6-9-2017
Xin tạm gác “Những chuyện kinh hãi về vụ Năm Cam” để đề cập đến một lịch sử đen không kém phần kinh hãi của Cơ quan quản lý Dược Bộ Y tế.
Vụ VN Pharma đang gây bão trong dư luận chỉ là một phần nổi rất nhỏ trong tảng băng ngầm diễn ra từ rất lâu tại cơ quan Quản lý Dược Bộ Y tế. Cách đây 13 năm, vào năm 2004, Báo Thanh Niên đã đăng 2 loạt bài. Loạt bài thứ nhất: Ai tạo thế độc quyền cho doanh nghiệp tăng giá thuốc? gồm 6 kỳ do tôi và phóng viên Liên Châu viết. Loạt thứ hai: Lật lại hồ sơ vụ tham nhũng lớn tại Cơ quan quản lý Dược – Bộ Y tế, gồm 7 kỳ do tôi và phóng viên Võ Khối viết.
Hai loạt bài đó đã đề cập đến các yếu tố cốt lõi của những vấn đề thời sự đang diễn ra hiện nay: Các nhóm lợi ích câu kết với quan chức nhà nước tạo ra một cơ chế dung túng cho tham nhũng và kinh doanh độc quyền, vừa tăng giá thuốc vừa mở cửa cho thuốc kém chất lượng tràn vào Việt Nam. Đó là cơ chế ăn trên lưng người bệnh và hủy hoại sức khỏe giống nòi để phục vụ cho lòng tham vô đáy của một số người.
Đối với vụ tham nhũng lớn tại Cơ quan quản lý Dược, đích thân Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã chỉ đạo điều tra xử lý, nhưng vụ tham nhũng vẫn bị “chìm xuồng”, sau đó rơi vào quên lãng. Điều đó cho thấy tập đoàn tham nhũng tại đây thế lực lớn đến cỡ nào và có những dây mơ rễ má sâu rộng tới đâu.
Đối với cơ chế tạo độc quyền tăng giá thuốc, điều nguy hiểm là cơ chế này đã ăn sâu vào hệ thống đến mức không thể sửa được. Tại thời điểm này, có thể một số thứ đã thay đổi, nhưng những vấn đề cốt lõi chỉ bị biến tướng khó phát hiện mà thôi.
Những gì mà chúng tôi điều tra và phân tích lúc đó có thể dẫn đến một kết luận đáng buồn: Bộ trưởng Y tế, dù là người nào, cũng không điều khiển được Cơ quan quản lý Dược với những quy định đã đóng đinh vào hệ thống, mà ngược lại, hoặc là bị Cơ quan này điều khiển, hoặc là phải rời khỏi nhiệm sở để bảo toàn danh tiết.
Những chuyện chúng tôi đề cập trong hai loạt bài nói trên lâu nay báo chí không thấy đề cập đến, hoặc có thể có nhưng lọt khỏi tầm theo dõi của chúng tôi, điều đó cũng chứng tỏ có những rào cản vô hình trong việc tiếp cận thông tin. Về phía bản thân, sau vụ PMU18 tôi không còn được Báo Thanh Niên giao nhiệm vụ làm những phóng sự điều tra.
Chúng tôi không có ảo tưởng rằng “cái lò” của Tổng Bí thư có thể “đốt” được tới đây, vì cả củi khô lẫn củi tươi khó có thể gom lại được mà đốt. Nó chỉ có thể được cải sửa kiên trì và tiệm tiến bởi những con người không phải là tác giả của cơ chế quản lý Dược hiện hành và không dính dáng xa gần với những lợi ích tạo ra từ cơ chế đó. Nó chỉ có thể là nhiệm vụ của một Chính phủ liêm chính.
