng góp. Họ chỉ khao khát mọi hưởng thụ, mọi quyền lợi phải vượt trội hơn mọi người. Và xã hội cộng sản đã nảy nòi ra tầng lớp thống trị mặc sức dùng tiền thuế mồ hôi nước mắt của dân chăm lo cho giai cấp thống trị kĩ càng, chi li, tốn kém hơn cả thời phong kiến suy tàn, thối nát.

Ăn có đặc sản. Đi xa có chuyên cơ. Đi gần có xe hộ tống, tiền hô hậu ủng. Ở có phố quan, có biệt điện kín cổng cao tường. Hắt hơi sổ mũi có ban chăm sóc bảo vệ sức khỏe trung ương chăm lo. Chết có nghĩa trang riêng, có mộ phần thênh thang, có nhà tưởng niệm tô vẽ công lênh, có tượng đồng, tượng đá nhiều hơn tượng Chúa, tượng Phật. Nhiều ông quan cộng sản khi sống ngập ngụa trong thói hư trần tục và tội lỗi ma quỉ, đã hưởng quá nhiều đặc quyền, đặc lợi, khi chết lại được nhà nước cộng sản lấy tài nguyên của nước, lấy tiền thuế của dân một cách vô tội vạ, vô trách nhiệm để thần thánh hóa những ông quan trần tục và tội lỗi có vai vế trong triều cộng sản, qua đó thần thánh hóa cả một thời cộng sản, thời dựng lên và tồn tại bằng máu và nước mắt dân lành.

Sau thắng lợi không trọn vẹn của cuộc kháng chiến chống Pháp. Không trọn vẹn vì cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc bằng hiệp định Genève cắt đôi đất nước Việt Nam thành hai trận tuyến đối kháng, chia đôi dân tộc Việt Nam thành hai thế lực thù địch, tất yếu tạo ra thảm họa không thể tránh khỏi là cuộc nội chiến Nam – Bắc đẫm máu kéo dài suốt 20 năm. Thắng lợi không trọn vẹn, mới làm chủ nửa dải đất Việt Nam, những người cộng sản Việt Nam về thủ đô Hà Nội liền ban hành ngay những sắc luật, những chính sách để tách biệt quan với dân, để phân hạng quan to, quan nhỏ, quan càng to càng nhiều đặc quyền, đặc lợi. Thói đặc lợi cộng sản giành phần hơn từ miếng ăn với dân đã được bia miệng dân gian khắc ghi:

Tôn Đản là chợ vua quan

Nhà Thờ là chợ trung gian nịnh thần

Bắc Qua là chợ thương nhân

Vỉa hè là chợ nhân dân anh hùng.

Lương cao nhưng quan chức cấp cao cộng sản lại ít phải dùng đồng lương lo cho cuộc sống hàng ngày. Mọi nhu cầu của đời sống đều được nhà nước cộng sản đáp ứng miễn phí, lại có phiếu mua hàng trong cửa hàng cung cấp riêng ở phố Tôn Đản dành cho quan cấp bự. Giá rẻ như cho không. Từ túi kẹo sữa của Nga cho cậu ấm, cô chiêu đến chai rượu Mao Đài, bao thuốc lá Thiên An Môn của Tàu Cộng cho các quan ông. Từ lọ nước hoa Bulgari cho các quan bà đến chiếc tủ lạnh Saratov của Nga cho gia đình quan. Trăm năm bia đá thì mòn / nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ. Bia miệng về chợ vua quan Tôn Đản thời cộng sản sẽ còn mãi cùng với bia miệng về một triều đại hại dân đã sụp đổ trong lòng dân nhưng vẫn cố xây thành cao, đào hào sâu bằng xương máu dân để cố kéo dài triều đại thối nát, kéo dài nỗi thống khổ của dân: Vạn niên là vạn niên nào / Thành xây xương lính, hào đào máu dân.

