6-4-2022
Hơn 25 năm trước tôi nhận một cú điện thoại. Người ở đầu dây bên kia là Luật sư Nguyễn Xuân Phước.
Chào hỏi xã giao một lúc, Phước hỏi tôi viết nhiều về chính trị nhưng quan tâm lớn nhất của tôi nằm trong lãnh vực nào. Tôi trả lời là bang giao quốc tế. Anh yêu cầu trả lời cụ thể hơn. Tôi nói bang giao quốc tế trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh.
Anh ta vẫn chưa chịu, bảo tôi cụ thể hơn nữa vì Chiến Tranh Lạnh vẫn còn rộng. Tôi trả lời phạm vi tôi quan tâm nhất là địa lý chính trị của Việt Nam trong quan hệ với Trung Cộng và tương quan với các quốc gia trong khu vực Nam Á Châu bao gồm Biển Đông. Phước đồng ý và bảo tôi anh ta cũng rất thích lãnh vực này. Từ đó Phước dành nhiều thời gian nghiên cứu và học hỏi. Sau lần điện thoại, chúng tôi thành bạn thân và cùng đi nhiều nơi cho đến ngày Phước qua đời, 23-6-2015.
Cách đây khoảng 15 năm, chúng tôi tham gia vào việc giảng dạy các lớp học dành cho các bạn trẻ trong nước do một cựu giáo sư đại học đáng kính thành lập. Chương trình do nhiều chú bác anh chị phụ trách. Mỗi người giảng một môn tùy theo lãnh vực nghiên cứu của mình. Khác với các lớp “xã hội dân sự” do các đoàn thể hay đảng phái tổ chức sau này, chúng tôi tập trung vào lý luận và các vấn đề quốc tế có ảnh hưởng đến Việt Nam. Phước phụ trách về địa lý chính trị, tôi phụ trách về phong trào xã hội với kinh nghiệm cách mạng dân chủ tại vùng Baltics và Đông Âu.
Không phải hiện nay mà từ thời TT Bill Clinton (1993-2001), George W. Bush (2001-2009) chúng tôi đã đặt Việt Nam trong tương quan rộng lớn của cả vùng Nam Thái Bình Dương. Chúng tôi tin tranh chấp về chủ quyền các đảo và quyền hải hành trên Thái Bình Dương sẽ ngày càng mở rộng và càng rộng càng có lợi cho Việt Nam.
Dựa trên những điểm chính đó, tôi viết hàng loạt bài về hiểm họa Trung Cộng qua kinh nghiệm Thổ Nhĩ Kỳ, Phần Lan, Congo, Tiệp Khắc v.v…
Lý luận phải đi trước. Những vấn đề thoạt nhìn rất bình thường như bản chất của cuộc chiến Việt Nam, vai trò của các cường quốc trong chiến tranh hay ngay cả tham nhũng dưới chế độ CS v.v… không phải ai cũng hiểu giống nhau.
Một số người chủ trương gạt bỏ quá khứ để tập trung vào tương lai. Nhưng tương lai không phải là Tề Thiên Đại Thánh từ trong đá nứt ra mà nó là sự kết tụ những thất bại và thành công từ quá khứ cho đến hôm nay. Không nên gạt bỏ hay quên đi mà cần học nhưng đừng sống vùi trong quá khứ. Một cơn đau không bao giờ được chữa dứt nếu không biết tại sao đau.
Không hiểu đúng lịch sử sẽ không dứt khoát khi chọn lựa, sẽ thiếu kiên nhẫn trên hành trình và sẽ mất niềm tin nơi kết quả cuối cùng. Một hành giả tìm đạo hay một người mang tâm nguyện cứu đời, cứu nước cũng thế, không có ba đặc tính đó sẽ đi vòng vòng, không bao giờ tới đích được.
***
Một câu chuyện về sự cần thiết của thái độ dứt khoát trong cách mạng dân chủ.