Nhưng muốn cải sửa thì trước hết phải mổ xẻ cho hết các khối u cùng dây mơ rễ má của chúng. Đó là nhiệm vụ của các nhà báo và những người có trách nhiệm trong cộng đồng mạng xã hội. Tôi phải nhấn mạnh đến “những người có trách nhiệm”, vì chửi bới mà xuất phát từ những thông tin suy diễn thiếu căn cứ không những không có lợi gì cho việc bảo vệ sức khỏe toàn dân mà còn tiếp tay cho các nhóm lợi ích cố kết lại để đối phó.
Loạt bài “Lật lại hồ sơ vụ tham nhũng lớn tại cơ quan quản lý Dược” có thể đọc tại đây.
Stt này giới thiệu trước 2 kỳ của loạt bài “Ai tạo thế độc quyền cho doanh nghiệp tăng giá thuốc”. Xin lưu ý, kỳ 1: Zuellig Pharma – “kẻ đột nhập”, là chuyện đã cũ có thể không còn mang tính thời sự, nhưng kỳ 2 : Bí ẩn giá thuốc, thì vẫn mang tính thời sự.
Ai tạo thế cho doanh nghiệp độc quyền tăng giá thuốc?
Hoàng Hải Vân – Liên Châu
Những kẽ hở về luật pháp cũng như sự bất lực, vô trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước chính là nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc các công ty dược nước ngoài thao túng thị trường tân dược Việt Nam.
Kỳ 1: Zuellig Pharma – “kẻ đột nhập”
Sau khi báo Thanh Niên và một vài tờ báo khác thông tin về tình hình tăng giá thuốc, trong đó có đề cập đến các hoạt động của Zuellig Pharma Việt Nam (ZPV), trong một bức thư gửi cho báo Thanh Niên mới đây, ZPV khẳng định: “Thị trường dược phẩm Việt Nam là một thị trường mang tính cạnh tranh cao độ với hơn 400 công ty trong nước và nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh dược phẩm. Theo thông lệ quốc tế cũng như những ý kiến đóng góp cho dự thảo Luật Cạnh tranh của Việt Nam gần đây, một công ty được xem là có vị trí độc quyền khi giữ vai trò thống trị và chiếm từ 30% thị phần trở lên trong lĩnh vực kinh doanh của mình, trong khi đó Zuellig Pharma Việt Nam hiện chỉ có được 15% thị phần dược phẩm trong nước và không thể bị coi là có vai trò thống trị”. ZPV còn cho rằng: “Thời gian qua, giá cả bị biến động mạnh do có lúc đồng tiền Việt Nam mất giá nghiêm trọng so với đồng Euro hoặc đồng Frankc Thụy Sĩ hoặc đồng đô la Mỹ. Các lô hàng sản xuất cho Việt Nam thường có số lượng nhỏ hơn so với công suất tối thiểu của dây chuyền sản xuất cũng đã ảnh hưởng đến quyết định điều chỉnh giá sản phẩm của nhà sản xuất”.
Để thay cho lời bình luận về sự khẳng định của ZPV, chúng tôi xin cung cấp thêm những thông tin liên quan để bạn đọc tự rút ra nhận xét.
Trong báo cáo gửi Phó thủ tướng Phạm Gia Khiêm về các giải pháp cấp bách bình ổn giá thuốc, Bộ Y tế nêu rõ: Trong tổng số 500 loại thuốc nước ngoài tăng giá (theo kết quả của những cuộc thanh tra gần đây) thì đã có 157 loại thuốc do Công ty Zuellig Pharma Việt Nam (ZPV) phân phối. Thuốc do ZPV phân phối tăng giá với mức 2%-12%, thậm chí có loại tăng 30%-60% (giá bán sau 1/10/2003 so với giá bán trước đó). Theo giấy phép số 08/GP-KCN-HN, ngày 29/3/1999 và các giấy phép đầu tư điều chỉnh với phạm vi hoạt động trong lĩnh vực dược do Ban Quản lý các khu công nghiệp và khu chế xuất Hà Nội cấp và các quy định có liên quan của Bộ Y tế thì ZPV chỉ được bán dược phẩm cho các doanh nghiệp trong nước có tư cách pháp nhân và chức năng kinh doanh dược phẩm.
