Chỗ đứng nào cho Mặt trận Giải phóng Miền Nam?

Phạm Trần

7-9-2017

Những người trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên thệ trong ngày thành lập Mặt trận 20-12-1960. Nguồn: internet

Trong một bài viết trên báo Giáo dục Việt Nam (GDVN) ngày 31/08/2017, Nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ Cộng sản Việt Nam (CSVN), Tiến sĩ Trần Công Trục viết rằng: “Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam là chính phủ hợp pháp được ra đời từ thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân Cách mạnh niền Nam Việt Nam và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Thắng lợi của đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân miền Nam Việt Nam là đã lật đổ chính thể Việt Nam Cộng hòa, và lập ra một cách hợp pháp Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. 

Tính chính danh của chính thể Việt Nam Cộng hòa về mặt đối nội và đối ngoại đã bị xóa bỏ hoàn toàn ngay sau khi Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, ngày 30/4/1975.”

Nhưng điều được gọi là “thắng lợi” ấy từ đâu mà có? Chính phủ và quân độị của nhà nước Cộng sản đội lốt “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” ở miền Bắc đã đóng vai trò gì trong “thắng lợi” này. Và liệu tổ chức gọi là “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam” và “Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam” có thể làm nên cơm cháo gì nếu không có quân miền Bắc xâm lược miền Nam?

Vì vậy nếu chỉ nói mà không nói cho hết ngọn nguồn của những Tổ chức hữu danh vô thực như : Đảng nhân dân Cách mạnh niền Nam Việt Nam; Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (và) Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thì lịch sử sẽ thành ngụy sử.

THẾ NÀO LÀ BÙ NHÌN, TAY SAI?

Vậy trước hết hãy thử tìm hiểu thế nào là bù nhìn, là tay sai?

Ta hãy cùng nghe ông Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Đức Cường, nguyên Viện trưởng Viện sử học, hiện là Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, đồng thời là tổng chủ biên bộ sách Lịch sử Việt Nam mới phát hành ngày 18-8-2017, giải thích tại sao “các nhà sử học “ của đảng CSVN đã “thống nhất bỏ tên gọi ngụy quyền đối với chế độ Việt Nam Cộng Hòa”

Ông nói: “Bản chất chính quyền Sài Gòn và quân đội Sài Gòn theo chúng tôi không có gì thay đổi cả. Đấy là một chính quyền được dựng lên từ đô la và vũ khí, thực hiện chiến lược toàn cầu của Mỹ, ngăn chặn chủ nghĩa Cộng Sản lan xuống vùng Đông Nam Á, đồng thời chia cắt đất nước Việt Nam một cách lâu dài, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Điều đó không có gì nghi ngờ cả”.

“Thứ hai, quân đội Sài Gòn thực chất được Mỹ trang bị hoàn toàn và quan trọng hơn là thực hiện mưu đồ của Mỹ. Đó cũng là một đội quân đi đánh thuê. Thực chất các nhà sử học không có một đánh giá nào khác so với thời gian trước đây”.

“Nhưng về cách gọi, chúng tôi nghĩ rằng trong một văn bản khoa học, mình gọi trung tính vẫn hơn là ngụy quân, ngụy quyền. Bởi vì cách gọi này mang tính biểu cảm, miệt thị cho nên chúng tôi gọi là quân đội Sài Gòn và chính quyền Sài Gòn“.

(Lan Hương, RFA, 21/08/2017)

Lời nói sặc mùi kỳ thị, chủ quan và xuyên tạc của ông Cường đã lột mặt gỉa tạo được gọi là “trung tính” khi bỏ lối gọi xách mé, thù hận và mặc cảm “ngụy quân, ngụy quyền” bằng “quân đội Sài Gòn và chính quyền Sài Gòn”.

Ông Cường cũng đã trắng trợn xuyên tạc vì Mỹ không biến miền Nam thành một “thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ”.

