Chuyện mồ mả (Kỳ 3)

Nguyễn Thông

20-7-2024

Tiếp theo kỳ 1kỳ 2

Làng Trà Phương (xã Thụy Hương, huyện Kiến Thụy, TP.Hải Phòng) quê tôi bé tí mà cũng có những hai bãi tha ma. Bây giờ gọi tuốt là nghĩa trang, nghĩa địa, chứ ngày xưa chỉ nôm na bằng bãi tha ma. Thậm chí còn đơn giản hơn, là mả. Một cái có tên Mả Đò ở xóm ngoài, còn cái kia tên Mả Vối xóm trong. Dân làng chết, ai gần chỗ nào thì chôn chỗ ấy.

Tại sao tên Mả Đò? Nguyên do cái bãi tha ma này nằm kế ngay bến đò đi qua một nhánh rộng của sông Văn Úc, đò nối từ làng Trà sang làng Tú Đôi thuộc tổng Ngũ Phúc. Nghe các cụ kể chỗ này từ thời nhà Lý là nơi định cư của những tù binh xứ Chiêm Thành, bị vua Lý bắt về đày ở đó để mở mang khai phá đất đai vùng duyên hải. Mả Đò lúc đầu chỉ chôn cất những kẻ bại trận tha hương, sau dân sở tại cũng chôn đó luôn, thành cái bãi tha ma ngay bến đò. Các bậc tiên tổ, tiền nhân họ hàng nhà tôi cũng chôn ở Mả Đò, mỗi ngôi mộ một nấm cỏ xanh, gia tộc khi sống thì quần tụ với nhau từng khu sau lũy tre làng, chết lại về Mả Đò sum họp nơi âm phủ.

Tồn tại được gần nghìn năm thì Mả Đò gặp hạn. Năm 1964, máy bay Mỹ đánh ra miền Bắc. Để chặn, không cho chúng bay sâu vào đất liền, nhà nước lệnh cho xã tôi phải giải tỏa ngay Mả Đò, bốc hết xương cốt dời vào Mả Vối. Chỉ trong hơn nửa tháng, mộ bị dời gần hết, còn cái nào không kịp hoặc chưa có thân nhân thừa nhận, xe ủi tới ủi sạch băng. Dân công mấy xã xung quanh được huy động đào đắp, sau vài ngày hiện hình 12 chiếc ụ tên lửa như những quả núi con con chiếm hết mặt bằng bãi tha ma. Trận địa tên lửa Mả Đò ra đời từ ngày đó, cuối năm 1964.

Nói chuyện mồ mả mà không nhắc tới cái nghĩa trang Mai Dịch ở Hà Nội quả là thiếu sót. Hồi còn học ở Hà Nội, thỉnh thoảng tôi từ Mễ Trì tuốt tận gần Hà Đông đi tàu điện thăm mấy người bạn học bên Cầu Giấy, tiện thể tò mò tới ngó Mai Dịch. Nó nổi tiếng quá. Nguyên nơi đây là khu ruộng ngoại thành, năm 1956 được nhà nước quy hoạch xây dựng nghĩa trang liệt sĩ. Dần dà, phần mộ nhỏ bé của các liệt sĩ lùi về phía sau, mặt tiền chỉ dành cho các quan lớn cỡ ủy viên trung ương trở lên.

Ông Trần Huy Liệu, một nhà cách mạng lừng lẫy, là người từng thay mặt trung ương vào Huế nhận ấn kiếm của vua Bảo Đại, Viện trưởng Viện Sử học, nhưng do không phải ủy viên trung ương nên người ta không cho vào Mai Dịch, phải đem chôn tận Văn Điển, chung với dân chúng. Mấy người bạn học với tôi đùa, bảo đó là chỗ của các cụ lớn mả. Người sống có Ba Đình, người chết có Mai Dịch, một thứ đẳng cấp cho các quan khi sống khi chết.

Mai Dịch khiến người ta kính nể, kinh sợ. Tuy nhiên, không phải ai vào nằm “mặt tiền” Mai Dịch cũng đều được nể trọng. Hồi hơn 4 chục năm trước, người ta truyền tai nhau chuyện mộ ông Lê Đức Thọ cứ đêm đêm lại bị ai đó vào trét phân trét bùn lên, bị riết không chịu nổi nên thân nhân phải thỉnh ông ấy về quê nhà.

Càng ngày Mai Dịch càng mất thiêng, bao nhiêu lời ra tiếng vào. Và cuối cùng thì nó đã bị hóa kiếp bằng đám tang của đại tướng Võ Nguyên Giáp. Chính đại tướng và thân nhân của ông quyết đưa ông về quê chứ không chịu chui vào Mai Dịch.

