Sau thế kỷ “đỏ” sẽ là thế kỷ “xám”?

Viet-studies

Nguyễn Trung

8-11-2017

Một câu hỏi trong khi nghĩ về 100 năm Cách mạng Tháng Mười và đại hội 19 của ĐCSTQ vừa mới bế mạc

I. Về ảnh hưởng của Cách Mạng Tháng Mười

Thừa nhận những ảnh hưởng sâu rộng toàn cầu của Cách mạng tháng Mười Nga, nhiều báo chí và học giả trên thế giới gọi 100 năm qua là thế kỷ “đỏ”. Đánh giá này trước hết dựa vào những tác động của Cách mạng Tháng 10 đã làm thay đổi sâu sắc diện mạo thế giới và xu thế phát triển của nó với những dấu ấn khác nhau suốt 100 năm qua, mặc dù nước Nga của tổng thống Putin không có lễ kỷ niệm sự kiện này.  

Sự thật là:

– CMTM đã diễn ra như một tất yếu lịch sử của sự phát triển ở nước Nga đã đi tới bước khốn cùng và trong bối cảnh phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang ở đỉnh cao trong cuộc đấu tranh chống lại sự bóc lột tàn tệ của chủ nghĩa tư bản tại thời kỳ này. Cuộc cách mang này mang trong nó những lý tưởng cao đẹp về giải phóng con người, hứa hẹn khả năng mở ra một con đường phát phát triển mới đầy hy vọng, vì lẽ này nó được coi như mùa xuân của nhân loại, đã cổ vũ nức lòng trào lưu tiến bộ trên thế giới. Những người chống lại quan điểm này gọi CMTM là một cuộc đảo chính bôn-xê-vich!

– Xuất hiện cường quốc XHCN Liên Xô với tính cách là một trong những yếu tố quyết định cùng với các lực lượng đồng minh đánh bại các thế lực phát xít trong chiến tranh thế giới II.

– Tạo ra sự hình thành hệ thống thế giới XHCN – trong đó có sự ra đời của CHND Trung Hoa – đối kháng với hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, làm xuất hiện cục diện chiến tranh lạnh I với nội dung “2 phe 4 mâu thuẫn”.

– Thúc đẩy và hậu thuẫn mạnh mẽ phong trào giành độc lập dân tộc của các nước thế giới thứ ba – qua đó góp phần quan trọng vào việc xóa bỏ chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa thuộc địa. Trong quá trình phát triển này chủ nghĩa đế quốc với nội hàm cổ điển coi như đã cáo chung,

– vân vân…

Cùng với những thay đổi tự thân tất yếu trong quá trình phát triển cũng như trong quá trình tham gia toàn cầu hóa của các nước phương tây – đứng đầu là Mỹ, sự xuất hiện hệ thống thế giới XHCN đã góp phần nhất định vào những thay đổi ở các nước phương Tây với những nội dung như: khắc phục ở mức có thể những khuyết tật của hệ thống tư bản chủ nghĩa, chuyển sang giương cao ngọn cờ tự do – dân chủ – nhân quyền và ngọn cờ toàn cầu hóa, tham gia vào và đẩy mạnh cuộc đấu tranh “ai thắng ai?” do phe XHCN đề xướng giữa hai con đường XHCN và TBCN trong chiến tranh lạnh…

Có thể sẽ không phải là quá lời nếu nói rằng: Trong suốt thời kỳ này các nước phương Tây đã có những thay đổi theo hướng tự hoàn thiện và nâng cao khả năng cạnh tranh của chính mình để thích nghi với cục diện quốc tế ở thời kỳ này. Một phần đáng kể những thay đổi này đã chịu những tác động nhất định trực tiếp hoặc gián tiếp từ hệ thống thế giới XHCN – rõ nét nhất là những diễn biến trong khoảng thời gian này đã làm xuất hiện và cuối cùng là đã làm mất đi chủ nghĩa thực dân mới của các nước phương Tây, vì phương thức này đã trở thành “đồ cổ” trong cục diện mới của thế giới đương thời. Có lẽ cũng không sai nếu cho rằng CNTB đã học được nhiều điều và khai thác được đáng kể những khuyết tật của hệ thống thế giới XHCN; đến lượt nó – chủ nghĩa tư bản, đã tích cực tham gia hoặc tạo ra được những ảnh hưởng / tác động vào quá trình làm sụp đổ hệ thống thế giới XHCN. Tuy nhiên trước sau vẫn phải nhấn mạnh: Sự sụp đổ của các nước Liên Xô – Đông Âu trước hết và chủ yếu là do các nguyên nhân tự thân bên trong của những quốc gia này.

