Lê Ngọc Luân
9-5-2025
Có nhiều tội danh liên quan đến hành vi ‘Xâm phạm hoạt động tư pháp’, bài viết này chỉ đề cập đến “Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án”, có chia sẻ đan xen ý ngắn đến việc nếu một cá nhân ví dụ như: Điều tra viên (ĐTV); Kiểm sát viên (KSV) bắt, giữ, giam người không đúng pháp luật thì hành vi đó bị xem là có dấu hiệu phạm vào: “Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật” – một tội được xem là ‘Xâm phạm hoạt động tư pháp’ và thẩm quyền khởi tố điều tra thuộc Cơ quan điều tra Viện kiểm sát Tối cao.
Cụm từ ‘Xâm phạm hoạt động tư pháp’ hiểu thế nào? Sao lại có tên gọi như vậy? Là nhằm xử lý các hành vi có liên quan trong hoạt động tư pháp của các cá nhân trong cơ quan, tổ chức như: Công an, Viện kiểm sát, toà án, thi hành án, tổ chức hành nghề luật sư v.v…
Như thế nào gọi là “Làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc”? Đó là: “Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án, người khác có nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt động tư pháp, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, hủy hoặc làm hư hỏng tài liệu, vật chứng của vụ án, vụ việc hoặc bằng thủ đoạn khác nhằm làm sai lệch nội dung vụ án, vụ việc.”
Tội danh này “hậu quả xảy ra” không phải là yếu tố bắt buộc – chỉ cần có hành vi “thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, huỷ hoặc làm hư hỏng tài liệu, vật chứng HOẶC bằng THỦ ĐOẠN KHÁC nhằm làm sai lệch hồ sơ” là phạm tội mà không cần quan tâm đến HẬU QUẢ hồ sơ đã bị sai lệch trên thực tế hay chưa. Nếu hậu quả chưa xảy ra thì khi xét xử toà sẽ xem xét tuyên án nhẹ, còn đã xảy ra thì tuỳ mức độ sẽ có mức nặng khác nhau.
Xin đưa ra một số ví dụ tình huống giả định (trong vụ án hình sự) trên thực tế để mọi người nắm bắt và nếu mình hoặc có người thân vướng lao lý rơi vào trường hợp này cần gửi ngay đơn tố cáo đến Cơ quan điều tra Viện kiểm sát Tối cao đề nghị xác minh, khởi tố điều tra. ĐẶC BIỆT, những người như nhân chứng, người có thông tin biết để tránh bị rủi ro pháp lý vì nếu làm chứng, khai báo, cung cấp sai sự thật thì rất cao có thể bị khởi tố. Các hành vi đó là:
1) Điều tra viên, Kiểm sát viên, thẩm phán, luật sư đe doạ ép buộc nghi can, bị can, bị hại, nhân chứng v.v… viết đơn không đúng nội dung sự thật hoặc khai, trình báo nội dung này mà Điều tra viên, Kiểm sát viên cố tình viết kiểu khác. Lập biên bản lời khai xong sau đó tự viết bổ sung, chỉnh sửa, thêm nội dung khác vào;
2) Thực hiện bắt, giữ nhưng không có lệnh bắt được sự phê chuẩn của VKS cùng cấp HOẶC khi bắt, giữ người xong sau đó mới ban hành các lệnh và ép buộc, dụ dỗ, hướng dẫn một số cá nhân như: Người chứng kiến, đại diện chính quyền địa phương ký vào biên bản để hợp pháp hoá lệnh bắt thì hành vi này đồng thời có dấu hiệu phạm vào cả hai tội: “Lợi dụng chức vụ quyền hạn bắt giữ người trái pháp luật”; và “Làm sai lệch hồ sơ vụ án” đều thuộc hành vi ‘Xâm phạm hoạt động tư pháp’. Vậy làm sao để có chứng cứ chứng minh, đó là dựa vào các hình ảnh bị bắt, báo chí đưa tin, lời khai của những người thấy bắt hoặc khi bắt ĐTV đọc lệnh mà không cho xem nếu có yêu cầu (vì có thể lệnh giả hoặc đó là tờ giấy trắng hoặc ai đó mạo danh công an) hoặc có cho xem mà không thấy trong lệch có chữ ký của P. Thủ trưởng; Thủ trưởng CQĐT và con dấu của Cơ quan Công an có thẩm quyền.
[Tuy nhiên, trường hợp phạm tội quả tang bất kỳ ai cũng có quyền bắt, giữ mà không vi phạm HOẶC Điều tra viên “giữ người trong trường hợp khẩn cấp” thì cũng phải có lệnh (không cần sự phê chuẩn của VKS ngay) nhưng trong vòng 12 giờ kể từ khi giữ người phải ban hành lệnh bắt gửi cho VKS phê chuẩn].