Có một chàng thanh niên Mông Cổ, 26 tuổi, tên là Tsakhiagiin Elbegdorj. Anh ta được gởi sang Liên Xô học về báo chí đúng trong thời kỳ Mikhail Gorbachev vừa phát động chương trình Glasnost (Cởi mở) và Perestroika (Cải tổ). Elbegdorj vui mừng đón nhận và mang các sáng kiến đó về lại Mông Cổ. Trên chuyến xe từ Moscow về Ulaanbaatar anh miên man suy nghĩ về một hướng đi. Anh biết chọn lựa trước mắt của anh sẽ quyết định không chỉ đời anh mà còn cả vận mệnh Mông Cổ.
Khi về lại quê hương, thay vì vận động cho các chính sách cải cách kiểu Gorbachev, chàng thanh niên Mông Cổ 26 tuổi đã chọn con đường dứt khoát hơn, đó là con đường dân chủ. Trong diễn văn ngày 28-11-1989, Elbegdorj phát biểu “Mông Cổ cần dân chủ và minh bạch” và tờ báo đầu tiên anh phát hành là tờ Dân Chủ. Chọn lựa dứt khoát của Elbegdorj đã mở ra kỷ nguyên mới cho Mông Cổ ngày nay. Sau khi chế độ Cộng Hòa ra đời, Tsakhiagiin Elbegdorj là một trong những người soạn thảo nên hiến pháp dân chủ và là thủ tướng của Cộng Hòa Mông Cổ từ 1996.
Học hỏi các kinh nghiệm thế giới như trình bày ở trên và vận dụng vào điều kiện Việt Nam trong cuộc đối đầu với Trung Cộng vô cùng cần thiết.
Từ các bài học đó, để thắng được Trung Cộng, Việt Nam không có chọn lựa nào ngoài (1) phải có dân chủ và dân chủ phải đến sớm thay vì đến khi chiến tranh Á Châu bùng nổ, máu đổ, thây phơi mới đến, (2) đoàn kết dân tộc bởi vì một dân tộc chia rẽ không thắng được ai, (3) chủ động chiến lược hóa vị trí quốc gia để được các cường quốc tự do bảo vệ, (4) liên minh với láng giềng cùng hoàn cảnh và tham gia các liên minh tin cậy để tránh được chiến tranh hay có thêm thời gian để chuẩn bị chiến tranh.
Từ những nhận thức chính trị đó, dù hơn 30 năm mang quốc tịch Mỹ, tôi vẫn viết như một người Việt Nam cho những người Việt Nam quan tâm đến tương lai Việt Nam.
Đương nhiên tôi quan tâm đến chính trị Mỹ và chính sách Châu Á của tổng thống Mỹ trong mỗi thời kỳ. Nhưng quan tâm để vận dụng chứ không nhằm gây ảnh hưởng. Cộng đồng Việt Nam tại Mỹ quá nhỏ, quá nghèo để có thể nên gây nên một ảnh hưởng nào trong lập pháp cũng như hành pháp Mỹ. Những tranh luận dù ôn hòa hay gay gắt mà chúng ta đang nghe hay đọc mỗi ngày cũng chỉ tác động trong cộng đồng Việt Nam nhỏ hẹp mà thôi.
Cộng đồng Việt Nam không có những Henry Morgenthau Jr. hay Henry Kissinger để bảo vệ quyền lợi Do Thái, không có Zbigniew Brzezinski để binh vực cho quê hương Ba Lan. Những gì người Việt có thể làm là nương theo các chính sách đối ngoại của các cường quốc và vận dụng các chính sách đó có lợi nhất cho cuộc đấu tranh còn rất dài để thay đổi điều kiện chính trị tại Việt Nam.
Người Việt thường ủng hộ Do Thái vì cảm tình với sự chịu đựng của dân tộc này và tinh thần vươn lên trong thời kỳ tái lập quốc gia Do Thái 1948. Đó là tình cảm đúng. Tuy nhiên, có thể phần đông những người ủng hộ Do Thái đó không biết rằng chính yếu tố Do Thái đã ảnh hưởng rất nhiều trong sự thất bại của VNCH.