Và Quân đội Việt Nam Cộng hòa chưa hề là “một đội quân đi đánh thuê” cho bất cứ ai. Có chăng là khi VNCH bị miền Bắc xâm lược thì được Hoa Kỳ và các nước Đồng mình giúp để chiến đấu tự vệ chống lại cuộc xâm lăng không thể chối cãi được của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Nếu vẫn còn nghi ngờ thì ông Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Đức Cường và các nhà viết sử Cộng sản hãy đến khấn vái trước di ảnh nguyên Tổng Bí thư Lê Duẩn để nghe ông nói: “Ta đánh Mỹ là đánh cả cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cho cả nhân loại, đánh cho cả bọn xét lại đang đâm vào lưng ta.”

(Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, Nhà xuất bản. Văn Nghệ, 1997, tr. 422)

Như vậy thì lịch sử đã nói rõ “ai là kẻ đánh thuê”, phải không?

Tại sao như thế? Bởi vì tất cả những tổ chức mang tên “miền Nam Việt Nam” không hòan toàn do người miền Nam chủ động mà lại do những người Cộng sản nằm trong đảng Lao Động Việt Nam (Cộng sản) , công khai thành lập và chỉ huy.

Tên gọi đảng Lao Động Việt Nam, được sử dụng từ tháng 2 năm 1951 tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II ở Tuyên Quang, vì nhu cầu chính trị để sửa sai những lỗi lầm khi còn mang tên Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh thành lập ngày 3 tháng 2 năm 1930.

Sau đó tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, được tổ chức vào năm 1976 sau khi chấm dứt Chiến tranh, tên Đảng lại được đổi lại thành Đảng Cộng sản Việt Nam.

NGUỒN GỐC QUẤY PHÁ TRONG NAM

Để chứng minh cho tham vọng gây chiến, phá hoại Việt Nam Cộng hòa của ông Hồ và đảng CSVN, tài liệu Bách kha toàn thư mở viết: “Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III được tổ chức tại Hà Nội vào năm 1960 chính thức hóa công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc, tức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó và đồng thời tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tại miền Nam. Tại miền Nam, đảng bộ Miền Nam năm 1962 công khai lấy tên Đảng Nhân dân cách mạng Miền Nam, là thành viên và lãnh đạo Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam , tuyên truyền chủ nghĩa Marx – Lenin (thành phần Mặt trận còn có Đảng Dân chủ, và Đảng Xã hội cấp tiến và các tổ chức,… do những người cộng sản chủ trương thành lập).”

Nghị quyết của Đại hội III của Đảng Lao động Việt Nam,từ ngày 5 – 10/9/1960 đã viết : “Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến lược:

“Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.

Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau.

Đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ tất yếu sau khi đã hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm cho miền Bắc được ngày càng vững mạnh về mọi mặt thì càng có lợi cho cách mạng giải phóng miền Nam, cho sự phát triển của cách mạng trong cả nước, cho việc gìn giữ và củng cố hòa bình ở Đông Dương, Đông – Nam á và thế giới.

Vì vậy, tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc tiến hành trong khi ở miền Nam phải ra sức tập hợp mọi lực lượng dân tộc và dân chủ, mở rộng và củng cố khối đoàn kết dân tộc, cô lập đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thúc đẩy sự nghiệp đấu tranh củng cố hòa bình, thống nhất Tổ quốc. Vì vậy phương châm tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là: xây dựng miền Bắc, chiếu cố miền Nam.”

Sau Đại hội đảng III, theo tài liệu Bách khoa toàn thư mở thì: “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được chính thức thành lập vào ngày 20 tháng 12 năm 1960 tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành (nay là Tân Biên) trong vùng căn cứ của mình ở tỉnh Tây Ninh, với thành phần chủ chốt là lực lượng Việt Minh (Việt Nam độc lập đồng minh (tên chính thức trong nghị quyết Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương  ) hoạt động bí mật ở miền Nam. Lãnh đạo ban đầu là Võ Chí CôngPhùng Văn CungHuỳnh Tấn Phát. Huỳnh Tấn Phát giữ chức vụ Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Ủy ban Trung ương.”

Sau đó, tại tại Đại hội lần thứ nhất khai mạc ngày 16 tháng 2 năm 1962 tại Tân Biên (Tây Ninh) chính thức bầu Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch.

Tuy nhiên ai cũng biết Tổ chức này được thành lập dưới sự hậu thuẫn của chính phủ và quân đội Cộng sản Việt Nam.

