Võ Văn Tạo
Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược
Những cái trái khoáy, ngang ngược đến trơ trẽn của sân golf Tân Sân Nhất, sân golf Gia Lâm, của những khu đất khoác áo “quốc phòng” cho thuê mấy chục năm qua đã phơi bày rõ ràng đến mức có thuê cả ngàn luật sư giỏi nhất thế giới biện hộ cũng thất bại.
Làn sóng công luận bức xúc đang rộ lên, làm người đứng đầu chính phủ, dẫu muốn hay không, không thể không lên tiếng. Nhiều quan chức, tướng lĩnh, đã nghỉ hưu hay đương chức, cũng tỏ thái độ không đồng tình trước trào lưu tướng tá quân đội, núp danh nghĩa “làm kinh tế”, đang trở thành những con sâu ngày đêm đục khoét đất nước, chạy chức chạy quyền, mua lon bằng mọi chiêu trò, làm mất thanh danh quân đội, suy yếu sức mạnh huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu.
Báo Tuổi Trẻ đưa tin, ngày 23/6, tại cuộc làm việc của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc với TP HCM, thượng tướng, ủy viên TW đảng, Thứ trưởng Quốc phòng Lê Chiêm tuyên bố: “Hiện nay đã có một chủ trương của Bộ Quốc phòng là quân đội sẽ không làm kinh tế nữa, mà tập trung cho xây dựng quân đội chính quy hiện đại”. Và “chúng tôi đang cho thanh tra toàn bộ đất quốc phòng ở TP.HCM”. Tuyên bố trên của ông Chiêm phần nào xoa dịu cơn bức xúc của công chúng.
Những tưởng, Bộ Quốc phòng sẽ nghiêm túc tiếp thu dư luận xã xội cũng như chỉ đạo của thủ tướng chính phủ. Nào ngờ, chỉ mấy hôm sau, ngày 7/7, tại cuộc làm việc với Tập đoàn Viễn thông quân đội Viettel, Đại tướng, ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch lại khẳng định: “tham gia phát triển kinh tế, xây dựng kinh tế là chức năng, thể hiện được truyền thống của quân đội nhân dân Việt Nam”. Và ông Lịch còn chỉ đạo:“trách nhiệm chính trị của đảng bộ quân đội là phải phấn đấu có thêm nhiều doanh nghiệp như Viettel”. Chưa hết, ngày 12/7, làm việc với Tổng công ty quân đội Tân Cảng, ông Lịch lại nhấn mạnh: “Kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế là một chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng”; “Nhiệm vụ tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế đã, đang và sẽ là một chức năng, nhiệm vụ của quân đội”…
Con ngáo ộp “chủ trương”
Vâng, cái gì không thể biện minh thuyết phục thì cứ đem “con ngáo ộp” “chủ trương” của đảng ra mà diễn trò cả vú lấp miệng em. Chương trình khai thác bô xít Tây Nguyên bán cho Trung Quốc bị hàng trăm trí thức, trong đó có đại tướng Võ Nguyên Giáp, phân tích thiệt hơn, mổ xẻ lỗ lãi, can gián, Quốc hội và nhân dân cả nước băn khoăn thì thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng “dán băng keo miệng” Quốc hội xanh rờn “đây là chủ trương lớn của Bộ Chính trị”. Vậy là Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất trên danh nghĩa, cũng “tắt đài”. Và hậu quả của cái chương trình chết tiệt ấy ra sao thì mấy năm qua, cả nước đã rõ.
Và đấy mới là làm thử trên quy mô nhỏ. Nếu triển khai đại trà từ đầu thì sự thể còn thê thảm đến đâu!
Xa hơn, những cái gọi là “cải cách ruộng đất”, “hợp tác hóa nông nghiệp”, “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”, “đánh tư sản”, “xóa bỏ tư hữu, công hữu hóa toàn bộ tư liệu sản xuất cơ bản”, “ngăn sống cấm chợ”, “kinh tế kế hoạch hóa”, “kinh tế nhà nước là chủ đạo”… chẳng phải những “chủ trương lớn” của đảng đó sao? Hậu quả, di hại của những “chủ trương lớn” ấy ra sao, thiết tưởng khỏi cần nêu.