Trong một cuộc phỏng vấn, Henry Kissinger, một người gốc Do Thái, thừa nhận trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh, nếu Mỹ chỉ có một chiếc xe tăng để viện trợ cho đồng minh thì xác suất cao chiếc xe tăng đó sẽ được gởi đến Do Thái thay vì VNCH. Lý do, người Mỹ gốc Do Thái ảnh hưởng hầu hết các lãnh vực từ truyền thông, tài chánh, và nhất là quốc hội Mỹ.
Một điều ai cũng biết nhưng thường hay quên, tổng thống Mỹ chỉ phục vụ cho quyền lợi nước Mỹ và con số hội viên của câu lạc bộ những quốc gia bị Mỹ bỏ rơi cũng không ít hơn số thành viên của câu lạc bộ những quốc gia thành công nhờ liên minh với Mỹ.
Không phải tự nhiên mà TT Harry Truman quyết định ném hai trái bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki vào các ngày 6 và 9-8-1945.
Thời gian trước khi quyết định, TT Truman đã được báo cáo Mỹ có thể sẽ phải tổn thất khoảng một phần tư triệu quân mới đánh bại được Nhật Bản. Lý do quân đội Nhật chiến đấu tới người cuối cùng chứ nhất định không đầu hàng. Hai trăm năm chục ngàn người phải chết để chiến tranh chấm dứt và TT Truman chọn hai trăm năm chục ngàn người đó là người Nhật. Không ai trách TT Truman nhưng rõ ràng sinh mạng và quyền lợi của Mỹ vẫn là ưu tiên tối thượng trong mọi quyết định của một tổng thống Mỹ.
Chiến lược Á Châu-Thái Bình Dương và Ấn Độ-Thái Bình Dương (Indo-Pacific Strategy) của Mỹ nhằm tạo một không gian “tự do” và “mở” (free and open Indo-Pacific) đối xử theo cam kết và luật định tại khu vực Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương.
Rõ ràng chính sách này nhằm tạo một đối lực thông qua các liên minh giữa Mỹ và các đồng minh Á Châu, cụ thể là Ấn Độ, quốc gia có dân số 1.3 tỉ người, với chính sách bành trướng vô luật pháp của Trung Cộng.
Còn khá sớm để đánh giá sự thành công của Ấn Độ-Thái Bình Dương (Indo-Pacific Strategy) nhưng chiến lược này như một học thuyết chính trị để đương đầu với Trung Cộng sẽ không thay đổi trong một thời gian dài.
Chủ thuyết Monroe chủ trương chống lại sự can thiệp của châu Âu đối với Mỹ và các nước Mỹ Châu bắt đầu từ thời TT James Monroe vào năm 1823. Đây là một trong những lý thuyết chính trị có ảnh hưởng lâu dài nhất trong lịch sử bang giao quốc tế của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Trên nguyên tắc, lý thuyết Monroe chấm dứt sau Đại Suy Thoái 1932. Tuy nhiên vào cuối thế kỷ 20, thuyết này vẫn còn được giải thích một cách rộng rãi bởi nhiều tổng thống Mỹ như TT John F. Kennedy trong biến cố Vịnh Con Heo, Cuba và TT Ronald Reagan trong chiến tranh chống chế độ CS Sandinistas tại Nicaragua.
Mỗi người Việt dù ít hay nhiều đều mang trên lưng những vết hằn của cuộc chiến, những kinh nghiệm hãi hùng trong những cuộc hải hành khủng khiếp trên Biển Đông hay những chuyến đi bộ đầy lo sợ qua các bãi mìn biên giới Thái-Miên. Những kinh nghiệm sinh tử và đau đớn đó chi phối cách nhìn, cách suy nghĩ, cách nhận xét của người Việt về mọi phương diện.