Vì vậy, các tài liệu phổ biến trên Internet đã viết: “Mặt trận đặt dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam và Trung ương Cục miền Nam. Những người Cộng sản miền Nam hoạt động dưới danh nghĩa Đảng Nhân dân cách mạng Việt Nam, hoạt động công khai và là thành viên tham gia Mặt trận. Trung ương Cục Miền Nam là tổ chức đại diện Đảng Lao động trong Nam, hoạt động bí mật (đến 1969 công khai), thời kỳ chiến tranh không công khai về vai trò chỉ đạo (trong khi Đảng Nhân dân Cách mạng là đảng hoạt động công khai), trực tiếp chỉ đạo hay phối hợp với Trung ương Mặt trận – Chính phủ, với Ban dân vận Trung ương Cục (phụ trách dân vận – mặt trận – chính quyền) là cầu nối. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặt đại diện tại căn cứ địa của Mặt trận (và Chính phủ cách mạng sau này), và Mặt trận (Chính phủ cách mạng lâm thời) đặt đại diện tại Hà Nội.”

Tài liệu viết tiếp: “Từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 6 năm 1969, Đại hội Đại biểu Quốc dân miền Nam Việt Nam, mà Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là nòng cốt, cùng với Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam do Luật sư Trịnh Đình Thảo làm chủ tịch, đã bầu ra Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam do kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm Chủ tịch, và Hội đồng Cố vấn Chính phủ do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch.”

Vậy cái chính phủ này quan hệ với miền Bắc như thế nào?

Bách khoa toàn thư mở viết: “Trong quan hệ với Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam khẳng định chủ quyền ở miền nam Việt Nam, nhưng không từ chối các tuyên bố về chủ quyền cả nước của Việt Nam Dân chủ cộng hòa (tình trạng một quốc gia nhiều nhà nước-mô hình liên bang). Hai miền lập đại diện. Về phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, công nhận Cộng hòa Miền Nam Việt Nam là chính quyền hợp pháp ở Miền Nam Việt Nam, do đó các văn kiện của nhà nước này có lúc khẳng định có hai chính thể độc lập nhau, nhưng có lúc vẫn khẳng định Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là của cả nước, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam có chủ quyền tại Miền Nam.”

Tài liệu cũng viết rõ: “Ngày nay Nhà nước Việt Nam khẳng định Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, cũng như các mặt trận trước đó và sau này là các tổ chức chính trị – xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện các nhiệm vụ đoàn kết toàn dân dưới lá cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam để đạt mục tiêu chính trị do Đảng đề ra.”

Về những nhân vật Mặt trận GPMN được miền Bắc dựng lên, đáng kể hơn là là Luật sư Nguyễn Hữu Thọ (1910-1996), Chủ tịch Mặt trận Giải phóng miền Nam. Trước khi qua đời, ông được đảng CSVN cho giữ chức Phó Chủ tịch nước rồi Chủ tịch Quốc hội.

Người thứ hai là Kỹ sư Huỳnh Tấn Phát (1913-1989), nguyên Chủ tịch Chính phủ gọi là Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã được bí mật kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 5 tháng 3 năm 1945.

Người thứ ba là bà nguyên Bộ trưởng Ngọai giao của Chính phủ Việt Cộng Nguyễn Thị Bình (sinh năm 1927), được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1948 vì vậy bà được trao Huy chương 70 năm tuổi đàng ngày 31/08/2017.

Ngoài ba nhân vật chóp bu này, nhiều trí thức miền Nam theo Việt Cộng đã quay ra chống đảng CSVN sau khi chiến tranh kết thúc. Nổi bật nhất là Luật sư Trương Như Tảng , nguyên Bộ trưởng Tư pháp trong Chính phủ Huỳnh Tấn Phát.

Nhưng về sau, ông Tảng (sinh ngày 19/05/1923) công khai bất đồng với Chính quyền Cộng sản vì không thi hành chính sách hòa giải hòa hợp dân tộc sau 1975.

Ngày 25 tháng 8 năm 1978, Trương Như Tảng xuống thuyền vượt biển và hơn một tuần sau thì được một tàu hàng Singapore chở tới đảo Galang, thuộc Indonesia. Sau này ông sinh sống ở Pháp.

