Vụn về Hưng Yên (Kỳ 1)

Nguyễn Thông

11-8-2024

Bây giờ mà nhắc tới Hưng Yên, thiên hạ gọi là “đu trend”, nhưng bài này đã ủ trong ký ức nhà cháu lâu rồi, giờ mới biên ra thôi. Ai rảnh thì đọc, nhất là cuối tuần không đi đâu chơi.

Do nằm ở phía đông kinh thành Thăng Long nên vùng Hưng Yên, Hải Dương xưa được gọi là xứ đông, tỉnh đông. Tôi nhớ hồi còn bé học cấp 1, hình như lớp 4, được học bài thơ “Nhi đồng Nguyễn Văn Bảo” của cụ Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu.

Cụ Tú ca ngợi em thiếu nhi tên Bảo người tỉnh đông, “Nguyễn Văn Bảo mới lên mười tuổi/ Quê quán em ở dưới tỉnh đông/ Em là con một nhà nông/ Cha mẹ vất vả sống trong bần hàn/ May nhờ có bình dân học vụ/ Em Bảo ta cũng đủ học hành/ Người lanh lợi trí thông minh/ Em là một cậu học sinh hoàn toàn”… Những ai sinh thập niên 50 ở miền Bắc mà có đi học đều thuộc bài này.

Nhà thơ kể, em Bảo yêu nước thương nòi, tham gia kháng chiến “trong đoàn thể nhi đồng cứu quốc/ Em là tay gân guốc dạ gan/ Nhiều phen giúp việc giỏi giang/ Cho bộ đội hoặc cho đoàn dân quân”. Rồi “Đến hôm mùng sáu tháng tư/ Bỗng đâu giặc Pháp lù lù kéo sang/ Qua Kẻ Sặt ngang tàng hung dữ/ Khác nào như một lũ sài lang”, em Bảo nhập đội quân du kích, làm giao liên cho bộ đội đánh giặc, rơi vào ổ phục kích, “Bị chúng bắn tứ tung em ngã/ Chết thiêng liêng em đã hả lòng/ Tuổi thơ chí khí anh hùng/ Nêu gương anh dũng nhi đồng Việt Nam”. Đó là người

Hưng Yên đầu tiên mà tôi biết qua văn nghệ. (Ở đây ghi chú thêm: Kẻ Sặt thuộc huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, giáp Hưng Yên. Nơi này có đồn rất lớn của quân Pháp, đánh Hưng Yên cũng kéo từ Kẻ Sặt). Lạ là bây giờ gõ tìm khắp nơi, kể cả Gu gồ cũng không thấy bài này. Nó chỉ còn trong trí nhớ U70, U80, họ về chầu ông bà vải là mất luôn.

Thi sĩ Khương Hữu Dụng có bài thơ “Quê ong” với lời đề “Tặng Hưng Yên”, kể ra những địa danh của tỉnh đông xưa, “Ong ở Mậu Dương/ Hay là An Trạch/ Nễ Châu, Xích Đằng”. Cụ Dụng người Nam, đi tập kết, sinh sống ngoài Bắc, rất gắn bó với Hưng Yên, sau này với cả Hải Dương nữa sau khi năm 1968 hai tỉnh Hưng Yên, Hải Dương bị sáp nhập thành tỉnh Hải Hưng. Người ta còn biết tới cụ là cha của anh bộ đội Khương Thế Hưng, mà anh này là người yêu của chị Đặng Thùy Trâm.

Nói tới Hưng Yên dính đến văn nghệ, có nhẽ phải nhắc cụ Tý, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý. Tên tuổi ông gắn với ối tỉnh, nhất là Hà Tĩnh, Bến Tre. Năm 1963 chàng nhạc sĩ hơi tre trẻ đi thực tế ở Hưng Yên, thu hoạch được bài “Chim hót trên đồng đay”, sau này ông còn về mấy lần, khi tỉnh Hải Hưng, viết được “Bài ca năm tấn”, thực ra viết cho Hải Hưng chứ không phải cho Thái Bình.

Hưng Yên là vùng ven sông Hồng, đất tốt, trồng nhiều nhãn và đay, ngô. Hồi bé, bọn tôi hát cả bài đồng đay của cụ Tý, chả phân biệt thứ cho thiếu nhi hay người lớn, những là “Trên cánh đồng đay con chim chiền chiện/ Nó hót rằng bà con ta có biết/ Cánh đồng đay ta tung cánh mà bay/ Bay bay khắp đó đây”, rồi véo von “Kháng chiến ngày đêm Hưng Yên diệt giặc/ Tiếng ấy đồn mười phương nay vẫn nhắc”.

Quả thật cụ Tý tiên đoán trúng phết, sau bao năm Hưng Yên không được nhắc nhỏm, nay lên ầm ầm. Ông bạn tôi còn đùa, tao quê Hải Phòng nhưng biết đâu gốc Hưng Yên.