Việc thiếu đoàn kết trong cộng đồng người Việt, ngoài kinh nghiệm chiến tranh và vượt thoát, còn phát xuất từ khác biệt về giáo dục và điều kiện trưởng thành. Quá khứ khác nhau, giáo dục khác nhau, kinh nghiệm sống khác nhau nên khó có thể có một cái nhìn về tương lai giống nhau.
Do đó việc xây dựng một lớp người vượt qua được mọi tiêu cực để tập trung vào các mục tiêu chung là một nỗ lực vô cùng khó khăn nhưng đồng thời vô cùng cấp bách.
Tranh luận là chuyện bình thường trong xã hội dân chủ. Nhưng đừng quên giờ này trên 200 người đấu tranh cho tự do dân chủ hiện đang ở trong tù. Hãy yêu thương họ, sống với họ, viết cho họ, chia sẻ đau thương với họ và đấu tranh vì họ.
Dòng sông văn minh nhân loại đã chảy qua những cánh đồng khô ở Baltics, Trung Á, Đông Âu, Bắc Phi. Các chế độ độc tài lần lượt chìm sâu trong quá khứ, các chủ thuyết phi nhân đang bị xóa bỏ. Dòng sông đó vẫn còn đang chảy. Những gì các dân tộc bị trị làm được, dân tộc Việt Nam cũng sẽ làm được. Dù thời gian có thể phải lâu hơn, có thể phải dài hơn nhưng dòng sông văn minh chắc chắn sẽ một ngày chảy đến cánh đồng khô cháy Việt Nam.
“Việt Nam không có chọn lựa nào ngoài (1) phải có dân chủ và dân chủ phải đến sớm thay vì đến khi chiến tranh Á Châu bùng nổ, máu đổ, thây phơi mới đến,…”
Dựa trên cơ sở nghiên cứu nào mà tác giả dám quyết đoán là dân chủ sẽ đến cho Việt Nam trong tương lai. Trước đây, không ai có thể dự đoán được Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các cuộc tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001, cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, đại dịch COVID-19 hoặc cuộc bầu cử của Donald Trump xảy ra cũng không ai biết trước. Ngay cả những biến động của các nước Á Rập và gần đây nhất là Hồng Kông, những người đã dự đoán cho tương lai dân chủ của các nơi này cũng không thể nói chính xác là khi nào sẽ xảy ra. Đã đến lúc chúng ta phải dè dặt hơn là quyết đoán về mọi triển vọng phát triền cho Việt Nam.
Bỏ đi Tám . Ông này rơi vào loại mà trí thức trong nước gọi là “nóng vội & chủ quan”. Còn nhớ người nêu ra muốn thoát Trung phải thoát Cộng, mún thoát Cộng phải thoát Hồ hông ? Ổng đưa tên mình vô cái kiến nghị cuồng Đảng cuồng Hồ rùi . Last one kicked it, which mean hổng nên kỳ vọng gì nữa . Quên Việt Nam đi . Ở Việt Nam, vì cứ nóng lòng muốn làm 1 cái gì đó chớ hổng lẽ ngồi không, gonna end up làm bậy . To me, thats the sign; ABANDON SHIP!
Dân chủ thì thía này, CON NGƯỜI Xã hội chủ nghĩa hổng nên mơ tới dân chủ tư bửn, là thứ các bác 1 lòng đi theo Đảng để bức tử nó . Why? Vì có Đảng các bác thì hổng có nó, và ngược lại . Nếu nó “rũ bùn đứng dậy chói lòa”, bao nhiêu thành quả cách mạng mà các bác có được ngày hôm nay chỉ ngày 1 ngày 2 là tất thành cang, heck, tất như cang luôn . Bao nhiêu trí thức nhà các bác, qua 1 đêm sẽ ngồi chơi xơi nước, không có cả tiền hưu . Chỉ trong 1 tuần, lăng Bác sẽ nổ tung thành đống gạch vụn . Toàn bộ những gì các bác cho là đúng, là chân lý, là đáng kính trọng, đáng trao giải thưởng … nhất cư hết nếu Ngụy nó nắm được chính quyền . Dân chủ tư bản là chia cắt đất nước như Nga & Ukraine, và tương lai xa hơn 1 tẹo là chiến tranh . Đọc Nguyễn Tiến Tường đó, cùng ngôn ngữ nhưng chả có gì chung với nhau, cố vấn Tổng thống Zelensky cũng nói, mấy cây cầu bất lương đó đã cháy rụi rùi (those bridges are burned).
