Cuộc chiến Ukraine đã dạy cho quân đội phương Tây điều gì?

The Economist

Cù Tuấn, dịch

2-12-2022

William Slim, một nguyên soái nổi tiếng của Anh trong chiến tranh thế giới thứ hai, nhận xét: “Trong một cuộc chiến tranh, không có gì tốt và cũng không có gì xấu như những báo cáo đầu tiên của những người đang phấn khích”.

Từ thời điểm quân đội Nga tiến vào Ukraine vào ngày 24 tháng 2 năm nay, các chuyên gia đã đưa ra những tuyên bố sâu rộng về tương lai của cuộc chiến này. Cái chết của xe tăng được tuyên bố trên cơ sở các đoạn phim quay được. Máy bay không người lái của Thổ Nhĩ Kỳ được ca ngợi là những thành tố thay đổi cuộc chơi không thể ngăn cản. Các loại vũ khí chống tăng của phương Tây đã sớm đóng vai trò chính. Bây giờ, chín tháng sau cuộc chiến, nhiều nhận định được cân nhắc kỹ hơn đang xuất hiện. Có rất nhiều điều mà các lực lượng vũ trang phương Tây có thể học hỏi.

Vào ngày 30 tháng 11, Viện Quân sự Thống nhất Hoàng gia (RUSI), một nhóm chuyên gia cố vấn ở London, đã công bố một báo cáo chi tiết* về những bài học rút ra từ 5 tháng đầu tiên của cuộc chiến, giai đoạn mà Ukraine chủ yếu ở thế phòng thủ. Các tác giả—bao gồm Mykhaylo Zabrodsky, một trung tướng Ukraine, và một cặp nhà phân tích RUSI—được quyền truy cập rộng rãi vào dữ liệu quân sự Ukraine và quá trình ra quyết định. Những phát hiện của họ vẽ nên một bức tranh phức tạp hơn so với quan niệm phổ biến về một đám đông người Nga chậm chạp đang đối mặt với những người Ukraine nhanh nhẹn.

Cuộc xâm lược đã thất bại, nhưng nó không được xác định trước như vậy. Tỷ lệ số quân Nga so với quân Ukraine ở phía bắc Kiev là 12:1, và Nga đã tấn công 75% các địa điểm phòng không cố định của Ukraine bằng đường không trong 48 giờ đầu tiên của cuộc chiến. Một cuộc tấn công mạng của Nga đã phá vỡ thành công hệ thống liên lạc vệ tinh của Ukraine.

Ukraine đã chịu đựng được cuộc tấn công ban đầu này phần lớn là do họ có tầm nhìn xa để phân tán các kho dự trữ vũ khí, đạn dược của mình khỏi các kho vũ khí chính một tuần trước cuộc xâm lược, với những nỗ lực đó được đẩy nhanh ba ngày trước chiến tranh. Máy bay và hệ thống phòng không đã được phân tán trong vòng vài giờ sau cuộc tấn công. Kết quả là chỉ 1/10 vị trí phòng không di động của Ukraine bị tấn công.

Giá như Nga tấn công các mục tiêu một cách sắc nét hơn và nhanh nhẹn hơn, thì thậm chí những mục tiêu này có thể đã bị bắn trúng. May mắn thay, phải mất hai ngày, và đôi khi lâu hơn, tình báo quân đội Nga mới gửi thông tin tình báo về các mục tiêu đến một trung tâm chỉ huy ở Matxcơva, và sắp đặt một cuộc tấn công trên thực địa, theo một tờ báo khác của RUSI. Trong cuộc chiến ở Đài Loan, Mỹ cho rằng, Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã không mắc phải những sai lầm tương tự. Báo cáo kết luận: “Không có nơi trú ẩn trong chiến tranh hiện đại. Kẻ thù có thể tấn công trong suốt chiều sâu hoạt động”—nói cách khác, ở phía sau đường chiến tuyến danh nghĩa.

Điều đó có nghĩa, là quân đội cần phải chiến đấu khác đi. RUSI kết luận: Che giấu là một lựa chọn, nhưng nó “cực kỳ khó duy trì”, bởi vì các loại cảm biến khác nhau — chẳng hạn như máy ảnh quang học thu nhận chuyển động, cảm biến nhiệt cảm nhận nhiệt và ăng-ten điện tử thu phát sóng radio—có thể được “xếp lớp” chồng lên nhau để phát hiện ra cả những đội quân được che giấu kỹ. Một giải pháp khác là sử dụng các cấu trúc cứng, như hộp cứng và boong-ke bê tông. Nhưng những thứ này có xu hướng cố định số binh lính vào một chỗ. Cách tốt nhất để sống sót đơn giản là phân tán và di chuyển nhanh hơn so với tốc độ mà kẻ thù có thể phát hiện ra bạn. Ngay cả lực lượng đặc nhiệm Ukraine, những người có xu hướng hoạt động theo nhóm nhỏ, cũng bị máy bay không người lái của Nga phát hiện nếu họ ở một chỗ quá lâu.