Mộ thì vậy, cũng xin nhắc đôi lời về lăng. Ở xứ ta, lăng các bậc vua chúa chả hiếm. Thời Trần, thời Lê, thời Nguyễn nhiều lăng nhất. Cũng không hiếm lăng bị tàn phá khi bãi bể nương dâu, chế độ mới được xác lập. Phong kiến sau phá của phong kiến trước. Vụ Trịnh Tùng phò Lê sau khi diệt được Mạc đã kéo cả vạn quân về phá sạnh sành sanh kinh đô Dương Kinh của triều Mạc cùng các lăng mộ vua Mạc ở vùng duyên hải Hải Phòng là minh chứng.

Khi chúng tôi có dịp thăm cố đô Huế, lẩn mẩn nghĩ, nó mà vào tay cộng sản đang sẵn mối căm hờn phong kiến, ghét nhà Nguyễn tới mức “đào đất đổ đi” thì những lăng Gia Long, Minh Mạng, Tự Đức, Khải Định… cổ kính vàng son hoành tráng kia chả biết số phận chúng sẽ bi thảm thế nào.

Sực nhớ cái đình làng Trà Phương quê tôi, có từ thế kỷ 18, to nhất nhì vùng duyên hải, hàng chục cột gỗ lim cả vòng tay ôm, trong một cuộc chống phong kiến triệt để năm 1965, nó đã bị đốn gục để hợp tác xã lấy gỗ lấy gạch xây chuồng lợn trại chăn nuôi. Đình của dân mà còn như vậy, lăng bọn vua quan “cõng rắn cắn gà nhà” khó mà tồn tại được bởi bàn tay người cộng sản lúc đang hăng hái “bài phong”.

Trên thế giới, mặc dù khi đã sang gần giữa thế kỷ 20 nhưng chỉ những nước cộng sản thích xây lăng. Lãnh tụ vô sản còn hơn vua, hơn hoàng đế xưa ở chỗ, ngày xưa Tần Thủy Hoàng, Hán Cao tổ, Tào Tháo… chỉ dám xây mộ, giấu kín chứ không dám phô trương, còn vua vô sản chọn khoảnh đất đẹp nhất dựng cái lăng thật nguy nga cho thiên hạ nườm nượp tới 4 mùa lễ bái, viếng lăng.

Lăng Lênin ở Liên Xô, lăng Dimitrov ở Bulgaria, lăng cha con Kim Nhật Thành xứ Triều Tiên, lăng Mao bên Trung Quốc. Việt Nam cũng “sánh vai với các cường quốc lăng” bằng lăng cụ Hồ. Sau này lịch sử xứ ta nếu viết đầy đủ chân thực thì cần khách quan, công bằng với cụ. Cụ đã di chúc rõ ràng chỉ làm tang ma đơn giản, hỏa thiêu, rải tro cốt trên đất đai sông biển tổ quốc. Cái lăng hiện nay không phải là ý nguyện của cụ. Đó là sản phẩm của đám đồ đệ không làm theo ý người đã khuất.

Tôi còn nhớ, cuối năm 1973, nhiều sinh viên khoa Văn và khoa Sử, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội được điều vào nội thành lao động xây lăng cụ Hồ. Bọn tôi vừa hết năm thứ nhất, có lẽ do cấp trên thấy chưa chín chắn nên không bị huy động, chỉ có các anh chị năm 3 và 4 được thực hiện nhiệm vụ vinh quang. Các anh chị ấy, sau buổi đi làm về, thỉnh thoảng kể, sao mà công trình hoành tráng thế. Đá hoa cương nhiều như núi, gỗ quý chất đống như rừng, tinh thứ gỗ thuộc loại quý hơn vàng.

Một anh (hình như anh Đỗ Minh Tuấn sau này là nhà thơ, đạo diễn) kể, những người vào công trường làm việc, khi ra bị kiểm soát chặt chẽ còn hơn trại lính, khám từng tí một. Một mẩu gỗ bằng nửa bàn tay hoặc bằng cái thước kẻ cũng bị thu lại. Cấm ai tơ hào được thứ gì. Người chỉ huy cuộc làm lăng ấy, không phải ai khác, chính là ông Đỗ Mười.

Sau này, mỗi khi có dịp đi ngang qua lăng, ngó khối đá hoa cương đồ sộ kia, sực nghĩ, mình có may mắn từng được nhìn tận mắt cái khán đài Ba Đình lịch sử ở mép quảng trường, nay đã bị lăng thế chỗ, cả tòa nhà “hội trường Ba Đình” nữa, chúng từng chứng kiến bao cuộc đổi thay, bãi bể nương dâu của xứ sở này.

Bình Luận từ Facebook

1 BÌNH LUẬN

  1. Nhắc đến ông ĐM, éo học hành chi nhưng nổi tiếng nhờ cái tài ngu và lì. Nhớ cảnh cụ ngồi trong đại hội mà bàn tay cụ cứ thoăn thoắt trong váy cô bạn gái. Tài thế cơ

BÌNH LUẬN

Xin bình luận ở đây
Xin nhập tên của bạn ở đây