Những ai mong dân Ngụy bên này về lại Việt Nam để chiến đấu, it gotta be get rid of cái Đảng của các bác . Đánh Trung Cộng, bọn Ngụy sẽ học Thiền Sư Thích Nhất Hạnh biểu tình chống Mỹ . Taste yo own bitter fruits nhá .
CON NGƯỜI Xã hội chủ nghĩa các bác nên hòa giải hòa hợp với những ai cùng chia sẻ các giá trị của mình, thay vì cứ đè đầu mấy người chỉ muốn ẻ vào hệ thống giá trị của các bác đòi chúng mày không chịu thì cũng đek làm được gì . Hòa giải hòa hợp với những người cùng chia sẻ những giá trị thuyền thống của mình, các bác vẫn có thể ung dung tự tại tự sướng với nhau . Trung Hoa vô, nơi này vẫn thế . Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh vẫn đánh kính, Sáu liệng lựu đạn vào Dân vẫn đáng trọng . Đảng vẫn trường tồn, truyền thống cách mạng vẫn hết ý . Cứu Đảng là cứu nước, 1 vị đại trí thức các bác đã nói thế . Cứu được Đảng, đất nước ra sao cũng chả làm sao . Mà đất nước cũng vẫn còn đó, có ai bê đi đâu nổi.
Đặng Tiến vừa viết, muốn kiếm người Huế đúng, ya gotta kiếm ở nước ngoài . Hổng chừng, hổng chỉ có Huế . Muốn kiếm bất cứ cái gì Việt Nam, tất nhiên, Việt Nam ở đây hổng phải là như các bác hiểu, ya gotta ra nước ngoài . Thì cũng như Ngụy hồi xưa, cái gì các bác thải ra, Ngụy nó lụm hết rùi kêu của mình . Phần cách mạng của Chế Lan Viên thì ở miền Bắc, phần kia thì ở miền Nam . Bây giờ Nguyễn Xuân Diện muốn được giới thiệu để các bác nhận (vơ) về . Trí thức các bác biết mịa gì về văn hóa Việt Nam đâu mà đòi bảo tồn, xây dựng & phát triển nó . Trí thức Cộng Sản chỉ có thể xây nổi văn hóa Cộng Sản thui . Nói Việt Cộng thì các bác biểu là lăng nhục . Dân Ngụy hải ngoại bắt đầu nhận thức được cái văn hóa của các bác xây dựng mí nhau aint Việt Nam, và bắt đầu gọi nó bằng đúng cái tên từ trước 75. Văn hóa Việt Cộng . Cũng là 1 bản sắc riêng biệt đấy chớ .
“Các chế độ độc tài lần lượt chìm sâu trong quá khứ, các chủ thuyết phi nhân đang bị xóa bỏ.”
Thực tế ngược lại. Các chế độ độc tài càng ngày càng thắng thế. Chủ thuyết phi nhân của Nga và Tàu đang có tham vọng đặt lại trật tự thế giới bằng bạo lực. Hãy xem các cuộc chiến Ukraine và diễn biến gần đây của Thổ, Ba Lan và Hung thì sẽ nhận ra trào lưu chung. Các trào lưu dân tuý đang thu hút được dân nghèo tại các quốc gia dân chủ. Tình trạng phân hoá trầm trọng nên các chế độ dân chủ không vận hảnh. Quan trọng nhất là các nền tảng văn minh hiện nay đang bị đảo lộn, nên không chảy đi đến đâu hết. Việt Nam cũng chăng quan tâm để tiếp thu các giá trị mới, khi bạo lực cách mạng vẫn là giải pháp ưu tiên
“Nhưng đừng quên giờ này trên 200 người đấu tranh cho tự do dân chủ hiện đang ở trong tù. Hãy yêu thương họ, sống với họ, viết cho họ, chia sẻ đau thương với họ và đấu tranh vì họ.”