Như một quy luât khách quan, sau khi tận dụng hết khả năng trong nước phát triển theo chiều rộng, hệ thống chính trị của các nước LXĐÂ đứng trước hai thách thức cơ bản không vượt qua nổi:

(a) Hệ thống chính trị ra đời từ bạo lực cách mạng và chiến tranh, nhưng trong quá trình phát triển sau đó của đất nước trong thời bình dần dần hệ thống này đã bộc lộ nguyên hình và hoành hành trọn vẹn với tính cách là chế độ toàn trị với nhiều hệ quả rất nghiêm trọng – bao gồm cả những tội ác khủng khiếp – cho chính những quốc gia này cũng như cho thế giới còn lại;

(b) Sự phát triển theo chiều rộng của nền kinh tế kế hoạch hóa và bao cấp đã đi tới ngưỡng ách tắc và tất yếu đổ vỡ.

Ngoài ra còn phải kể đến một loạt những nguyên nhân lịch sử và chính trị sâu xa không thể hàn gắn được trong các mối quan hệ giữa một bên là Liên Xô và một bên là các nước XHCN đông Âu, và sức ép cạnh tranh giữa 2 hệ thống thế giới đã tới mức không chịu đựng nổi. Trong khi đó ngay từ rất sớm CHNDTH đã tách ra tranh giành ngọn cờ lãnh đạo của Liên Xô.

Tất cả những lý do nêu trên giải thích sự sụp đổ tất yếu của các nước LXĐÂ.

Thừa nhận như trên, còn phải thừa nhận những diễn tiến khác của thế kỷ “đỏ”:

– Cách mạng Tháng 10 đã phá bỏ được chế độ Nga hoàng, nhưng   không thể thực hiện được những lý tưởng và giá trị cao đep mang tính xã hội chủ nghĩa đã tạo ra chính cuộc cách mạng này. Bởi vì bạo lực cách mạng chỉ có thể xóa bỏ được chế độ sa hoàng thối nát không còn lý do để tồn tại. Nhưng bạo lực cách mạng không thể mang lại cho Liên Xô chủ nghĩa xã hội theo những lý tưởng đã viết trên lá cờ cách mạng của nó, cho dù nước Nga trong giai đoạn ban đầu này đã tạo ra được những “thần kỳ” (miracles) nào đó – bao gồm cả sức mạnh đánh bại phát xít Đức và Nhật trong chiến tranh thế giới II – và với những cái giá đã phải trả đắt như thế nào! Sau khi khai thác hết những nguồn lực có thể huy động được của thời kỳ đầu, chế độ toàn trị của Liên Xô – ra đời tư bạo lực của Cách mạng Tháng 10 và chiến tranh – cuối cùng đã không thể mang lại cho Liên Xô sự phát triển mới lẽ ra phải có. Cách mạng Tháng 10 với sự sụp đổ sau này của Liên Xô nói riêng và của các nước XHCN Đông Âu nói chung cho thấy xây dựng một xã hội mới với những giá trị mới phải là kết quả và thành quả của phát triển, chứ không thể đơn thuần là làm cách mạng và dựa vào bạo lực của quyền lực mà có thể tạo ra được. Thực ra trước đó Cách mạng tư sản Pháp (1789) đã chứng mình thực tế quyết liệt này như một quy luật tất yếu, (tìm hiểu thêm vấn đề: “cách mạng ăn thịt những đứa con của mình” của cuộc Cách mạng này).