Xã hội cộng sản chỉ có một bảng giá trị là thang bậc quan chức và con người muốn tiến thân chỉ có con đường bon chen vào con đường quan chức. Thị trường mua quan bán chức trở thành thị trường ngày càng phát đạt, rầm rộ, nhộn nhịp nhưng cũng ngày càng khốc liệt. Chốn quan trường chỉ còn là chốn đua chen của những nhân cách thấp hèn. Những nhân cách xôi thịt, hối hả bòn rút, vơ vét của công, cướp bóc của dân và tàn độc sát phạt nhau để giành ghế chốn công đường mà tiếng súng thanh toán nhau, máu chảy lênh láng ở tỉnh đường Yên Bái năm 2016 là một thí dụ.

Thôi, khỏi nói sự phân cấp về miếng ăn, chỗ ở, về tiêu chuẩn chữa bệnh, tiêu chuẩn thư kí, vệ sĩ, công vụ, tiêu chuẩn ô tô riêng từ ngót nghét tỉ đồng đến vài tỉ đồng đưa đón các quan cộng sản. Chỉ nhìn cách nhà nước cộng sản thoải mái lấy tài nguyên của nước, phóng tay ném tiền thuế của dân lo cho cái chết của quan cộng sản cũng thấy sự thấp kém trong tầm văn hóa, tầm nhân văn, sự vô liêm sỉ trong nhân cách, sự méo mó, nhố nhăng trong lí tưởng sống, sự khinh miệt, bất nhẫn với người dân của nhà nước cộng sản.

Kí hiệp định Genève cắt đôi đất nước thành hai trận tuyến, cắt đôi dân tộc thành hai thế lực thù địch. Gieo rắc hận thù giữa hai nửa giống nòi Việt Nam rổi đẩy hai nửa hận thù đó vào cuộc nội chiến tương tàn một mất một còn. Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết làm chiếm tranh xóa sổ một nửa giống nòi Việt Nam, quyết dành độc quyền thống trị cả nước. Đó là một tội ác lịch sử. Cùng với tội ác cải cách ruộng đất phá tan đạo lí thương yêu đùm bọc “thương người như thể thương thân” làm nên sức mạnh trường tồn Việt Nam là hai tội ác lớn nhất của nhà nước cộng sản thời kì đó. Gây ra hai tội ác lớn với lịch sử, với nhân dân rồi những người cộng sản rời bóng tối rừng sâu về ánh sáng kinh kì.

Vừa về làm chủ Phủ Toàn quyền Đông Dương, làm chủ Hoàng thành Thăng Long, những người cộng sản liền tự ban cho mình nhiều đặc lợi mà các nhà nước phong kiến và nhà nước bù nhìn tay sai thực dân trước đó dù tham lam, thối nát đến đâu cũng không thể làm, không nỡ làm. Trong đó có hai đặc lợi chướng tai gai mắt nhất là ăn Tôn Đản, chết Mai Dịch. Đặc lợi ăn Tôn Đản đã được dân gian khắc vào bia miệng. Đặc lợi chết Mai Dịch rồi cũng sẽ có bia miệng dân gian, tiếu lâm dân gian.

Khi mới làm chủ nửa nước, còn đang phải diễn màn dập đầu tạ tội với dân về hàng trăm ngàn dân lành bị đấu tố, hành hình chết oan trong cải cách ruộng đất, nhà nước cộng sản đã chiếm hơn 5 ha đất nghĩa trang Mai Dịch của những liệt sĩ Hà Nội làm nghĩa trang riêng cho quan chức cộng sản cấp cao, xây mả lớn cho những người cộng sản tự nhận là có công với nước.

Lịch sử luôn công bằng và người dân luôn biết ứng xử bằng đạo lí. Với những ai thực sự có công với dân với nước, dân tự lập đền thờ, chẳng cần tiêu chuẩn cấp bậc. Chỉ những kẻ công ít, tội nhiều mới phải vơ công để giấu tội. Tự cho mình phải có nghĩa trang riêng, có mả lớn là tự kể công với dân, với nước, đòi đất nước mãi mãi ghi công, bắt nhân dân đời đời thờ phụng.