Tuy nhiên, Thanh tra Bộ Y tế đã phát hiện, ZPV đã bán hàng cho các đối tượng mà mình không được phép phân phối như: nhà thuốc, bệnh viện… Song việc phân phối thuốc này lại được “hợp pháp hóa” bằng hình thức ký hợp đồng với Công ty cổ phần Dược liệu T.Ư 2 (Phytopharma). Hợp đồng có điều khoản “Phytopharma là bên bán lại các dược phẩm cho các khách hàng do ZPV chỉ định tùy theo từng thời điểm (các khách hàng) trong lãnh thổ, theo các điều khoản và điều kiện của hợp đồng này. Việc chỉ định cho Phytopharma mua các sản phẩm từ ZPV và bán lại các sản phẩm đó cho các khách hàng do ZPV xác định và với giá bán do ZPV quy định” (trích từ điều 01 Hợp đồng mua bán nguyên tắc ký ngày 25.5.2002 giữa Công ty cổ phần Dược liệu T.Ư 2 và Công ty TNHH Zuellig Pharma Việt Nam). Cơ quan thanh tra khẳng định, trên thực tế Phytopharma nhận thông tin chỉ định việc phân phối cho nhà thuốc, bệnh viện, bán lẻ, loại thuốc, giá cả… từ ZPV cung cấp. Phytopharma không trực tiếp thực hiện các công đoạn của quá trình phân phối mà chỉ xuất hóa đơn để cho nhân viên của ZPV tự xuất hàng, giao hàng từ kho của ZPV cho bệnh viện, nhà thuốc, bán lẻ và tự thu tiền.
Rõ ràng là bằng một động tác đơn giản là “mượn danh” (đúng hơn là thuê) một công ty trong nước, ZPV đã lách khỏi sự giới hạn của luật pháp và trở thành doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài duy nhất được quyền phân phối sản phẩm tại Việt Nam. Điều đó đã tạo cho công ty mẹ của ZPV là Zuellig Pharma Singapore (ZPS) có lợi thế hơn tất cả các công ty nước ngoài khác và là lý do để các nhà sản xuất lớn lựa chọn Zuellig là nhà phân phối độc quyền các sản phẩm của họ tại Việt Nam. Trong số 4.467 loại thuốc nước ngoài có số đăng ký với trên 900 hoạt chất thì số hoạt chất thuộc các thuốc do ZPS cung cấp vào Việt Nam đã lên tới 180 hoạt chất (trong đó, 97 hoạt chất chỉ duy nhất có 1 số đăng ký; khoảng 55 hoạt chất có từ 2 – 5 số đăng ký, 18 hoạt chất có 5 số đăng ký nhưng chỉ duy nhất do ZPS cung cấp). Đa số các thuốc do ZPS cung cấp là thuốc được bảo hộ về tên thương mại, nhãn hiệu hàng hóa.
Chỉ chưa đầy 3 năm được phân phối thuốc tại thị trường Việt Nam, ZPV đã giúp cho doanh thu của công ty mẹ tăng đáng kể. Doanh số của ZPS đứmg đầu trong tổng số các doanh nghiệp nước ngoài ký kết hợp đồng mua bán với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam. Cụ thể: năm 2001 khoảng 47 triệu USD, năm 2002 là 64 triệu USD và 9 tháng đầu năm 2003 là 51 triệu USD (doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu chỉ thực hiện dịch vụ nhập khẩu và hưởng phí ủy thác).
Việc ký hợp đồng phân phối sản phẩm giữa ZPV với Phytopharma có thể là không sai luật pháp, nhưng rõ ràng là không bình thường. Vì chỉ riêng việc mượn danh một doanh nghiệp khác để phân phối sản phẩm cũng đã làm cho giá thuốc đội lên. ZPV khẳng định họ “luôn tuân thủ luật pháp Việt Nam”. Chúng tôi cũng không quy kết những hoạt động nói trên của ZPV là sai luật pháp. Vấn đề đặt ra là vì sao ZPV có thể trở thành một doanh nghiệp độc quyền chi phối thị trường dược Việt Nam và họ đã “đột nhập” vào vị trí đó bằng cách nào?