– Hoàn toàn không thể có chuyện sự sụp đổ của Liên Xô chỉ là thất bại của chủ nghĩa xã hội mô hình xô viết. Bởi vì kết luận như thế, ắt dẫn tới những câu hỏi: Vậy mô hình đúng của chủ nghĩa xã hội là gì? Mô hình này đã có ở đâu trên trái đất này?.. Ai trả lời được?.. Thậm chí còn phải quay lại những câu hỏi kinh điển cũ không dễ gì trả lời, ví dụ: Thế nào là chủ nghĩa xã hội? theo định nghĩa nào? chủ nghĩa hay và ý thức hệ nào?.. CNXH nên được hiểu là mục tiêu, là những giá trị cần đạt được do những thành quả của phát triển đem lại, hay là phương tiện? là con đường?.. Có hay không một CNXH như một thể chế chính trị gắn với ý thức hệ Mác – Lênin như thế?..

Sự phát triển của các nước Bắc Âu đang được cọi là “CNXH hiện thực” hiện nay của trào lưu dân chủ xã hội, nhưng chủ nghĩa dân chủ xã hội đã bị chính Quốc tế III (Comintern, 1919…) và CNML lúc đương thời bác bỏ, không thể coi nó cũng là một sản phẩm của thế kỷ “đỏ”, nên xin dành cho một dịp bàn luận khác.

– Vân vân…

Song sự sụp đổ của các nước LXĐÂ đã cho phép kết luận: CNXH được xây dựng theo ý tưởng và phương thức ra đời từ CMTM trên nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin (như đang định hình là nền tảng tư duy của ĐCSVN) đã tự chứng mình là ảo tưởng, tất yếu thất bại. Nên coi thất bại này – cũng là một sản phẩm rất quan trọng của thế kỷ “đỏ, vì đấy là bài học nhiều quốc gia đã phải trả giá đắt, ngay nay rất cần biết tới trong tư duy và trong những quyết định mới cho hiện tại và tương lai. Trước hết đấy cũng là bài học lớn và đã phải trả giá đắt của chính nước ta trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc suốt 42 năm độc lập – thống nhất vừa qua. Cuộc sống trên thế giới trong suốt thời gian 100 năm sau CMTM đã khẳng định: Để giành được những tiến bộ xã hội đáng mong muốn, nhất thiết phải thông qua con đường tạo ra phát triển mà văn minh nhân loại đã tổng kết.

Thuộc về thế kỷ “đỏ” này, còn phải kể đến những tàn dư nó để lại với không ít hệ lụy cho đến hôm nay trong nhiều nước thuộc thế giới thứ ba đã từng có các phong trào “cánh tả”, cho dù những phong trào này mang tên gọi là gì và nhuốm mầu sắc chính trị nào, nhất là các phong trào cánh tả “mao-ít”.

Song trong khoảng gần ba thập niên cuối cùng của thế kỷ “đỏ” này – nghĩa là sau khi các nước LXĐÂ sụp đổ, không hề có một biểu hiện nào xảy ra trên thế giới cho phép kết luận tiến lên CNXH (như đang được hiểu theo ý thức hệ của CNML) là xu thế tất yếu của xã hội loài người. Trong khi đó lại đang diễn ra một xu thế khác rất đặm nét của tính “chế độ toàn trị”, đang chi phối sâu sắc sự phát triển của thế giới hiện tại, đó là:

  • Từ sự sụp đổ của Liên Xô XHCN – cái nôi của CMTM – đang dần dần trỗi dậy trở lại đế chế Nga vóc dáng kiểu sa hoàng dưới thời Putin hiện nay;
  • và từ CHNDTH xã hội chủ nghĩa đặc sắc TQ, một đế chế Trung Hoa đang trên đường phục hưng với giấc mộng Trung Hoa.

II. Chẳng lẽ sau thế kỷ “đỏ” sẽ là thế kỷ “xám”?

Vâng, sau thế kỷ “đỏ” có thể sẽ là thế kỷ “xám”!?..