Đây là một lời kêu gọi đáng quý, nhưng thực tế phủ phàng, vì 200 người tranh đấu tự do dân chủ cho 94 triệu dân VN là một tỷ lệ bi quan cho triển vọng đấu tranh. Trong hoàn cảnh hiện nay, cụ thể là ai sẽ yêu thương họ, ai sống với họ, ai viết cho họ, ai chia sẻ đau thương với họ và ai đấu tranh vì họ.
Ai tiếp tục viết thỉnh nguyện thư như các bậc sĩ phu trong nước đã làm? Ai tiếp tục viết tuyên cáo cực lực phản đối như các hội đoàn ở hải ngoại đã làm? Ai tiếp tục tìm cách nhờ cậy các tổ chức quốc tế gây áp lực ngoại giao? Ai còn đề xuất nào khác hơn, thực tế hơn và hữu hiệu hơn? Vấn đề lại càng bi quan hơn.
“Việt Nam không có chọn lựa nào ngoài (1) phải có dân chủ và dân chủ phải đến sớm thay vì đến khi chiến tranh Á Châu bùng nổ, máu đổ, thây phơi mới đến, (2) đoàn kết dân tộc bởi vì một dân tộc chia rẽ không thắng được ai, (3) chủ động chiến lược hóa vị trí quốc gia để được các cường quốc tự do bảo vệ, (4) liên minh với láng giềng cùng hoàn cảnh và tham gia các liên minh tin cậy để tránh được chiến tranh hay có thêm thời gian để chuẩn bị chiến tranh.”
1. Phải có dân chủ? Tại sao phải? Dân chủ là một tiến trình dài kết tụ nhiều nỗ lực, những ai muốn và ai làm và làm bằng cách nào?
Đảng Cộng Sản VN không thích du nhập dân chủ phương Tây vì chỉ muốn tiếp tục độc tài đảng trị.
Dân chúng trong nước do chính sách giáo dục ngu dân của Đảng nên cũng không hiểu biết giá trị cao đẹp của dân chủ và cũng không có động lực khích lệ để đứng lên tranh đấu. Đa số chỉ muốn có tự do kinh tế và không muốn tự do chính trị.
Người Việt ở hải ngoại dù có kinh nghiệm sống với các nước phương Tây cũng không có mấy người rút được kinh nghiệm dân chủ để đóng góp cho việc cải cách nước nhà.
Các nước dân chủ phương Tây đang lâm nguy, nên cần phải cải cách triệt để, vì giá trị lung lay không thể là một mô hình cho các nước đang trỗi dậy noi theo. Các phong trào dân tuý là một thí dụ thời sự. Làm sao Việt Nam phải có dân chủ?
2. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy dân tộc VN đoàn kết để chống ngoại xâm mà không đoàn kết để chống Đảng CSVN. Còn công an và quân đội đủ mạnh để trấn áp mọi cuộc nỗi dậy, nên ĐCSVN sẽ tiếp tục thống trị nhân danh là biểu tượng đoàn kết dân tộc.
3.Tinh thần nô lệ tư nguyện Trung Quốc của ĐCSVN đang ổn định còn tiếp tục toả sáng, do đó việc chiến lược hoá vị trí quốc gia là không cần thiết.
4. Tham gia với các liên minh tin cậy không thể xảy ra, vì liên minh với Trung Quốc là chuyện định mệnh đã an bài. Ngoài ra ĐCSVN không còn tin cậy ai.