Làm chủ nửa nước, mới làm hai việc lớn: Kí hiệp định Genève cắt đôi đất nước, chia đôi giống nòi Việt Nam và làm cuộc cải cách máu trên ruộng đất, nhà nước cộng sản liền chiếm hơn 5 ha đất vàng kinh kì xây mả lớn cho những quan chức cộng sản cao cấp được nhà nước cộng sản tự cho là có công với nước. Làm chủ cả nước, nhà nước cộng sản đã làm thêm nhiều việc vô cùng lớn nhằm vô sản hóa, bần cùng hóa, nô lệ hóa người dân, thâu tóm toàn bộ quyền lực của nhân dân vào tay nhà nước cộng sản và cắt đất, dâng biển cho Tàu Cộng, đưa giống nòi Việt Nam ngày càng chìm sâu vào thân phân chư hầu Tàu Cộng:

Cho ra đời những bản Hiến pháp tước đoạt quyền làm chủ đất nước của người dân. Người dân làm chủ đất nước bằng tự do ứng cử và tự do bầu chọn lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Điều 4 Hiến pháp cộng sản đã cho những người cộng sản quyền đương nhiên lãnh đạo nhà nước và xã hội, không cần đến sự bầu chọn của người dân. Hiến pháp cộng sản mới nhất còn cho nhà nước cộng sản quyền thâu tóm toàn bộ tài nguyên đất nước, thâu tóm cả quyền sở hữu đất đai từ ngàn đời của người dân. Điều 4 Hiến pháp 2013 tước đoạt quyền làm chủ đất nước của người dân thì điều 53 của Hiến pháp đó tước đoạt luôn quyền làm chủ mảnh đất riêng của mỗi gia đình do cha ông họ để lại.

Nô dịch người dân, tước đoạt những giá trị làm người của người dân. Lùa hơn triệu người dân không cùng ý thức hệ cộng sản vào những nhà tù khắc nghiệt núp dưới cái tên trại tập trung cải tạo. Sự đày đọa trong thống khổ, thiếu thốn cả vật chất, tinh thần và tình cảm đã đem đến cái chết thê thảm cho hàng chục ngàn người tù tập trung cải tạo. Miệng nói hòa giải, hòa hợp dân tộc nhưng lại lùa chính những người cần hòa giải, hòa hợp dân tộc vào tù đầy mút mùa, những người cộng sản đã khoét sâu mãi mãi sự chia rẽ, li tán, hận thù dân tộc. Một dân tộc bị chia rẽ, li tán và không nguôi thù hận nhau tất yếu sẽ suy yếu, không thể hùng mạnh, không thể giữ được độc lập, chủ quyền trước tham vọng bành trướng của Đại Hán phương Bắc và hiện thực đất nước những ngày này là minh chứng hùng hồn, hiển nhiên .

Xóa sổ đội ngũ tư sản dân tộc giầu lòng yêu nước, giầu tài năng sáng tao. Phá nát nền công nghiệp non trẻ nhưng đầy nội lực và đang công nghiệp hóa mạnh mẽ hòa nhập vào xã hội công nghiệp thế giới, đẩy người dân vào thời kì nghèo đói cùng cực. Đói rách cơm ăn áo mặc. Đói rách cả niềm tin.

Đất nước gấm vóc của cha ông để lại, Tổ quốc thiêng liêng của mọi trái tim Việt Nam đã là sở hữu riêng của những người cộng sản. Dù yêu nước cháy lòng, người dân cũng phải vượt biển bỏ nước ra đi. Dù chỉ có một phần ngàn tia hi vọng sống sót giữa cái chết của bão biển, cướp biển, của đói khát, bệnh tật bủa vây và gần nửa triệu người đã vùi xác dưới đáy biển nhưng người dân đi tìm giá trị làm người, tìm ý nghĩa đích thực của cuộc đời ngắn ngủi, vẫn cuồn cuộn bỏ nước ra đi, tìm sự sống trong cái chết. Dòng người phải bỏ nhà cửa, bỏ mồ mả ông bà, bỏ nước, gạt nước mắt ra đi khi bùng phát, khi âm thầm kéo dài từ năm 1975 đến tận hôm nay, gần nửa thế kỉ.