Đấy là ý nghĩ ngay tức khắc của tôi, sau khi thấy thiên hạ đưa ra khái niệm thế kỷ “đỏ” trong bàn luận về 100 năm Cách mạng Tháng Mười. Nhất là ít lâu nay đó đây trên thế giới đã có ý kiến coi thế kỷ 21 là của Trung Quốc.

Sự thật suy nghĩ trên là một phản sạ tự nhiên rất tiêu cực trong tôi, trước hết[1] xuất phát từ những kinh nghiệm cay đắng trong quan hệ của nước ta với TQ trên chặng đường kể từ hội nghị Geneva 1954 về Đông Dương cho đến hôm nay. Chặng đường này có nhiều cột mốc đau khổ, thậm chí không hiếm những chặng đường vô cùng đẫm máu cho nước ta, rồi còn biết bao nhiêu sự can thiệp khác nữa vào nước ta của quyền lực rắn và quyền lực mềm “made in China”… Rồi còn biên giới / biển đảo của nước ta bị xâm phạm, đất nước đang bị uy hiếp, trên thực tế đang bị bao vây chiến lược, sự lệ thuộc nguy hiểm chưa có lối ra…

Chặng đường đau khổ này tất cả mọi người đều biết, xin miễn kể lại tại đây… Người Việt nào có thể nhắm mắt trước sự thật nghiêm trọng này? Tôi cũng vậy, mặc dù không lúc nào tôi ngừng suy nghĩ, gạn đục khơi trong, cố níu kéo những điều tốt đẹp đã có, ngày đêm hì hục đi tìm con đường xây dựng mối quan hệ hữu nghị thật, hợp tác thật không thể thiếu giữa nước ta và nước láng giềng khổng lồ này.

Đại hội 19 của ĐCSTQ không làm cho cảm nghĩ tiêu cực nêu trên của tôi mất đi. Thật lòng thì phải nói: Đại hội 19 của ĐCSTQ với kết cục như chúng ta đã biết, đang tăng thêm sự lo lắng trong tôi, vì hai lẽ:

  1. TQ kể từ thời Đặng Tiểu Bình đã và đang trở thành vấn đề của cả thế giới chưa có lời giải; sau đại hội 19 thách thức này đối với cả thế giới càng gia tăng, trước hết là cho các nước láng giềng, trong đó có nước ta.
  2. Không thể nói đất nước ta đã được chuẩn bị sẵn sàng cho đối mặt với mọi vấn đề của cục diện thế giới đã sang trang hôm nay đang thách thức nước ta, trong đó trước hết là những vấn đề xuất phát từ đế chế Trung Hoa trên đường phục hưng đang trực tiếp đặt ra cho nước ta.

 III. Về cái thế kỷ “xám”

Có thể nói lịch sử đế chế Trung Hoa với bản sắc văn hóa và chính trị đã kiến tạo ra nó là liên tục cho đến hôm nay, ngoại trừ khoảng một thế kỷ gián đoạn kể từ khi xảy ra chiến tranh nha phiến lần thứ nhất (1839 – 1842). Nguyên do của sự gián đoạn này là thế giới từ lâu đã chuyển sang thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản, trong khi đế chế trung tâm này (Trung Quốc) vẫn còn đang ngủ. Khi CHNDTH ra đời năm 1949, đế chế này đã tức khắc thức dậy, cho dù nó khoác trên mình chiếc áo cộng sản.

Ngay từ lúc còn thân cô thế cô trong thời Mao, đế chế thức dậy này đã ấp ủ khát vọng “gió Đông thổi bạt gió Tây”, thực hiện những chiến dịch phát triển cuồng vỹ với nhiều tội ác đẫm máu cho theo đuổi khát vọng bá vương, xử sự với thế giới bên ngoài theo phương châm “thiên hạ đại loạn, Trung quốc đại trị!”, “mục tiêu biện minh cho biện pháp”…

Mao thất bại vì quá vỹ cuồng, song đế chế thức dậy này kể từ thời Đặng Tiểu bình cho đến hôm nay đã tìm ra được con đường phục hưng của nó: Nương vào sự vận động của thế giới, đem toàn lực và lợi thế nước đông dân số 1 thế giới để trở thành công xưởng của thế giới, khai thác như vơ vét triệt để quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới đang ở thời kỳ cao trào theo cách có lợi nhất cho Trung Quốc.