Trái ngược với suy nghĩ của nhiều người, tên lửa chống tăng Javelin và NLAW do Mỹ và Anh cung cấp đã không chiếm ưu thế, mặc dù xuất hiện rất nhiều trong các đoạn video từ tuần đầu tiên của cuộc xung đột. Máy bay không người lái TB2 của Thổ Nhĩ Kỳ cũng vậy, khi nó đã phải vật lộn để tồn tại sau ngày thứ ba.

Jack Watling của RUSI, một trong những tác giả của báo cáo, gần đây trên “The Russia Contingency”, một podcast về các vấn đề quân sự của Nga, lưu ý: “Giá trị tuyên truyền của thiết bị phương Tây… cực kỳ cao vào đầu chiến tranh. Nó không thực sự có ảnh hưởng đáng kể về mặt vật chất đến quá trình chiến đấu…cho đến…tháng 4.” Ông nói thêm, yếu tố quyết định là tầm thường hơn thế. “Điều khiến quân Nga ở phía bắc Kyiv nản lòng là do hai lữ đoàn pháo Ukraine bắn đến mức đỏ cả nòng mỗi ngày.”

Vai trò then chốt của pháo binh vốn là một tư duy nghiêm túc đối với các quân đội Tây Âu, những quốc gia có hỏa lực đã suy giảm đáng kể kể từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh. Từ năm 1990 đến năm 2020, số lượng pháo binh trong các quân đội lớn của châu Âu đã giảm 57%, theo thống kê của Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế, một tổ chức tư vấn khác ở London. Kho vũ khí của Ukraine rất ghê gớm. Nước này bắt đầu cuộc chiến với hơn 1.000 hệ thống pháo nòng (loại có ống dài) và 1.680 bệ phóng nhiều tên lửa—nhiều hơn Anh, Pháp, Ý, Tây Ban Nha và Ba Lan cộng lại và là lực lượng pháo binh lớn nhất ở châu Âu sau Nga. Hạn chế chính của Ukraine là đạn dược.

Ukraine duy trì “sự cân bằng về pháo binh” trong khoảng sáu tuần, lâu hơn nhiều so với hầu hết các quân đội phương Tây nếu rơi vào hoàn cảnh tương tự. Sau đó, các đơn vị pháo của Ukraine bắt đầu hết đạn, mang lại cho Nga lợi thế 10:1 về hỏa lực vào tháng 6, và sự mất cân bằng này kéo dài cho đến khi Ukraine nhận được một loạt các hệ thống pháo tiên tiến của phương Tây, bao gồm cả HIMARS của Mỹ. Các tác giả lưu ý: “Tỷ lệ tiêu thụ đạn pháo trong giao tranh cường độ cao vẫn cực kỳ cao. Rất ít quốc gia phương Tây có khả năng chế tạo vũ khí, phụ tùng và đạn dược mới với tốc độ nhanh cần thiết. Các thành viên NATO khác ngoài Hoa Kỳ không ở vị thế mạnh trên các mặt trận này”.

Máy bay không người lái đã đóng một vai trò quan trọng, mặc dù phần lớn là để phục vụ cho hoạt động tình báo, giám sát và trinh sát hơn là cho các nhiệm vụ tấn công. RUSI cho biết, các đơn vị Nga có máy bay không người lái của riêng họ, thay vì dựa vào máy bay không người lái từ sở chỉ huy cấp cao hơn, có thể tạo ra “các vụ nổ gây cháy lây lan rất cao”, tấn công các mục tiêu trong vòng 3 đến 5 phút sau khi phát hiện ra chúng — một quy trình bắn dựa theo cảm biến có tốc độ nhanh đáng kể. Thời gian chờ này của các đơn vị không có máy bay không người lái của riêng họ là khoảng nửa giờ — với độ chính xác thấp hơn.

Nhưng một bài học quan trọng từ Ukraine là quân đội cần nhiều máy bay không người lái hơn họ nghĩ. RUSI lưu ý rằng, khoảng 90% tất cả các máy bay không người lái được lực lượng vũ trang Ukraine sử dụng từ tháng 2 đến tháng 7 đã bị Nga phá hủy. Tuổi thọ trung bình của máy bay không người lái cánh cố định là khoảng 6 chuyến bay; của một máy bay không người lái 4 chân chỉ là khoảng 3 chuyến. Sự tiêu hao như vậy sẽ làm quân đội châu Âu dùng hết sạch số máy bay không người lái họ có chỉ trong vài ngày.