Tạo ra một cường quốc tham nhũng hàng đầu thế giới, tạo ra một bộ máy nhà nước khổng lồ, kềnh càng, trì trệ, quá kém cỏi trong quản trị quốc gia làm cho đất nước ngày càng tan hoang, lụn bại nhưng lại quá giỏi bòn rút của cải, tài nguyên của nước, cướp đoạt nguồn sống của dân, tạo ra một cường quốc dân oan, cường quốc xuất khẩu nô lệ tình dục và xuất khẩu lao động làm thuê. Đưa đất nước vào con đường lạc lõng, tủi nhục với loài người. Kinh tế, văn hóa đất nước ngày càng tụt xa ở phía sau trong tiến trình đi tới văn minh, phát triển của loài người.

Để mất cụm đảo Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa vì khi Tàu Cộng đánh chiếm Gạc Ma, lãnh đạo cấp cao của nhà nước cộng sản Việt Nam cấm người lính Việt Nam giữ Gạc Ma không được nổ súng. Không cho người lính Việt Nam được nổ súng chiến đấu giữ chùm đảo Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa thực chất là lệnh dâng chùm đảo Gạc Ma cho Tàu Cộng. Dâng cả chùm đảo Gạc Ma cho Tàu Cộng rồi lại kí hiệp định biên giới cắt hàng trăm cây số vuông đất biên cương, nhượng hàng ngàn hải lí biển của lịch sử, của tổ tiên người Việt cho bạn vàng ý thức hệ Tàu Cộng. Đó là tội lớn nhất trong những tội của một nhà nước phản dân, hại nước, tội bán nước đớn hèn và nhục nhã.

Đất nước của nền văn minh sông Hồng tuy không rực rỡ huy hoàng ở tầm nhân loại nhưng lung linh bản sắc riêng. Gần ngàn năm Bắc thuộc, Đại Hán mang nền văn minh Trung Nguyên rực rỡ, huy hoàng đồng hóa dân tộc Việt nhưng người Việt vẫn là người Việt vì văn minh sông Hồng đậm đà bản sắc riêng vẫn bền bỉ trong hồn người Việt. Nền văn minh sông Hồng đã tạo ra một dân tộc văn hiến, một đạo lí thương yêu để tồn tại, để sống còn, một nguyên tắc ứng xử hòa hiếu là nhường nhịn, thương yêu, đùm bọc. Một câu nhịn là chín câu lành. Nhiễu điều phủ lấy giá gương / Người trong một nước phải thương nhau cùng.

Nhưng chỉ mấy chục năm trong thể chế cộng sản, chỉ mấy chục năm dưới sự cai trị bằng bạo lực và dối trá của nhà nước cộng sản Việt Nam, đất nước của nền văn minh sông Hồng, của ngàn năm văn hiến, của thương yêu, đùm bọc, thương người như thể thương thân, trở thành đất nước của bạo lực man rợ, đất nước của máu và nước mắt.

Nhà nước ứng xử với dân bằng bạo lực. Để duy trì một thể chế chính trị lạc hậu cả trăm năm so với thế giới, nhà nước cộng sản không có lẽ phải chỉ còn biết ứng xử với những tiếng nói khẩn thiết và chính đáng đòi dân chủ, đòi quyền làm người của người dân bằng dùi cui công an, bằng những điều luật độc tài 79; 88; 258, bằng tòa án áp đặt và bằng ngục tù trung cổ. Người dân đang khỏe mạnh bị công mời đến trụ sở làm việc buổi sáng thì buổi chiều đã thành cái xác với những vết bầm dập, thâm tím, phù nề khắp người. Mỗi năm có hàng chục cái chết như vậy diễn ra từ năm này sang năm khác và đã trở thành điều bình thường, thành chuyệ thường  ngày trong nhà nước cộng sản Việt Nam.

Dân giải quyết mâu thuẫn, bất hòa nhỏ xíu với nhau cũng bằng nắm đấm, dao găm, thuốc nổ và cả bằng súng tự chế. Chồng giết vợ, vợ giết chồng phanh thây từng mảnh không còn là chuyện hiếm. Bạo lực cả ở nơi của lễ nghĩa. Trường học nào cũng có hàng chữ son suy tôn lễ nghĩa: Tiên học lễ, hậu học văn. Như công sở nào cũng có hàng chữ vàng suy tôn đảng cộng sản: Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm. Nhưng trò đánh thầy, học trò nói chuyện với nhau bằng đao búa, học trò tước đoạt mạng sống của nhau diễn ra ở khắp nơi. Những clip nữ sinh yểu điệu thục nữ đánh nhau, lột quần áo của nhau giữa lớp học, trên đường làng nhan nhản trên mạng xã hội.