Quá trình phát triển nêu trên khởi đầu từ quan điểm chiến lược “dò đá qua sông”, “giấu mình chờ thời” trong thời Đặng, rồi đến chặng đường “trỗi dậy hòa bình”… Với nền kinh tế có quy mô lớn thứ 2 thế giới và là một thị trường mà kinh tế thế giới không thể bỏ qua, quyền lực mềm của Trung quốc đã luồn sâu đáng kể tại không ít quốc gia trên thế giới, đồng thời chủ nghĩa thực dân mới của Trung Quốc đã bỏ xa chủ nghĩa thực dân mới của các nước tư bản thời sau chiến tranh thế giới II… Ngoài những căn cứ quân sự xây trên các đảo Trung quốc lấn chiếm trên Biển Đông, thiết lập vùng cấm bay trên biển Hoa Đông, Trung Quốc đã thuê được căn cứ quân sự ở Djibouti (châu Phi), sẽ mở tiếp ở Pakistan, đã tăng cường ảnh hưởng ở nhiều nước châu Phi, là nhân vật số 1 của diễn đàn BRICS (khối các nước nền kinh tế mới nổi hàng đầu thế giới).., v… v… Hơn nữa nhiều thể chế và định chế là rường cột làm nên trật tự kinh tế và chính trị hiện hành của thế giới đã và đang bị Trung Quốc và phương thức phát triển của nó làm méo mó hoặc bị lũng đoạn đáng kể.

Trong khi đó việc các cường quốc phương tây xây dựng “luật chơi” mới nhằm thay đổi xu thế vận động này của Trung Quốc không thành công. Mọi nỗ lực của Mỹ và phương Tây muốn lôi kéo Trung quốc cùng đi với mình để trở thành một cường quốc có trách nhiệm đối với thế giới, hoặc muốn kiềm chế Trung Quốc, đều thất bại.

Bằng những chiến lược thực dụng khác nhau qua từng thời kỳ phát triển, GDP per capita của Trung quốc năm 1978 (khi bắt đầu đổi mới theo quan điểm “mèo trắng, mèo đen…”) là 200 USD, hiện nay đạt khoảng 8000 USD, tăng gấp 40 lần, trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 sau Mỹ, không xa sẽ vượt qua quy mô của Mỹ. Hiển nhiên khó tìm ra được một nước nào trong một khoảng thời gian ngắn lịch sử khoảng 4 thập kỷ đã có thể làm được như vậy để so sánh.

Không thể nói khác: Đế chế thức dậy này của nước 1,3 tỷ dân đã đi được một chặng đường dài trên con đường phục hưng của nó, đang trở thành một nhân tố chi phối theo cách của nó sự phát triển của thế giới. Nói thế giới hôm nay chưa có giải pháp nào hữu hiệu cho “Frankenstein Trung Quốc” chính là vì những lẽ này.

Hôm nay, với tiềm lực kinh tế và quân sự đã đạt được trong tay, đế chế này qua diễn văn khai mạc đại hội 19 của Tập Cận Bình (18-10-2017), đã trân trọng tuyên ngôn trước toàn thế giới mục tiêu sẽ trở thành lãnh đạo thế giới, bằng nền kinh tế sẽ đứng đầu thế giới, với lực lượng quân sự sẽ vượt lên hàng đầu thế giới, với chiến lược “một vành đai, một con đường” là công cụ kinh tế và chính trị hỗ trợ sự thực thi… Tất cả được gói ghém trong “giấc mộng Trung Hoa”, trên nền tảng tư tưởng Tập cận bình đã được đưa vào Điều lệ ĐCSTQ, với sự xác lập đảng là số một quân đội là số hai dưới quyền lãnh đạo tuyệt đối của một lãnh tụ duy nhất được xếp ngang với Mao hoặc thậm chí vượt Mao, được dẫn dắt dưới lá cờ của CNXH đặc sắc Trung Quốc thời đại mới.