________________________
ZPV cho rằng: “…Chỉ trong trường hợp mà nhà sản xuất điều chỉnh giá sản phẩm nào, chúng tôi mới buộc phải điều chỉnh giá sản phẩm ấy. Thời gian qua, giá cả bị biến động mạnh do có lúc đồng tiền Việt Nam mất giá nghiêm trọng so với đồng Euro hoặc đồng Frankc Thụy Sĩ hoặc đồng đô la Mỹ. Các lô hàng sản xuất cho Việt Nam thường có số lượng nhỏ hơn so với công suất tối thiểu của dây chuyền sản xuất cũng đã ảnh hưởng đến quyết định điều chỉnh giá sản phẩm của nhà sản xuất” (trích thư gửi báo Thanh Niên). Lý do mà ZPV đưa ra rõ ràng là không có sức thuyết phục. Thứ nhất là giá ngoại tệ tuy có tăng, nhưng trong vòng 3 năm qua không hề có tình trạng đồng Việt Nam “mất giá nghiêm trọng” so với các loại ngoại tệ. Thứ hai, việc các hãng dược nước ngoài sản xuất riêng các lô hàng để xuất khẩu sang Việt Nam là rất khó hiểu. Thứ ba, có những lô hàng nhập khẩu (ủy thác qua Phytopharma) có mức chênh lệch giữa giá nhập khẩu với giá bán buôn lên tới 20-60%, thậm chí một số loại thuốc chênh lệch tới 150-200%, ZPV giải thích như thế nào về tình trạng đó ?
__________________________
Kỳ 2: Bí ẩn giá thuốc
Từ hãng bào chế cho đến người bệnh ở Việt Nam, một viên (lọ, ống…) thuốc chữa bệnh phải đi qua một mê hồn trận cực kỳ rối rắm với vô số các tầng nấc của lòng tham, cơ chế quan liêu và tình trạng suy đồi y đức…
Theo Bộ Y tế, mạng lưới cung ứng thuốc của Việt Nam đã đáp ứng 2.200 dân có một điểm bán lẻ thuốc, cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn của WHO (tối thiểu 3.000 dân có một điểm bán thuốc). Cùng với các doanh nghiệp nhà nước là hơn 500 công ty tư nhân và 88.000 nhà thuốc đại lý, tạo nên mạng lưới kinh doanh dược rộng, phủ kín các xã trong toàn quốc. Mặc dù có sự phân bố chưa đồng đều giữa thành thị và nông thôn, nhưng theo nhận xét của Ngân hàng Thế giới (WB) thì phạm vi bao phủ của mạng lưới đó là “quá đủ” và Việt Nam “không có dấu hiệu thiếu thuốc”. Thế nhưng, theo báo cáo mang tên “Định giá và bồi hoàn dược phẩm ở Việt Nam” trong đợt làm việc tại nước ta từ ngày 9 – 13/2/2004, WB nhận xét: “Các báo cáo không ngừng khẳng định giá thuốc nhập khẩu, thuốc được bảo hộ bản quyền đã tăng mà không có lý do rõ ràng. Người ta cũng dự đoán rằng nếu không có biện pháp thích hợp của các cơ quan chức năng thì giá thuốc vẫn tiếp tục tăng”. Và WB còn cảnh báo: “Mặc dù có thể lập luận được là đã có thuốc thiết yếu, nhờ vậy đã đảm bảo được chất lượng chăm sóc tối thiểu, nhưng việc tăng giá không ngừng của thuốc nhập khẩu sẽ dẫn đến những bất ổn về chính trị và xã hội, và cuối cùng sẽ hạn chế tiếp cận đối với những thuốc này”. Cần biết, theo ước tính của WB, thuốc sản xuất trong nước tuy chiếm từ 60-70% về khối lượng trên thị trường dược phẩm, nhưng chỉ chiếm 20-30% giá trị của thị phần, điều này cho thấy giá thuốc sản xuất trong nước rẻ hơn rất nhiều so với thuốc nhập khẩu.