Thể chế chính trị lạc hậu cả trăm năm vì ngay từ đầu thế kỉ 20, những trí tuệ sáng láng và thức thời đã nhận ra xã hội chủ nghĩa của Mác là độc tài, sắt máu, phản con người, phản tiến bộ, họ đã tách ra khỏi phong trào cộng sản, lặng lẽ theo đuổi lí tưởng xã hội dân chủ, tạo ra những xã hội ổn định, bình yên, kinh tế và văn hóa phát triển rực rỡ vì con người ở những nước Bắc Âu, Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch.  .  . Trong khi đó, những người cực đoan, cuồng tín giáo điều cộng sản kiên trì học thuyết bạo lực đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản đã tập hợp lại trong quốc tế ba và lập lên đảng cộng sản ở các nước, sắt máu thực hiện bạo lực chuyên chính vô sản, tạo ra cao trào cách mạng vô sản từ cách mạng Tháng Mười Nga 1917 đến cách mạng văn hóa Trung Hoa những năm sáu mươi thế kỉ 20, dìm thế giới vào biển lửa chiến tranh ý thức hệ, dìm loài người vào biển máu bạo lực đấu tranh giai cấp suốt hơn nửa thế kỉ, giết chết cả trăm triệu sinh linh con người, biến những đất nước tươi đẹp thành những nhà tù khổng lồ đầy đọa và công khai tàn sát hàng loạt mạng người, âm thầm thủ tiêu những con người ưu tú ở Liên Bang Xô Viết, ở Trung Hoa, ở Đông Âu, ở Việt Nam, ở Cuba.

Đã bước sang thế kỉ 21, thế kỉ của văn minh tin học, những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam vẫn chìm đắm trong giáo điều của máu ở đầu thế kỉ 20, vẫn cố duy trì chủ nghĩa xã hội của máu và nước mắt, phản con người, phản tiến bộ mà những trí tuệ sáng láng và thức thời đã xa lánh, vất bỏ từ đầu thế kỉ trước.

Loài người đã bước sang kỉ nguyên văn minh tin học. Với văn minh tin học, với internet, mỗi con người đều có trí tuệ của cả loài người, mỗi con người đều có sức mạnh của cả loài người. Được tự do, được giải phóng sức sáng tạo, mỗi con người bình thường đều có thể trở thành người khổng lồ như Bill Gates, như Steve Jobs. Nhưng trong nhà nước cộng sản Việt Nam, người dân vẫn không được nhìn nhận là những cá thể Người, mãi mãi chỉ là bầy đàn chuột bạch để nhà nước cộng sản làm cuộc thí nghiệm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ai đòi dân chủ, đòi quyền con người, ai bộc lộ chính kiến của lương tâm con người và trách nhiệm công dân đều là “thế lực thù địch” với nhà nươc cộng sản, đều bị trừng trị bởi bạo lực của công an, bạo lực của những điều luật phản dân chủ, phản con người 79; 88; 258, bạo lực của tòa án độc tài, bạo lực của nhà tù cộng sản. Văn minh tin học đã nâng con người lên thành những người khổng lồ thì con người trong nhà nước cộng sản Việt Nam vẫn là con người nô lệ trung cổ, vẫn chưa có được những quyền con người cơ bản, vẫn chỉ là bầy đàn công cụ, là quần chúng cách mạng của đảng cộng sản. Duy trì học thuyết máu Mác – Lê – Mao thực chất là duy trì chế độ phong kiến cộng sản còn tồi tệ hơn chế độ phong kiến trung cổ giữa kỉ nguyên văn minh tin học.

Những việc làm kể trên của nhà nước cộng sản Việt Nam với nhân dân, với đất nước, với lịch sử đều là những tội lớn, tội phản nước hại dân. Trong đó tội dâng đất đai biển đảo của cha ông để lại cho Tàu Cộng là tội nhục nhã, nhơ bẩn nhất của xã hội loài người và tội duy trì, áp đặt cho xã hội Việt Nam một thể chế chính trị lạc hậu cả trăm năm nhằm nô dịch người dân, biến 90 triệu dân thành bầy nô lệ của nhúm người lãnh đạo đảng cộng sản là tội ác man rợ nhất trong lịch sử loài người.