(Còn tiếp)

Bình Luận từ Facebook

6 BÌNH LUẬN

  1. Trong nước bây giờ ai chả muốn quê Hưng Yên , quê Hưng được lên chức vèo vèo. Việt kiều cũng muốn quê Hưng Yên khỏi phải lo sợ bị bỏ vào đại sứ quán rồi cho vào bao tải chất vào máy bay chở về.

  2. Xin lỗi tác giả NT.dù lâu nay tôi đánh giá cao hầu hết những bài ông viết
    nhưng đề bài này ông rút gọn qúa nên nghe hơi khó hiểu !
    Đề nghị có thêm chữ NGHĨ đi trước để thành ” Nghĩ vun về Hưng Yên” ?
    Trân trọng.

  3. Hề… hề…,
    1. Trước năm 1975 cũng có các tỉnh ở miền Bắc sát nhập với nhau (tôi không dùng SÁP), như là Hưng Yên với Hải Dương thành Hải Hưng, hoặc Hải Phòng với Kiến An nhưng vẫn giữ tên Hải Phòng, hoặc Quảng Yên với Hải Ninh thành Quảng Ninh. Có một điều là những sự sát nhập này lại là tiền đề cho LỢI ÍCH NHÓM bắt đầu hình thành: Hải Phòng nuốt chửng Kiến An thì đã đành, còn ở Hải Hưng thì ĐÔNG ĐƯỜNG trị TÂY ĐƯỜNG.
    2. Sau 1975, sát nhập hai tỉnh hoặc ba tỉnh thành một tỉnh diễn ra ồ ạt nên lợi ích nhóm cũng dần dần lộ diện nhiều hơn, nào là Bình Trị Thiên trở thành Bình (Quảng Bình) cai trị Thiên (Thừa Thiên)… trong sự uất ức do bị đè nén của cán bộ tỉnh này đối với cán bộ cấp trên là người của tỉnh kia.
    3. Chính vì thế, khi các tỉnh to lại được tách tỉnh thành các tỉnh xưa cũ mà chúng ta gọi một cách CỰC KỲ VĂN CHƯƠNG rằng thì là đó là SỰ TÁI LẬP thì có khá nhiều tỉnh có đủ các loại cán bộ, trí thức mừng vui tới độ coi mình và dân mình đã ĐƯỢC GIẢI PHÓNG!!.
    4. Ông Nguyễn Thông viết về Hưng Yên (Tây đường 5), cho nên, tôi rất mong ông viết về Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay có khác gì, bột phá gì và tiến bộ gì so với giai đoạn họ ở chung với Hải Dương trong một tên gọi là tỉnh Hải Hưng hay không!!?

  4. Ở tỉnh Đồng Nai ( trước 1975 gọi là tỉnh Biên Hòa) có làng Kẻ Sặt, họ di cư vào Nam năm 1954 và sống với nhau, người ngoài chen chân vào không được, cưới hỏi cũng chỉ cưới trong làng không gả ra ngoài, đa số theo đạo Công Giáo, trong làng này rất lớn chia ra nhiều xóm, xóm cau, xóm giò, xóm miến, tùm lum xóm, họ làm ăn buôn bán và rất giàu có. Bao năm nay vẫn có cái tên Ngã Ba Chợ Sặt.

    • Dân di cư 1954 đều là dân công giáo từ các tỉnh Bắc kỳ THEO MẸ VÀO NAM và được chế độ của ông Diệm cho đến các khu đất lớn để định cư lập làng lập ấp. Có hai khu lớn là Hố Nai (Biên Hòa) và Thạnh An, Thạnh Thắng (nay thuộc huyện Vĩnh Thạnh tp Cần Thơ), ở đây, bà con công giáo lập ra các phân khu định cư mà các hộ gia đình đều cùng quê quán khi xưa. Chính vì thế, từ việc đặt tên cho đến thói quen sản xuất và sinh hoạt văn hóa ở thế hệ đầu và thế hệ hai vẫn còn in đậm dấu ấn của quê hương rất nhiều.
      Hố Nai gần Sài Gòn nên cư dân ở đây dần dần mang tính thành thị nên sự hội nhập vào nếp sống mới, cách làm ăn mới diễn ra khã nhanh. Còn ở vùng Thạnh An, Thạnh Thắng lại là vùng nông thôn xa đô thị và vì là dân công giáo nên ít giao tiếp với bên ngoài nên sự bảo lưu về văn hóa tồn tại dai dẳng và điều đặc biệt nhất là có yếu tố nội sinh hình thành, dẫn đến các thế hệ từ ba hoặc bốn cho tới hiện nay đều có giọng nói như nhau, không còn giọng vùng miền như cha ông thủa ban đầu nữa.

      • Nói cho đúng thì có khoảng gần 800 ngàn người CG. trong
        tổng số gần 1 triệu người di cư vào Nam còn lại chừng 200
        ngàn không phải CG., trong đó PG. chiếm đến 95 %.

BÌNH LUẬN

Xin bình luận ở đây
Xin nhập tên của bạn ở đây