GIÉC MANH TẢN MẠN KÝ
Nam Nguyễn
28-6-2021
Trích “Đông Âu Anh Hùng Truyện”
Nước Đức bắt đầu bước vào đợt lockdown thứ 2 của năm Covid đệ nhất. Đường phố vắng tanh, xe cộ thưa thớt. Quảng trường Alexander platz ở trung tâm thủ đô Berlin tối om như Hà Nội thời đun bếp trấu. Số người chết trong vòng 24 giờ đồng hồ lên tới gần nghìn, giường cấp cứu trên toàn quốc cũng chỉ còn hơn 5000 cái (so với Đức thế là hết cực nhanh). Mang tiếng là ông tổ của máy thở mà giờ đây hãng Draeger cũng thúc thủ với lượng đơn hàng khổng lồ từ khắp thế giới đổ về.
Báo chí đưa tin, có bệnh viện đã phải tính đến biện pháp chọn lựa để ai sống và ai sẽ phải chết. Dĩ nhiên thiệt thòi sẽ rơi vào nhóm có bệnh nền và người già, những nhóm mà khả năng cống hiến không còn nữa. Người Việt chắc sẽ chấp hành lệnh phong tỏa lần này nghiêm túc hơn. Lần light lockdown cách đây hơn tháng, cảnh sát đã bắt một sòng bạc của người Việt, phạt 12 con bạc không sợ Covid mỗi chú 2500 Euro. Riêng chú chủ tiệm, ăn cái hoá đơn 25000 “OI” và đóng cửa luôn.
Sau đó là vụ phi hành đoàn 41 anh chị Karaoke kiêm bay lắc bị hàng xóm báo cảnh sát bắt quả tang. (Báo cảnh sát được tiền thưởng, tội gì không báo??? Ở Việt Nam mà treo thưởng kiểu đó thì có đến F 35 tàng hình của Mỹ bố mày còn tìm ra chứ đừng nói là F1, F2…). Đợt này chính phủ cũng hào phóng. Bỏ ra hơn 2 tỉ Euro mua khẩu trang phát miễn phí cho dân chúng. Ông nào cứ 60 đổ lên, chỉ việc cầm chứng minh thư hoặc thẻ bảo hiểm y tế ra hiệu thuốc gần nhất là được lĩnh 03 cái khẩu trang FFP2 không mất tiền.
Nghĩ đi nghĩ lại, ở nhà là sướng nhất. Đèo mẹ, nhìn mấy thằng em ngồi bún đậu, mắm tôm vỉa hè thèm nhỏ dãi mà không về được. Chuyến bay thương mại thì không có, còn bay giải cứu càng không đến lượt, đơn giản nó không dành cho người định cư tại đây. Đây là tâm trạng của không ít người Việt tại Đức trong những ngày u ám này.
Người Việt ở Đức trước ngày thống nhất nước Đức năm 1990 chia làm hai thành phần. Thành phần ở phía Tây thuộc CHLB Đức và phần phía Đông thuộc CHDC Đức. Phía Tây, vì chính quyền Việt Nam cộng hoà có quan hệ ngoại giao với nhà nước CHLB Đức nên có trao đổi sinh viên. Số này học hành đang ngon trớn thì đùng một cái, xe tăng của anh Thận hay Tụy gì đấy đâm đổ mẹ cổng dinh Độc lập. Anh chị em sinh viên Sài Gòn nghiễm nhiên trở thành đám người vô thừa nhận, dù rằng trong huyết quản vẫn có hồng cầu của Lạc Long Quân. Họ được nhà nước CHLB Đức cấp quyền cư trú và trở thành lứa trí thức khá thành đạt sau này.
Sau 1975, đến lượt anh chị em miền Nam, hoặc né vụ đi cải tạo, hoặc hút Salem, Quân tiếp vụ quen rồi, giờ hóp má rít thuốc rê không chịu nổi, đành học anh Ba của bên thắng cuộc tìm đường vượt biển, mong làm lại cuộc đời ở xứ nào cũng được, trừ đất nước hình rươi. Số người bỏ xác lại trong lòng biển Đông không phải ít, cũng vì tàu bé, tài công tồi, tham chở nhiều người và dự trữ lương thực nước uống không đủ. Đó là chưa kể đến nạn cướp biển Thái Lan, Mã Lai. Tụi này là ông tổ của cướp, giết, hiếp.
Cũng trong thời kỳ này nổi lên con tàu huyền thoại Cap Anamur của CHLB Đức trên biển Đông, ân nhân của nhiều thế hệ thuyền nhân Việt tại Đức. Từ tháng 8 năm 1975 đến 1982 thuyền trưởng Rupert Neudeck và thuỷ thủ đoàn đã cứu được 9500 người vượt biển gặp nạn và chăm sóc y tế trên tàu cho 35000 người Việt. Chính phủ CHLB Đức đã nhận tổng cộng hơn 30 nghìn thuyền nhân từ các trại cấm ở khu vực Đông Nam Á và cho phép họ định cư tại Đức, tạo ra thế hệ Việt kiều đầu tiên tại đây.