Tôi nghĩ, nên vượt lên trên mọi suy nghĩ cảm tính để nhìn thẳng vào sự thật: Trong trò chơi tranh giành quyền lực (games of power), tuyên ngôn này là sự lựa chọn có lý và cần thiết ở thời điểm này cho Trung Quốc trên con đường phục hưng vai trò đế chế của nó. Điều này còn hàm nghĩa với những rối loạn hiện thời, cục diện thế giới đã sang trang hôm nay đang mang lại cơ hội nhất định cho sự lựa chọn như vậy. Thậm chí đây còn là sự lựa chọn duy nhất có thể để Trung Quốc thoát khỏi nguy cơ tan rã trong thế giới toàn cầu hóa hôm nay và nhất quyết không bỏ lỡ cơ hội phục hưng đế chế sờ thấy được trong cục diện quốc tế hiện đang rối loạn này. Nghĩa là một sự lựa chọn chớp thời cơ, vượt nguy cơ ách tắc và tan rã bên trong, tập trung quyền lực cao nhất, quyết đẩy Trung quốc lên phía trước, tất cả thể hiện không thể hiểu nhầm trong khẩu khí vừa hoành tráng vừa đe dọa trong suốt toàn bài diễn văn hơn 3 tiếng đồng hồ!.. Đấy là sự lựa chọn rất quyết liệt chưa từng có của trí tuệ và ý chí của giới tinh hoa trong truyền thống đế chế Trung quốc cho Trung Quốc, nó khác hẳn với những gì rối bời đang diễn ra trong giới cầm quyền ở Mỹ! Sức nặng của mọi vấn đề mà thế giới nói chung và nước ta nói riêng sẽ phải chịu đựng trong đối mặt với đế chế Trung Quốc trên đường phục hưng nằm trọn vẹn trong sự lựa chọn này và khả năng thực thi nhất định của nó.

Đương nhiên, giữa khát vọng giấc mộng Trung Hoa dù được thiết kế tinh khôn như thế nào và thực tế của đời sống thế giới luôn luôn có khoảng cách, rộng hẹp ra sao còn tùy diễn biến của thời cuộc quốc tế. Điều chắc chắn “giấc mộng Trung Hoa” vừa là khát vọng phục hưng đế chế, vừa là một dilemma đời đời của Trung Quốc. Bởi chưng không tập quyền cao độ thì tan rã, đổ vỡ và không phát triển, không đẩy Trung Quốc lên được. Nhưng càng tập quyền nguy cơ đổ vỡ càng gia tăng. Đổ vỡ thời Mao đã minh chứng điều này. Những giá trị cơ bản của truyền thống văn hóa Trung Quốc và sự hình thành cùng với lẽ tồn tại của quốc gia đế chế này tạo ra cái dilemma cố hữu này, có thể nói cố hữu tới mức như là trời buộc, ngoại trừ cho đến khi có sự thay đổi đột biến nào đó! Đây là nhược điểm, đồng thời cũng là chỗ yếu căn bản của đế chế Trung Hoa. Đặc tính này có thể gây khó / dễ cho thế giới, nhiều hay ít tùy diễn biến và phản ứng của thế giới. Chính đặc tính này khiến nó không có khả năng, không có lợi ích trở thành một cường quốc có trách nhiệm với cộng đồng thế giới. Do đó khát vọng vai trò lãnh đạo thế giới sẽ chỉ là một loại thuốc không thể thiếu cho kích thích tinh thần người dân Trung Quốc nhiều hơn là một khả năng hiện thực. Chưa nói đến sự phát triển trên thế giới ngày nay đã đi rất xa không còn chỗ cho một sự lãnh đạo như thế.