Trong hồi ký viết bằng tiếng Pháp, Mémoire d’un Vietcong (Hồi ký của một Việt Cộng), ông đã tố cáo chính sách cai tri hà khắc của đảng CSVN đối với “những người miền Nam thua trận”.

Người thứ hai phải kể là cựu chiến binh Nguyễn Hộ (1916-2009) trong Mặt trận Giải phóng miền Nam.

Theo Bách khoa Toàn thư mở thì: “Ông là một trong số lãnh đạo hàng đầu của “Câu lạc bộ Những người Kháng chiến cũ” cùng với các ông La Văn Lâm, Đỗ Trung Hiếu, Trần Văn GiàuTrần Bạch ĐằngTạ Bá Tòng và thượng tướng Trần Nam Trung. Tờ báo Truyền thống Kháng chiến của nhóm này ra mắt số đầu tiên vào tháng 9 năm 1988 nhưng sau đó vì quan điểm bị cho là chỉ trích chính quyền nên báo buộc phải đình bản. Tổ chức này năm 1989 cũng bị chính quyền giải tán.

Bất bình, ông từ bỏ Đảng năm 1991 sau hơn 53 năm trong đảng. Sau đó ông bị bắt và quản thúc tại gia vì tội “chống Đảng”.

Từ đó ông càng phản đối mãnh liệt hơn qua những văn bản như bài luận “Giải pháp Hòa hợp Hòa giải” và cuốn sách “Quan điểm và cuộc sống”. Sách của ông kêu gọi Đảng Cộng sản Việt Nam hãy từ bỏ Chủ nghĩa Marx-Lenin. Cũng vì quan điểm của ông mà ông bị nhà chức trách bắt lần thứ hai năm 1994. Theo ông Việt Nam ở thời điểm năm 2008 chỉ có độc lập chứ không có tự do.”

Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) đã trao ông giải thưởng Hammett-Hellman (Giải Tự do Phát biểu) cho ông. Ông mất ngày 2 tháng 7 năm 2009, thọ 93 tuổi.

Cũng không nên quên, khi giao chiến ở miền Nam, các đơn vị quân miền Bắc đều treo cờ Mặt Trận Giái Phóng miền Nam ở những vùng đất tạm chiếm để tuyên truyền bịp bợm, hay trên cây ăng ten của xe Tăng để diễu hành phô trương. Tiêu biểu cho hình ảnh này là chiếc xe tăng của quân đội miền Bắc húc đổ cổng Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975.

Như vậy rõ ràng những gì mà sách báo của nhà nước CSVN viết về Tổ chức MTGPMN, hay Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (CMLTCHMNVN) cũng cần phải “giảo nghiệm” xem chúng đã phản ảnh được bao nhiêu phần trăm “bù nhìn” và “tay sai” cho đảng và quân đội CSVN.

Nếu cứ nhắm mắt nói bừa cho cái chính danh gỉa tạo thì lịch sử sẽ thành “nát sử”.

Bình Luận từ Facebook

6 BÌNH LUẬN

  1. Xin bạn đừng nói rằng các giáo phái liên minh vời quân giải phóng ! bạn nhắc đến làm các giáo phái sẻ khơi lên sự đau buồn của họ ! cũng chính vì không lôi kéo được họ nên một số giáo chủ các đạo đả bị ám sát và giết chết dưới thời Nguyển Bình và huỳnh văn nghệ !