Phía Bắc Việt Nam, tức Việt Nam dân chủ cộng hoà cũng không kém. Mở đầu cho thế hệ người Việt miền Bắc đặt chân lên nước Đức phải kể đến 350 thiếu sinh quân (die Kinder von Onkel Ho) được ông Hồ Chí Minh đưa sang học tập tại Moritzburg thuộc bang Sachsen ngày nay.
Trong số Moritzburger này nổi lên tiến sỹ Lê Đăng Doanh, tốt nghiệp trường Leuna-Merseburg năm 1967, sau này trở thành thư ký và trợ lý cho nhiều nhà lãnh đạo cao cấp của Việt Nam như Phạm Văn Đồng, Nguyễn Duy Trinh, Nguyễn Văn Linh. Năm 1992, người viết bài này có dịp tháp tùng ông Doanh đi chơi hội bia Oktoberfest tại Munich. Đi hội bia nhưng thấy có quầy vang bên ngoài, ông vào uống thử. Ông chủ tiệm thấy một tay mắt híp, uống vang có vẻ sành điệu nên tò mò hỏi, ông từ đâu đến? Tôi từ Việt Nam. (Thời đó ở Việt Nam có nút lá chuối uống là như Tết, nói gì đến cái loại phải xoáy xoáy, vặn vặn). Tay bán vang đố, giờ tôi mời ông một cốc vang, ông nói đúng tên vùng sản xuất và niên kỷ của chai vang này, tôi mời ông và cu cậu đi theo này uống say thì thôi. Vang rót ra, cụ hít, ngửi rồi cho vào miệng súc nhẹ vài vòng. Phán một câu xanh rờn, vang vùng X, đóng chai tầm năm Y. Chủ tiệm lùi mấy bước lạy như tế sao. Đúng là bợm phải trả lại tiền.
Dân du học Đức sau này trở về Việt Nam vào các bộ ngành nhiều. Song thành nhân cũng có mà thành phạm nhân cũng không hiếm. Điển hình là Nguyễn Thiện Nhân, học Đại học kỹ thuật Magdeburg từ 1972, đến 1979 làm tiếp Phó tiến sỹ. Đây có lẽ là người duy nhất từ Đức trở về leo lên đến tầng lớp chóp bu tại Việt Nam. Anh Vũ Huy Hoàng, học Đại học Mỏ-Luyện kim Freiberg từ 1970-1975. Về nước anh cũng leo đến chức Bộ trưởng Công thương. Khổ cái, anh học Mỏ nên khai thác sâu quá, chạm tầng cháy nổ nên cuối đời hạ cánh trúng phải ổ gà.
Đến thập kỷ 80, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu lao động. Chủ yếu là sang Nga, Tiệp khắc, Bungari và Đông Đức. Tại Đức, lúc cao trào có đến 80.000 lao động Việt Nam sang làm việc, được đi Đức coi như “trúng quả”. Lứa đầu sang quãng đầu 1980. Họ sống theo các đội. Đội dệt may, đội cơ khí, điện tử, máy nông nghiệp, ô tô… Làm theo ca kíp, ở nhà tập thể. Đội nào có cả nam lẫn nữ coi như trúng số độc đắc. Đa phần là đội nam riêng, nữ riêng. Muốn thoát khỏi kiếp quay tay lấy may, mấy con đực chỉ còn cách dành ngày nghỉ hoặc cuối tuần đến với con cái. Phòng 4 cô, thêm 4 anh, căng ri-đô lên cũng thành buồng hạnh phúc. Kêu la, giãy giụa nghe chung, chẳng phân biệt vùng miền. Mà khi màn đêm xuống rồi, tiếng rên ở bờ nào của sông Hiền Lương mà chẳng giống nhau?
Đồng lương của lao động hợp tác tại Đức ở mức trung bình. Họ nhận từ 800 DDR – Mark, gọi là Ostmark, đến 1200-1400 cho công việc của mình. Nếu làm thêm giờ và có tiền độc hại, thu nhập có thể còn cao hơn.
Tính mặt bằng giá cả, 10 Mark 1 kg thịt lợn hoặc thịt bò, chai bia 65 xu hay chai rượu tầm 14 Mark, đồng lương này đủ tiêu xài. Nhưng ai cũng có gánh nặng ở quê nhà, nhất là ở thập niên 80, Việt Nam ở đỉnh của khó khăn. Tích cóp độ 3, 4 tháng là mua được cái Mô- kích, chiếc xe đạp Mifa giá bán ở cửa hàng cũng chỉ ngoài đôi trăm. Tháng nào ở bưu điện cũng thấy người Việt xếp hàng gửi hàng về. Xe đạp tháo rời, lấy chăn len cuộn vào, khâu lại như cây đàn. Tây không biết cứ trầm trồ khen, tụi mày đánh nhau đã giỏi, thắng cả Mỹ mà lại còn yêu âm nhạc thế.
Nhưng bóp mồm, bóp miệng mãi trong khi cám dỗ đầy ngoài phố. Nào là râu ngô mơn mởn, nào là sàn nhảy, rượu ngon, quần áo mốt…. ai chịu được. Thế là phải đi buôn lậu.