Song mối nguy hiểm lớn nhất của “giấc mộng Trung Hoa” đối với thế giới bên ngoài nằm ở chỗ tính mỵ dân của nó kích thích chủ nghĩa dân tộc nước lớn trong tâm lý nhân dân Trung Quốc ở tầm ảnh hưởng và sự tác động lớn chưa từng có, nhất là tại quốc gia này vốn dĩ có truyền thống lịch sử và văn hóa từ ngàn xưa nuôi dưỡng tâm lý dân tộc nước lớn, trước hết là trong đối xử với các nước láng giềng nhỏ yếu hơn… Xin đừng quên nhân dân hai nước Đức và Nhật đã bị đẩy vào chiến tranh thế giới II như thế nào!

Cục diện thế giới hôm nay còn đậm lên một vấn đề thời sự mới khác trước: Trong mối quan hệ giữa 3 nước lớn Mỹ, Trung, Nga với tính cách là những diễn viên chính trên sân khấu tranh giành quyền lực thế giới, dù xảy ra xung đột cục bộ ở bất kỳ đâu, hoặc đạt được thỏa hiệp nào với nhau cho bất kỳ vấn đề gì trên thế giới này, đều có thể làm cho một khoảng trống quyền lực nào đó dưới một dạng nào đó còn đang tồn tại ở khu vực Biển đông càng trở nên “trống rỗng” thêm (more emptier), các nước trong khu vực sẽ lĩnh đủ.

Nhân đây cũng xin lưu ý, trong diễn văn tại đại hội 19, tư tưởng Tập Cận Bình có một nội dung chủ ý nhấn mạnh đến chủ nghĩa Mác đã được Trung Quốc hóa và CNXH đặc sắc Trung Quốc thời đại mới như một phát kiến mới về lý luận và ý thức hệ để tiếp tục dẫn dắt Trung Quốc trên con đường thực hiện giấc mộng Trung Hoa. Đây là một món ăn tinh thần mới, không thể thiếu trong thực đơn của giới tinh hoa trong truyền thống đế chế Trung Quốc chuẩn bi cho nhân dân Trung Quốc, để giữ mộng và xây mộng. Người nước ngoài như chúng ta không có phần trong bữa tiệc này. Nếu tham ăn cố tình dự tiệc, sẽ có thể bị ngộ độc thực phẩm. Chỉ có 6 âm tiết thôi “trung, quốc, hóa, thời, đại, mới”, nhưng đủ nói lên tất cả, không thể “trệch hướng” vào đâu được, và đủ để cho lãnh đạo Trung Quốc tùy nghi vận dụng, cho đối nội cũng như cho đối ngoại. Thực là tài quá! Giỏi quá!.. Là người có khuyết tật hay viết dài, tôi bái phục thừa nhận đây là bậc thầy của sử dụng ngôn từ. Lại tự nhủ mình phải đọc hay nghe những âm tiết này bằng kinh nghiệm.

Tôi nghĩ, không nên võ đoán hoặc suy nghĩ theo thành kiến về hiện tại hay tương lai, để không một giây phút rời tai rời mắt đối với mọi diễn biến tốt / xấu của hiện tại và tương lai. Càng không nên để cho thần hồn nát thần tính. Nhưng cũng xin đừng bao giờ xem thường kinh nghiệm đã tích lũy được. Nhìn lại 40 năm qua, thú thực nhiều lúc tôi có cảm nghĩ sự lớn mạnh của một Trung Quốc bá vương cho đến nay cứ ngày một ngày hai liên tục lừng lững như một con lũ không gì cản được, nhất là tại khu vực Đông Nam Á này, và ảnh hưởng của nó, nhất là sự tham gia của quyền lực mềm Trung Quốc theo kiểu mỗi tình huống đều là một cơ hội “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”, đã gây ra nhiều điều xám xịt trên thế giới những thập kỷ vừa qua, và ngay cả trên nước ta, với nhiều hệ quả lâu dài trùng điệp thiên la địa võng.., trong đó có sự lệ thuộc đang rất khó gỡ của nước ta. Cái cảm giác thế kỷ “xám” của tôi bắt nguồn từ đây.