3) Điều tra viên, Kiểm sát viên quá trình điều tra lấy lời khai nghi can, bị can, bị hại, nhân chứng… nhưng sau đó cố tình không đưa vào hồ sơ hoặc đưa không đầy đủ hoặc nhận được tài liệu, chứng cứ có liên quan vụ án do cơ quan, cá nhân khác gửi đến mà cất giữ và không đưa vào hồ sơ. Tất cả hành vi này đều có dấu hiệu cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án vì pháp luật bắt buộc phải đưa dù đó là tài liệu gì, trừ những tài liệu có đóng dấu Mật, Tối Mật hay liên quan đến an ninh quốc gia thì phải xem xét có ý kiến của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền.
4) Khi khám xét, thu giữ đồ vật tài liệu nhưng không niêm phong sau đó tác động xoá bỏ hay tiêu huỷ hoặc có niêm phong nhưng cố tình gỡ niêm phong để tác động, thay đổi các tài liệu, đồ vật, chứng cứ thu giữ v.v..
5) Khi thực nghiệm điều tra hoặc dựng lại hiện trường biết là không đúng thực tế hoặc có căn cứ việc thực nghiệm điều tra, dựng hiện trường giả hoặc hướng dẫn, dụ dỗ, ép buộc nhân chứng khai, ký vào biên bản không đúng sự thật v.v..
Trên đây là một số dấu hiệu nhận biết hành vi ‘Xâm phạm hoạt động tư pháp’ và bất kỳ người nào cũng có quyền, trách nhiệm tố cáo đến Cơ quan điều tra Viện kiểm sát Tối cao để xác minh, thụ lý, khởi tố điều tra hành vi này. Khi tiếp nhận thông tin này từ đơn tố cáo, từ nguồn tin báo chí v.v.. Cơ quan điều tra Viện kiểm sát Tối cao phải có trách nhiệm xem xét, kiểm tra nếu có dấu hiệu tội phạm phải xác minh, thụ lý, khởi tố điều tra.
Giám đốc Công an, Thủ trưởng CQĐT, Viện trưởng VKS quá trình giải quyết, chỉ đạo nếu phát hiện hoặc có đơn trình báo, kiến nghị của bị can, bị cáo hoặc từ nguồn tin bất kỳ phải xem xét toàn bộ hồ sơ. Nếu có dấu hiệu của hành vi ‘Xâm phạm hoạt động tư pháp’ thì phải kiến nghị ngay đến Cơ quan điều tra Viện kiểm sát Tối cao xử lý, dù cấp dưới thuộc quyền quản lý của mình vi phạm đi chăng nữa.
Nếu hồ sơ vụ án, vụ việc được chuyển qua toà xét xử nhưng trong giai đoạn nghiên cứu hồ sơ Thẩm phán, thư ký được phân công giải quyết tự mình hay nhận được đơn hoặc đang xét xử tự phát hiện hoặc qua lời bào chữa của luật sư, lời khai của bị can, bị cáo, nhân chứng… sau đó đối chiếu với tài liệu có trong hồ sơ mà thấy đúng, có dấu hiệu của các hành vi được liệt kê trên đây phải trả hồ sơ lại cho VKS điều tra bổ sung, trong đó kiến nghị làm rõ có hay không hành vi ‘Xâm phạm hoạt động tư pháp’ dù niềm tin nội tâm cho rằng bị cáo đó có phạm tội.
Vì sao điều luật về “Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án” không quy định HẬU QUẢ xảy ra là yếu tố cấu thành bắt buộc, hiểu nôm na: nếu cố ý làm sai lệch chưa gây ra hậu quả thì xử lý kỷ luật thôi cũng được, khởi tố hình sự có nặng quá không?
Lý do là vì thế này:
Hoạt động xác minh, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án phải được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, cẩn trọng tối đa ở mức cao nhất mà pháp luật đã quy định chi tiết – nếu không sẽ gây ra hậu quả nhỏ thì việc giải quyết không công bằng gây thiệt hại cho đương sự, tổ chức cá nhân trong các vụ việc dân sự, kinh tế v.v… Còn trong vụ án hình sự thì: Bỏ lọt tội phạm, khởi tố tội nặng thành nhẹ; nhẹ thành nặng hoặc gây oan sai thì hậu quả để lại rất đau thương – làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào cơ quan, cá nhân thực thi pháp luật – gián tiếp ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam nên Điều luật cấm làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc – đây là hành vi phòng ngừa ngăn chặn hậu quả ngay phần GỐC RỄ chứ không phải là phần NGỌN.
Tinh thần của điều luật và nhà làm luật đã đưa ra một chế tài cực kỳ hợp lý – đúng khoa học pháp lý hình sự!
*P/S: Bài viết này giải đáp cho một bạn vừa tốt nghiệp ĐH Luật TP.HCM hiện đang thực tập, và thông qua đây xin chia sẻ rộng rãi đến ai có mong muốn hiểu hơn về hành vi ‘Xâm phạm hoạt động tư pháp’ nói chung và hành vi “Làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc” nói riêng là như thế nào.


