Trân Văn
4-2-2022
Bạn đã từng đọc chưa? Nếu chưa và muốn thử tìm hiểu xem họ như thế nào, hãy dùng Google với key word là “Tuyên úy”. So với Four Chaplains, họ chẳng khác lắm đâu!
Hôm qua – 3/2/2022 – người Mỹ, đặc biệt là những người Mỹ đã hoặc đang phục vụ quân đội tưởng niệm Four Chaplains Day (Ngày Bốn Tuyên úy).
Quân đội nhiều quốc gia, kể cả quân đội Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam có đội ngũ Tuyên úy (Chaplain). Tuyên úy là cách gọi những tu sĩ, giáo sĩ của các tôn giáo được mời gọi và tình nguyện phục vụ quân đội. Các Tuyên úy là những người nâng đỡ tinh thần quân nhân, nhắc nhở, hỗ trợ quân nhân giữ gìn lương tri, tôn trọng phẩm giá con người.
Bốn Tuyên úy được tưởng niệm trong Four Chaplains Day là Alexander D. Goode – một Giáo sĩ Do Thái giáo, John P. Washington – một Linh mục Công giáo và hai Mục sư của hai Giáo phái Tin Lành: George L. Fox (Methodist – Giám lý), Clark V. Poling (Reformed Church – Tân giáo).
Khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, cả bốn vị vừa kể tình nguyện phục vụ quân đội Mỹ, họ cùng tham dự một khóa hướng dẫn về công việc Tuyên úy ở Harvard, sau đó được chỉ định đến phục vụ các đơn vị khác nhau của Lục quân Mỹ ở các căn cứ nằm rải rác tại nhiều tiểu bang: Maryland, North Carolina, Mississippi.
Đầu năm 1943, bốn vị Tuyên úy này tiếp tục được điều động sang châu Âu. Họ cùng có mặt trên USAT Dorchester – một thương thuyền hoạt động cận duyên được quân đội Mỹ trưng dụng để vận chuyển quân nhân Mỹ sang châu Âu. USAT Dorchester nhổ neo rời New York ngày 23/1/1943 cùng với hai thương thuyền khác.
Ba thương thuyền được trưng dụng để vận chuyển quân nhân, quân nhu, quân cụ sang châu Âu được hộ tống bởi ba chiến hạm loại nhỏ của lực lượng phòng vệ bờ biển.
Tuy hải trình đầy nguy hiểm vì tàu ngầm của Đức Quốc xã thường xuyên theo dõi, tấn công các tàu qua lại trên hải lộ này nhưng tình thế buộc quân đội Mỹ phải mạo hiểm. Đó cũng là lý do thuyền trưởng của USAT Dorchester ra lệnh cho tất cả những người có mặt trên tàu của ông phải luôn luôn sẵn sàng, tất cả phải mặc đủ đồ ấm và mang phao cứu sinh kể cả khi ngủ. Tuy nhiên do hầm tàu rất nóng, đa số không tuân thủ lệnh này, họ không mặc quần áo và cũng chẳng mang phao cứu sinh. Cuối cùng, thảm kịch không ai mong muốn đã xảy ra: Rạng sáng ngày 3/2/1943 – mười ngày sau khi USAT Dorchester rời khỏi New York, tàu bị trúng ngư lôi…
Toàn bộ hệ thống điện trên USAT Dorchester trở thành vô dụng. Trời tối, hầm tàu còn tối hơn và những người lính nháo nhào tìm cách thoát ra ngoài trước khi con tàu bị đắm…
Giữa sự hỗn loạn không thể nào tả được đó, bốn vị Tuyên úy có mặt trong hầm tàu đã cùng với nhau trấn an những người lính, giúp họ trấn tĩnh để có thể tự cứu chính họ cũng như cứu những đồng đội khác! Bốn giáo sĩ của những tôn giáo khác nhau đã phối hợp với nhau rất hiệu quả!.. Nhờ bình tâm, những người lính đã giúp nhau thoát ra ngoài, tìm và chia phao cứu sinh cho nhau, tránh được tình huống bấu víu vào nhau rồi chết chùm. Khi người ta không thể tìm thêm được chiếc phao cứu sinh nào nữa, bốn giáo sĩ – những người rất nghiêm túc trong việc thực hiện yêu cầu sẵn sàng của thuyền trưởng USAT Dorchester – đã cởi áo phao của họ, trao cho những người chưa có.
Binh nhì John J. Mahoney kể rằng, Tuyên úy Goode đã chặn anh lại khi thấy anh tìm cách trở về cabin để tìm một đôi găng tay vì sợ sẽ không thể sống sót giữa đêm đông trên Đại Tây Dương. Tuyên úy Goode trao cho Mahoney một đôi găng tay và trấn an Mahoney thêm một lần nữa, rằng ông có hai đôi. Trước khi nhảy xuống biển, Mahoney nhận ra Tuyên úy Goode đã… nói dối. Ông đã trao cho Mahoney đôi găng duy nhất của ông… Binh nhì William B. Bednar kể một câu chuyện khác, giữa những tiếng khóc, nguyền rủa số phận và những xác chết dập dềnh, Bednar nghe các Tuyên úy nhắc nhở về dũng khí, những lời nhắc nhở ấy đã giữ cho Bednar không chấp nhận xuôi tay chịu chết…
Grady Clark nói về những hình ảnh cuối cùng mà anh nhìn thấy khi USAT Dorchester từ từ chìm sâu xuống đáy biển: Giữa những đốm lửa lập lòe, cả bốn vị Tuyên úy vẫn ở trên tàu, họ đã nhường phao cứu sinh, họ không có cơ hội sống sót, họ khoác tay nhau, cầu nguyện, ca hát xin Thượng đế ban bình an cho những đồng loại của họ…
USAT Dorchester chở 940 quân nhân. Nhiệt độ nước biển ở Đại Tây Dương khi thương thuyền chạy bằng hơi nước này trúng ngư lôi là 1 độ C. Chỉ có 229 người sống sót! Người Mỹ gọi bốn Tuyên úy vừa kể là những “Tuyên úy bất tử”. Năm 1988, Quốc hội Mỹ quyết định chọn ngày 3 tháng 2 hàng năm là Four Chaplains Day (1).