  2. Làm gì có Mặt trận DTGPMNVN, đến Đảng CS VN cụng chỉ là 1 chi bộ của đảng Bắc kinh

  3. Đôi điếu với Phạm Trần: Ngô Đình Diệm thay Bảo Đại, Mỹ thay Pháp không thi hành hiệp định Genève mới có cuộc Đồng khởi ở miền Nam 1960. Mặt trận DTGPMN, Đảng Nhân Dân CM MN và Chính phủ Lâm thời CH MNVN lần lượt ra đời. Phía Cách mạng miền Nam thành lập lực lượng vũ trang với tên gọi “Giải phóng quân”. Giải phóng quân liên minh với tàn quân giáo phái Cao đài, Hòa hảo, Bình Xuyên (“Cao Hòa Bình”) thành “Quân Giải phóng MN”. Những năm 1960 đến 1964, Quân Giải phóng MN lớn mạnh nhanh chóng, đánh những trận quyết định như Áp Bắc, Phước Thành, Bình Giã, Ba Gia, Dương Liễu, Đèo Nhông… đẩy Quân đội và chính phủ VNCH vào vào đường sụp đổ. Mỹ muốn đổ quân vào cứu VNCH nhưng anh em ông Diệm không đồng ý mới có chuyện “thay ngựa giữa dòng” kết thúc đệ nhứt VNCH, thành lập đệ nhị VNCH. Năm 1965 Mỹ đổ quân vào Nam VN, từ đó quân đội Bắc VN mới vào tham chiến ở miền Nam. Hội nghị 4 bên ở Paris, về danh chính ngôn thuận được thế giới thừa nhận: 2 phía đối đầu ớ Nam VN là Chính phủ CM và VNCH; 2 phía can thiệp là Mỹ và Bắc VN. Vậy là Mặt trận, Chính phủ CM và Đảng Nhân dân CM là chính danh chớ không phải “ngụy” như Phạm trần nói ?.

    • Hoa-ky` va` VNCH khong ky’ vao` Hiep-dinh Geneve do Chu-An-Lai + Phap + Mien Bac ky’ – Do vay tai-sao Mien Nam phai thi-hanh` ?!

    • chao cu lan the vinh, hon 10 nam ve truoc tao cung cu lan nhu nha mi vi mot thang chi vao internet co hon 10 gio nen do do uong uong, khong biet ai dung ai sai, tuc qua tao thue $ us 150 dolla one month unlimit xem gan 15 gio moi ngay phai di mo 2 con mat , cuoi cung tu tay sang tau tao len mang khong thieu mot thu gi .
      Ho tap chuong, lai buon , pham van dong, tuong tau Lu han. ,16 tan vang VNCH
      cuoi cung gan day tao bi benh ,doc truyen dem khuya , vo tinh phat hien
      hoi ky Cu Tran Trong Kim, sach mot doi gio bui
      thi ra ,luy thuy bi bat 1932 giam chung phong voi dai tuong tau cong la thong soai Ho chi minh, sau khi anh quoc tha ten ly thuy , la bo cua ban hien nay. theo lam linh cho dai tuong Ho chi Minh, ly thuy duoc doi ten la Ho tap chuong. den nam1939 Dai tuong Ho chi minh chet, ,ly thuy xin Mao trach Dong cho han duoc manh ten an nhan minh la Dai tuong tau Ho chi minh, that su ly thuy luc dau cung co long yeu nuoc, nhung sau nay ,cac ten tay sai, va han chuyen huong , theo tau 100% muon hieu ro thoi su , hay doc cac hoi ky cu truoc 1975 trung thuc hon
      chanh tri , la mot bai min cuc trau ( khac chinh tri ) chinh tri moi good it ai lam duoc

  4. Hãy để cho lịch sử và nhân dân trên toàn thế giới phán xét ? ai là ngụy quyền và ai là chính quyền .cứ vươn ra khỏi ao nhà VN ,thì trên khắp thế giới nhìn những lá cờ trên khắp thủ đọ các nước những người gọi là kiệu bào Việt nam họ sử dụng lá cờ gì ! ngày nay với internet toàn cầu < không thể bóp méo vo tròn nói sai sự thật ,ngay từ những năm 1950 liên xô và trung quốc đả là chủ của ai ! và ai là những tên lính tiên phong đi xâm lược và làm tai sai! khi đó Mỷ chưa có ở VN .nên nói chính quyền Saigon làm tai sai cho Mỷ là nói càn ,nhưng trên cõi đời nầy không có gì là đời đời và sống mãi ,rồi đây khi cái đời đời và sống mãi biến mất thì lịch sử vẩn là lịch sử không thể viết sai được ,ngày nay dân đả nhìn thấy quá rõ ai là ngụy ,ai là chính không cần ngụy biện ,

Comments are closed.