Việc tăng giá thuốc được các hãng dược thực hiện qua nhiều tầng nấc, khi hiện khi ẩn, Nhà nước hầu như không kiểm soát được và cũng không có cơ chế kiểm soát.
Như chúng tôi đã thông tin, chỉ trong vòng 1 năm (tháng 3/2004 so với tháng 3 năm ngoái) giá dược phẩm và dịch vụ y tế tăng tới 15,3% (chủ yếu do giá thuốc tăng). Tuy đó là mức tăng rất không bình thường, nhưng vấn đề không phải là việc tăng giá mà ở chỗ giá thuốc ở Việt Nam có nhiều loại cao hơn một cách khó hiểu so với giá cùng một loại thuốc ở các nước châu Âu.
Kết quả thanh tra về giá thuốc mới đây cho thấy trong khi mức chênh lệch giữa giá nhập khẩu của các công ty xuất nhập khẩu dược phẩm và giá bán buôn thuốc của chính công ty này chỉ ở mức từ 5-8% thì các thuốc được nhập khẩu ủy thác qua các công ty nhà nước theo yêu cầu của các công ty TNHH và do chính các công ty này phân phối độc quyền, cắt lô, thì tỷ lệ chênh lệch giữa giá nhập khẩu so với giá bán buôn lên tới 50-300%. Các loại thuốc này được bán vào nhà thuốc bệnh viện, khoa dược bệnh viện, trung tâm y tế hoặc bán ngược lại cho công ty xuất nhập khẩu của nhà nước để đấu thầu bán vào bệnh viện. Đó là việc nâng giá lộ liễu, chỉ cần thanh tra là thấy rõ, nhưng không có cơ chế xử lý.
Nhưng không chỉ có vậy. Nhiều nhà kinh doanh dược phẩm chuyên nghiệp cho chúng tôi biết, nếu chỉ nhìn vào hóa đơn thương mại thì không thể biết mức chênh lệch thật giữa giá nhập khẩu và giá bán buôn là bao nhiêu. Vì có rất nhiều loại thuốc người ta đã nâng giá ngay từ nước ngoài, rồi làm hóa đơn với giá cao xuất vào Việt Nam. Phần lợi nhuận hạch toán tại Việt Nam có thể bé nhỏ, nhưng các khoản lợi nhuận khổng lồ thì để lại ở nước ngoài, không có bất cứ cơ quan nào của Việt Nam có thể kiểm soát được.
Một dược sĩ, giám đốc một công ty dược ở TP Hồ Chí Minh (xin được giấu tên) kể với chúng tôi một câu chuyện sau đây về giá thuốc. Gần đây, một công ty nước ngoài có mời một đoàn bạn hàng dược 20 người ở một quận của TP Hồ Chí Minh đi du lịch tại Ai Cập. Những người này có mời 2 cán bộ một công ty dược nước ngoài ở Việt Nam cùng đi, gồm 1 người nước ngoài và 1 nhân viên Việt Nam làm phiên dịch. Đây là chuyến du lịch Ai Cập đầu tiên do Vietnam Airlines tổ chức. Trong khi đi dạo chơi mấy ngày ở nước bạn, những người này đã vào một hiệu thuốc. Là những người buôn bán dược phẩm, họ rất ngạc nhiên khi thấy nhiều loại thuốc ở đây còn rẻ hơn rất nhiều so với giá bán sỉ ở Việt Nam. Những bạn hàng đó nói với cô phiên dịch của công ty dược nói trên, không biết cô ta nói lại với người bạn nước ngoài như thế nào nhưng cả hai cùng im lặng. Những người này bèn bỏ ra mỗi người 1.000 USD mua những loại thuốc đó. Về đến Thái Lan, số thuốc này bị bắt giữ, nhưng người hướng dẫn du lịch của Vietnam Airlines đứng ra xin cho, anh ta giải thích với Hải quan Thái Lan rằng đây là những người đi nghiên cứu thị trường dược, thuốc đó là thuốc mẫu mang về tham khảo. Hải quan Thái Lan thông cảm cho mang hàng đi. Về Việt Nam, họ đem bán số thuốc đó và lời từ 50 – 100%.