Bệnh kiêu ngạo cộng sản
Lê Nin, cha đẻ nước Nga – Xô viết là người đầu tiên bắt đúng căn bệnh kinh niên mãn tính của tuyệt đại đa số những người cộng sản: bệnh kiêu ngạo. May mắn giành được quyền lực nhờ bạo lực vũ trang, những người nhìn chung là thất học hay ít học, hoàn toàn xa lạ với quản lý và xây dựng kinh tế – xã hội, nhưng lại luôn dương dương tự đắc và ngạo mạn, tự huyễn có thể làm được tất cả. Họ liên tiếp phạm sai lầm nghiêm trọng, nhưng rất hiếm khi nhìn nhận.
Thời người viết bài này còn mài đũng quần trên giảng đường Đại học Ngoại thương Hà Nội, đã thuộc nằm lòng câu kinh điển: “chủ trương của đảng luôn luôn đúng, nhân dân ta anh hùng, cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, mọi sai lầm là do cấp trung gian” trong các giáo trình đại học. Sau kỳ thi tốt nghiệp đại học 1979, khóa chúng tôi phải qua 3 tháng huấn luyện sĩ quan dự bị. Tại khóa huấn luyện, vị trung tá giảng viên chính trị đến từ Học viện Hậu cần cũng lặp lại luận điểm cũ rích ấy. Nhưng những cái đầu biết suy nghĩ của sinh viên không thụ động tiếp thu. Một số học viên nêu thắc mắc: “Xin hỏi giáo viên, trước đây trong chiến tranh chống Pháp, rồi chống Mỹ, đảng chỉ đạo trực tiếp từ Bộ Chính trị, trung ương đảng đến thẳng các binh nhất, binh nhì, hay cũng phải qua các cấp chỉ huy trung gian, từ tướng đến tá, đến úy? Tại sao trong chiến tranh, ta thành công, mà hòa bình, xây dựng kinh tế lại thất bại?”. Vị trung tá giáo viên “chết đứng”, tảng lờ câu hỏi ấy, bèn về hậm hực báo cáo Giám đốc Học viện Hậu cần – thiếu tướng Hoàng Kiện. Tại lễ tốt nghiệp và trao quân hàm khóa sĩ quan dự bị, tướng Hoàng Kiện khai hỏa: “Con người ta chỉ cần 3 năm để học nói, nhưng 60 năm chưa chắc đã học được cách im lặng”. Rồi ông dành hơn 10 phút để công kích gay gắt các học viên thắc mắc, cho rằng như vậy là các sinh viên – sĩ quan dự bị hậu cần thiếu tin tưởng tuyệt đối vào chủ trương, đường lối, chính sách, nghị quyết của đảng…
Sức mạnh của quân đội là ở đâu?
Có lẽ, trên thế giới, chẳng quốc gia nào quan niệm sức mạnh quân đội có được là nhờ làm kinh tế, trừ Việt Nam (!). Ngay Trung Quốc, một “khuôn mẫu” mà chóp bu Việt Nam luôn học hỏi, từ lâu cũng chủ trương nghiêm cấm quân đội, công an làm kinh tế.
Lợi hại của việc quân đội “làm kinh tế” thì đã rõ, nhiều chuyên gia, nhà quản lý đã phanh phui mổ xẻ. Đó là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng, tiêu cực, bè cánh, mất đoàn kết, bất công và lãng phí nguồn lực đất nước.
Không phải không có ẩn ý, khi tướng Lê Chiêm nói “quân đội sẽ không làm kinh tế nữa, mà tập trung cho xây dựng quân đội chính quy, hiện đại”. Có nghĩa là, nếu quân đội cứ làm kinh tế, sẽ không tránh khỏi sao nhãng xây dựng chính quy, hiện đại.
Chức năng của quân đội là đánh giặc. Giặc nào ngán sợ một quân đội mà tướng tá lúc nào cũng chúi mũi vào tiền bạc?
Thời thế hệ chúng tôi ra trận, quân đội không làm kinh tế. Phải chăng vì thế chúng tôi không đủ sức mạnh để buộc Hoa Kỳ phải rút quân, thu giang sơn về một mối?