Với thể chế dân chủ, người dân nắm quyền làm chủ đất nước, nắm quyền quyết định số phận nhà nước thì những quan chức cấp cao của nhà nước cộng sản, những người phải chịu trách nhiệm chính trong những tội ác trên phải bị truy tố trước pháp luật, trước nhân dân, trước lịch sử và vị trí xứng đáng dành cho họ sau đó là nhà tù và những nấm mộ ô nhục của kẻ phản dân hại nước.

Nhưng nhà nước độc tài có hai nét đặc trưng tiêu biểu: Một là tước đoạt quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội của người dân, quyết buộc người dân trắng tay, không còn một chút quyền lực chính trị, cả đến quyền công dân, quyền cơ bản của con người, người dân cũng không còn. Hai là dành đặc quyền đặc lợi cho những kẻ độc tài đương quyền. Nhà nước độc tài cộng sản còn độc tài hơn hẳn những nhà nước độc tài khác ở chỗ dành đặc quyền đặc lợi cả cho những nhà độc tài khi đã chết.

Hơn 5 ha đất đặc quyền đặc lợi dành cho những nhà độc tài cộng sản ở Mai Dịch đã bị những người độc tài cộng sản lớp trước chiếm hết rồi. Những nhà độc tài cộng sản đương quyền liền đẻ ra ngay dự án dành 1400 tỉ tiền thuế của dân và 120 ha đất lành của nước, ở ngay chân núi thiêng Ba Vì, dưới bóng cả thần Tản Viên để làm Mai Dịch mới hoành tráng, xa xỉ gấp nhiều lần Mai Dịch cũ cho những nhà độc tài đương chức hôm nay và ngày mai. Cả khi chết, những người cộng sản cũng dành bằng được đặc quyền đặc lợi với dân với nước.

Tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ. Trần Hưng Đạo là người có công lớn với sự vững bền của đất nước, có công lớn với cuộc sống bình yên của nhân dân, được nhân dân cả nước tôn làm người cha của trăm họ. Dù khi chết Trần Hưng Đạo chỉ có nấm mồ bình dị trong cánh rừng hoang sơ Kiếp Bạc, Chí Linh nhưng muôn đời sau, tháng tám, tháng Đức Trần Hưng Đạo về cát bụi, lòng dân cả nước đều thành kính làm giỗ tưởng niệm trong tâm tưởng người cha của trăm họ.

Một dân tộc đã biết đời đời thờ phụng một hồn thiêng có công với dân với nước dù hồn thiêng đó chẳng để lại mồ to mả lớn thì dân tộc đó cũng biết cách ứng xử đích đáng với những kẻ chỉ để lại họa cho dân, cho nước. Dù kẻ để lại họa cho dân cho nước có mồ to mả lớn thì đó cũng chỉ là những mồ to mả lớn của tội ác to, của sự ô nhục lớn. Tội ác thì không thể ngạo nghễ tồn tại trong không gian mà chỉ tồn tại trong bia miệng dân gian mà thôi. Vạn niên là vạn niên nào / Mồ xây tội ác, mả đào hờn căm.

Bình Luận từ Facebook

1 BÌNH LUẬN

  1. Bình luận:Các vua Trần và Hoàng hậu, khi mất đều đưa về Thái Đường (Thái Bình) hoặc sau này là Yên Sinh (Quảng Ninh) lập lăng chứ không phải chôn cất ở Thiên Trường như tác giả đã viết.
    Vậy, Thiên Trường đích thực là triều đình thứ hai, nơi ăn nghỉ và chỉ đạo từ xa của các Thái Thượng hoàng thời đó.
    Khỏi cần phải nói, với sự tồn của hai triều đình như vậy thì tốn kém sức dân thế nào.
    Người đầu tiên phản đối loại hình này là Nhân tông Trần Khâm, ông bỏ đi tu ở Yên Tử với ý muốn là con cháu sau này xóa bỏ hành cung Thiên Trường để cho dân bớt khổ!

Comments are closed.