Do vậy, ưu tiên tập trung cho các hệ thống máy bay không người lái đơn giản và rẻ tiền, có thể được coi là gần như dùng một lần, thay vì các đội máy bay không người lái lớn và đắt tiền, với động cơ chạy bằng nhiên liệu lỏng lớn, mang theo các cảm biến tiên tiến. Điều đó đòi hỏi một số lượng lớn nhân viên được đào tạo có thể điều khiển các máy bay này và luật lệ thoải mái hơn cho phép việc sử dụng chúng nhiều hơn trong thời bình. “Hiện tại, có ít hạn chế hành chính hơn đối với việc Pháo binh Hoàng gia [Anh] bắn đạn lựu 155 mm trên các con đường dân sự”, RUSI nhận xét, “so với việc một [máy bay không người lái] được cho phép bay trên cùng một không phận để giám sát đạn có bắn trúng mục tiêu hay là không“.

Cuộc chiến cũng cho thấy máy bay không người lái có thể bị đánh bại như thế nào. Một cách tiếp cận là phương pháp đánh lạc hướng kiểu cũ. Quân Ukraine phát hiện ra rằng, khi các đơn vị trinh sát của Nga đánh dấu vị trí của họ bằng thiết bị chỉ định laser, họ có thể đáp trả bằng cách phóng lựu đạn khói để che khuất vị trí của các máy bay. Nhưng điều đó cũng có xu hướng làm đơn vị phòng thủ cũng trở thành mù lòa. RUSI cho biết, cách quan trọng nhất để chống lại máy bay không người lái là sử dụng tác chiến điện tử (EW), một loại vũ khí có khả năng tàng hình khiến nó không thể bị phát hiện trong bóng tối.

EW của Nga đã buộc Ukraine phải hạn chế cách họ sử dụng máy bay không người lái của mình. Về lý thuyết, chúng có thể được điều khiển từ xa, bay trên đầu các mục tiêu của Nga và gửi lại cảnh quay trực tiếp cho một đơn vị pháo binh. Trong thực tế, phát xạ vô tuyến, vốn cần thiết cho điều hướng và liên lạc, từ cả máy bay không người lái và trạm mặt đất, có thể bị đối phương phát hiện và trong một số trường hợp bị tấn công điện tử làm gián đoạn. Vì vậy, thay vào đó, Ukraine đã phải bay nhiều máy bay không người lái của mình trên các tuyến đường được thiết lập sẵn, với dữ liệu được tải xuống khi các máy bay không người lái này quay trở lại. Dữ liệu này chỉ lấy được sau vài giờ, lúc đó mục tiêu có thể đã di chuyển ra nơi khác. Dữ liệu của Ukraine cho thấy, chỉ một phần ba các nhiệm vụ bằng máy bay không người lái kiểu này tỏ ra thành công.

Quân đội Nga, kể từ thời Xô Viết, được cho là đi đầu trong lĩnh vực này và thực hành sử dụng chiến tranh điện tử rộng rãi ở Syria, với việc gây ra sự tàn phá cho các máy bay dân sự trong khu vực. Đó chắc chắn là một thách thức nghiêm trọng đối với Ukraine. Nhưng việc phá sóng vô tuyến này không phải lúc nào cũng dễ sử dụng và việc máy bay của Nga bị vạ lây là phổ biến.

Ông Watling kể câu chuyện về hai phi công Nga tình cờ nghe được phàn nàn rằng radar của họ bị nhiễu. Họ nhanh chóng nhận ra rằng các nhóm tác chiến điện tử của chính họ— với các phần đính kèm giống như tên lửa nhỏ có thể đánh lừa các radar—và nhóm tác chiến của 2 máy bay đang nhắm mục tiêu vào radar của nhau. Các radar bị vô hiệu hóa, buộc các máy bay này phải bay mà không có hỗ trợ bảo vệ điện tử trong một khu vực nguy hiểm.

Thật dễ dàng để kể lại những câu chuyện huynh đệ tương tàn như vậy khi quân Nga gặp vận rủi. Nhưng liệu các lực lượng vũ trang phương Tây có phản ứng tốt hơn trong một tình huống tương tự? Ông Watling tỏ ra hoài nghi: “Chúng tôi không có nhiều khu vực tập trận để chúng tôi có thể thực sự bật lên tất cả các thiết bị EW của mình. Chúng tôi có thể làm điều đó trong bối cảnh thích hợp. Nhưng chúng tôi chưa thử nghiệm làm điều đó trên quy mô lớn”.

Bình Luận từ Facebook