***
Sử sách không có những câu chuyện về các Tuyên úy người Việt trong cuộc nội chiến 1954 – 1975 nhưng một số người sống sót qua các trại cải tạo dành cho những sĩ quan, viên chức của quân đội, hệ thống chính trị, hệ thống công quyền miền Nam Việt Nam có kể qua về các vị Tuyên úy của cả Phật giáo lẫn Công giáo – những cá nhân mà chính quyền cộng sản xem là… ác ôn, là có… nợ máu với nhân dân, chẳng hạn Thượng tọa Thích Thanh Long (2).
Bạn đã từng đọc chưa? Nếu chưa và muốn thử tìm hiểu xem họ như thế nào, hãy dùng Google với key word là “Tuyên úy”. So với Four Chaplains, họ chẳng khác lắm đâu!
Chú thích
Bài “Đường chúng ta đi” của Nguyên Ngọc
https://daibieunhandan.vn/duong-chung-ta-di-13324
Quên đi những đóng góp như thế này sẽ là lỗi hệ thống, giáo sư Mạc Văn Trang bảo thế . Giáo sư Mạc Văn Trang & nhà văn Nguyên Ngọc, creme de la creme của trí thức nhà mềnh nhá .
Hỡi montaukmosquito! Có còn chút nào liêm sỉ?
Rất nhiều nguồn tra cứu để thấy rằng Nguyên Ngọc chưa một ngày nào làm chính ủy như loài Muỗi bịa đặt.
Chuyên gia chích đùi hổng sạch có biêt liêm sỉ là cái gì đâu
“khi vào chiến trường miền Nam trực tiếp tham gia cuộc kháng chiến lần thứ hai, Nguyên Ngọc lấy bút danh Nguyễn Trung Thành để chiến đấu bằng ngòi bút … Chính dưới tên gọi đó ông đã có bài tùy bút nổi tiếng Đường chúng ta đi khẳng định ý chí tiến công cách mạng của nhân dân Việt Nam trước sức mạnh quân sự của đế quốc Mỹ. Ông kể: Ông viết bài tùy bút này như một lời hịch, lời hiệu triệu quân dân, theo gợi ý của đồng chí Võ Chí Công khi đó là chính ủy khu Năm rằng thời chống quân Minh ta đã có bài Bình Ngô thì thời nay chống Mỹ ta cũng cần phải có một bản hùng ca tráng khí như vậy. Nguyên Ngọc – Nguyễn Trung Thành đã viết với tất cả sự hào hùng lãng mạn của ông và đất nước hồi ấy. Bây giờ đọc lại bài tùy bút đó những ai đã đi qua con đường chiến tranh vẫn thấy xúc động và tự hào. Và tác giả cũng không nghĩ khác thế, tôi chắc vậy, dù thời thế có đổi khác, bởi vì cảm hứng trong bài viết sẽ xuyên suốt toàn bộ hành trạng về sau của ông là cảm hứng nhân dân và dân tộc. Mà dân tộc và nhân dân là trường tồn, là cái gốc . Nguyên Ngọc chính ủy là vì thế, và như thế. Nhưng cái chất chính ủy trong con người ông là “động” chứ không “tĩnh”, lại được hòa trộn trong máu của một người con Quảng Nam, vùng đất vốn có “gien” phản kháng và phản biện (“Quảng Nam hay cãi”). Ông hướng tới cái cao cả, cái anh hùng trong chiến tranh, nhưng rất sớm phát hiện “mạch nước ngầm” của hiện thực cuộc sống. Ông không chịu được sự phản bội, cụ thể trong một trận đánh, trong một con người, nhưng rộng ra là đối với một lý tưởng, một sự nghiệp” (tớ thêm) Ông lập ra văn đoàn độc lập hay chủ trì cho giải Phan Chu Trinh hổng có nghĩa ông phải bội lại lý tưởng & sự nghiệp cách mạng
BTW, Hồ Cương Quyết, Lê Trung Kiên, Nguyễn Trung Thành … những cái tên nghe như hồng vệ binh xuất phát từ cùng 1 loại tư duy .
“Rất nhiều nguồn tra cứu”
Cái này gọi là đi đúng đường . Đi sai thì lots & lots of nothin. Chích đùi kỳ sau nhớ “tra cứu” kỹ kỹ 1 tẹo . Đamn man, đã trở thành chuyên gia làm cảm hứng cho cả Phạm Trần SBTN mà mắc mấy cái lỗi rookie kiểu này thì mất mặt bầu cua quá . Plenty more where this xít come from, cho tới khi họ rút bài hoặc thiến béng đoạn này .
Mỹ-Ngụy có Tuyên Úy, đó là những thứ quân đội phi nhân dân & phản Việt Nam . Quân đội nhân dân Việt Nam có chính ủy, nhà văn Nguyên Ngọc là 1 chính ủy đã có những đóng góp cho ngành tuyên láo . Những đóng góp đó, theo giáo sư Mạc Văn Trang, nếu quên sẽ là lỗi hệ thống .
Đảng nên tiếp thu ý kiến của anh chàng nhà báo, đặt ra 1 ngày để tôn vinh những chính ủy như nhà văn Nguyên Ngọc .