Câu chuyện của các bạn hàng dược mà ông dược sĩ kể lại là sự thật phổ biến. Theo khảo sát của chúng tôi, giá bán sỉ một số loại thuốc ở nước ngoài và ở Việt Nam có mức chênh lệch như sau:
TERNEURINE H5000 (thuốc chữa đau nhức thần kinh), hộp 4+4 ống, giá bán sỉ ở Pháp là 5,34 euro, tương đương với 100.018 đồng. Còn bán sỉ trong nước là 160.000 đồng, gấp 1,6 lần.
TANGANYL (thuốc chữa rối loạn tiền đình), hộp 20 viên, giá 2,96 euro (55.589 đồng); giá bán sỉ trong nước 92.000 đồng, gấp 1,7 lần.
NEOCODION (thuốc ho) hộp 20 viên, giá 0,88 euro (16.526 đồng); giá bán sỉ trong nước và 36.500 đồng, gấp 2,2 lần.
MYCOSTATINE (viên đặt phụ khoa), hộp 12 viên, giá bán sỉ ở Pháp hiện nay là 0,72 euro, tương đương với 13.522 đồng, còn giá bán sỉ ở Việt Nam là 33.000 đồng, cao gấp 2,44 lần.
LÉNITRAL 2,5 mg (thuốc chữa bệnh đau tim), hộp 60 viên, giá 1,82 euro (34.180 đồng), giá bán sỉ ở Việt Nam là 144.000 đồng, gấp 4,2 lần.
PALPAX (thuốc điều chỉnh nhịp tim), hộp 40 viên, 1,91 euro (35.870 đồng), giá bán sỉ trong nước 180.000 đồng, gấp 5 lần. …
Như trên đã nói, ở Việt Nam không thiếu thuốc, không khan hiếm thuốc, nhưng vì sao giá thuốc lại tăng, vì sao giá nhiều loại thuốc lại cao vọt so với giá quốc tế? Câu hỏi đó không khó trả lời. Đó là chính ngành dược nước ta đã tạo sự độc quyền cho các hãng dược nước ngoài. Nhưng trả lời đúng câu hỏi đó thì lại động chạm đến hai yếu tố, một yếu tố trơ lỳ nhất và một yếu tố “nhạy cảm” nhất. Đó là cơ chế và lòng tham của con người. Trong bài trước, chúng tôi có dẫn thư của Công ty Zuellig Pharma Việt Nam (ZPV), họ nói rằng họ mới chiếm 15% thị phần dược phẩm Việt Nam nên không thể coi họ có vị trí độc quyền được. Chúng tôi có thể nói ngay rằng, không những 15% mà dù họ chỉ chiếm 1% hay thấp hơn thì họ vẫn giữ độc quyền, bởi vì theo cơ chế hiện nay, một loại thuốc cấp số đăng ký cho ai thì người đó giữ độc quyền tuyệt đối đối với loại thuốc đó trên thị trường Việt Nam. Kỳ sau chúng tôi sẽ nói rõ về sự trơ lỳ và “nhạy cảm” của cơ chế này…
______________
Vì không chính thức có biện pháp kiểm soát giá, cho nên những người cung cấp thuốc có đủ khả năng tăng giá. Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy những người cung cấp sẽ ngày càng tận dụng quyền tự do này để tăng tối đa lợi nhuận thông qua việc tăng giá. (Trích nhận xét của WB về vấn đề giá dược phẩm ở Việt Nam).
______________
(Còn tiếp)