Không thể không suy nghĩ về cái thế kỷ “xám” có thể này, trước mắt là cho những năm tới, cho một vài thập kỷ tới. 

IV. Lời kết

Mối nguy lớn nhất đối với một quốc gia cũng như một con người không phải là chính bản thân mối nguy ấy – dù là nội dung hay kích cỡ mối nguy ấy như thế nào, mà là sự nhắm mắt trước mối nguy ấy vì bất kỳ lý do nào. Nếu đấy là sự nhắm mắt do khiếp đảm, hoặc do lẩn tránh sự thật, cũng đều đồng nghĩa với tự nộp mạng cho mối nguy ấy.

Như đã nhận đinh bên trên: Không thể nói đất nước ta đã được chuẩn bị sẵn sàng cho đối mặt với mọi vấn đề của cục diện thế giới đã sang trang hôm nay đang thách thức nước ta, trong đó trước hết là những vấn đề xuất phát từ đế chế Trung Hoa trên đường phục hưng đang trực tiếp đặt ra cho nước ta.

Từ chỗ đất nước ta không được chuẩn bị sẵn sàng như vậy đến chỗ “nhắm mắt” cách nhau bao xa? Hay là sự không sẵn sàng này chính là hiện tượng đang nhắm mắt?..

Xin coi hỏi như thế là nhiệm vụ vô cùng nghiêm trọng cho từng người dân Việt Nam, song trước hết là cho ĐCSVN và đội ngũ lãnh đạo của nó, để quyết định thái độ và hành động.

Với quyền lực nắm trọn vẹn vận mệnh đất nước trong tay, trách nhiệm chuẩn bị mọi mặt cho đất nước sẵn sàng với cái thế kỷ “xám” này duy nhất đặt lên vai ĐCSVN và đội ngũ lãnh đạo của nó. Đảng sẽ có công hay tội đối với đất nước hoàn toàn tùy thuộc vào thực thi thành công hay thất bại, hay lẩn tránh trách nhiệm ràng buộc này. Ngay bây giờ Đảng phải tự hỏi mình: Hiện nay Đảng không sẵn sàng, hay chưa đủ sẵn sàng, hay đang nhắm mắt?!

Mở mắt nhìn thẳng vào sự thật, khó khăn nào cũng có lối ra, trước hết để xác lập nhận thức và ý chí phải có, tạo ra sức mạnh đồng thuận của cả nước đưa đất nước ra khỏi những khó khăn hiện nay, có thực lực và bản lĩnh đối mặt với cái thế kỷ “xám”. Đây còn là con đường giành lấy và xây dựng hữu nghị thật, hợp tác thật nước ta không thể thiếu trong quan hệ với Trung Quốc, phải cùng đi với cả thế giới mà giành lấy. Mọi liều thuốc giả đều là tự sát, dù tên gọi của nó là gì, “đại cục”, “tương giao”, “tương đồng”.., dù bằng các liệu pháp trấn áp, cấm đoán, dùng đội ngũ dư luận viên, phát triển hội cờ đỏ…

Cũng xin nhắc lại một lần nữa: ĐCSVN không phải là hay giống như ĐCSTQ, nhiệm vụ chính trị của nó đối với quốc gia Việt Nam hoàn toàn khác với nhiệm vụ này của ĐCSTQ đối với Trung Quốc, như nước khác với lửa, như ngày khác với đêm. Một bên là làm cho đất nước có thực lực, ý chí và bản lĩnh trở thành láng giềng được tôn trọng, một bên là phục hưng đế chế trung tâm thiên hạ. Trong cái thế kỷ “xám” này Việt Nam trước sau vẫn là cái đích của đế chế Trung Hoa trên đường phục hưng.

Nguyễn Trung

Hà Nội, Võng Thị, ngày 06 tháng 11 – 2017

[1] Xin nhấn mạnh như thế để tập trung chỉ nói về quan hệ VN-TQ, những vấn đề quan hệ quốc tế khác của Việt Nam không bàn trong bài này.

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 6-11-17

Bình Luận từ Facebook