Khởi đầu là vài cái băng cát sét, mấy cái đài 2 cửa băng, 1 thu 1 phát. Sau đó đến nghề may quần áo bò. Thằng nào cũng “chân tươi, chân héo” vì đạp máy khâu. Sau đó đổ thuốc tím vào mài trong bồn tắm biến thành bò mài. Bài hát thịnh hành nhất thời đó là “Những đồi hoa sim” vì chết lòng các thợ may ở câu “tím chiều hoang biền biệt”. Ông nào trong túi áo cũng có cái thước dây, gặp “gà” là quăng ra lấy số đo. Chẳng qua lò may 10 hay trường lớp nào, vào đũng quần cho Tây mặc thử thấy “chuông mõ” đùn ra như hai cái bánh bao, vẫn gật gù, “mày mặc vừa đáo để”!
Đến năm 1987-1988 các cửa hàng đồ cũ của DDR đồng loạt nhận mua máy tính để bàn. Đông Đức của đáng tội cũng sản xuất Computer, nếu nhớ không nhầm là của Robotron. Song máy to như cái chạn để bát ở quê, tốc độ sánh với rùa còn không nổi. Các công sở cũng cần cải tiến cách lưu trữ. Nhà nước kẹt cái là không có ngoại tệ nên cửa nhập chính thống coi như tịt, phó mặc cho tụi buôn lậu đưa hàng tiểu ngạch vào bán chui. Đây là thời kỳ hoàng kim của người Việt ở DDR. Một bộ Computer loại vớ vẩn như Schneider 1512, có monitor, bàn phím, chuột và thêm cái máy in mua vào có 28-30000 Ostmark. Bán cho Tây thu về 65000. Giá USD chỉ 1:10. Bán xong giàn máy quy ra đô được ngay 3000 – ba chục “tờ”. Suôn sẻ tuần bán 3 bộ làm được căn nhà mặt phố ở Hà Nội. Đến cái Hard Disk sức chứa có 64 KB (xin nhắc lại là 64 KB) bán cũng lời 5, 6 nghìn!
Cơn mưa vàng này kéo dài gần năm trời, làm thay đổi biết bao số phận và cũng khiến nhiều căn nhà mặt tiền ở Thủ đô rơi vào tay người… Hà “lội”. Trong số các anh tài ăn theo cơn bão này có thể kể đến Thái “còm”, Dương “con”…, những người sau này dựng lên vũ trường New Century ở Tràng Thi, Hà Nội đình đám một thời. Xe Simson được mua về, tính theo diện tích chứ không tính xe. Ví dụ, thằng A có một sân bóng chuyền xe máy thì làng biết A là “tay to” rồi. Đến cuối 1988 “cơn mưa vàng” lắng xuống, các thế hệ cộng “mốc” hồi hương dần. Lứa sang tiếp quản là lớp bộ đội phục viên, xuất ngũ, thanh niên xung phong…v.v. Lứa này bạo dạn hơn hẳn các lứa trước, sinh hoạt cũng thoáng đãng hơn lớp cũ, nhất là trong khoản “trai gái, cái đực”. Lượng thuốc tránh thai tiêu thụ trong các nhà tập thể của người Việt bóp chết số liều Aspirin hoặc Paracetamol người dân Đông Đức mua tại các hiệu thuốc. Không khí hoan lạc tràn ngập vì trai đã tìm được chỗ chuyên ngồi đái, gái vớ được gậy bóng chày, khác hẳn thời khổ hạnh, ngủ với nhau đánh cái rắm to cũng sợ đội trưởng biết.
Năm 1989 là một năm đầy biến cố với CHDC Đức. Số người Đức đi sang Tiệp Khắc du lịch sau đó chạy vào Đại sứ quán Tây Đức xin tị nạn tăng vọt. Trong nước các tổ chức đòi nhân quyền, dân chủ tiến hành biểu tình bắt đầu từ thành phố Leipzig. Phong trào sau đó lan rộng ra toàn quốc. Tối thứ hai hàng tuần, già trẻ lớn bé đều đổ xuống đường biểu tình. Cảnh sát ban đầu còn cố gắng giải tán những nhóm tụ họp nhỏ, sau bất lực trước lượng người tham gia hùng hậu. Lác đác đã có những phát ngôn đòi quyền tự do đi lại, thậm chí đòi thống nhất nước Đức. Hình ảnh một Thiên An Môn giữa lòng CHDC Đức đã hiển hiện.
Lần Quốc khánh Đức năm đó, Gorbachev từ Nga sang dự. Bắt tay Honecker (Tổng bí thư Đảng xã hội thống nhất Đức), Gorbachev nói một câu như lời tiên đoán cho số phận của ông Tổng cũng như nhà nước 40 tuổi đời của ông “kẻ nào đến muộn, kẻ đó sẽ bị lịch sử trừng phạt”. Sau đó Hungary tháo gỡ hàng rào biên giới với Áo. Rumania thì chơi hẳn luật rừng, lôi vợ chồng Ceaucescu ra chế thành tổ ong sau mấy loạt AK. Ngày 9.11.1989, Đông Berlin mở cửa biên giới với Tây Berlin. Bức tường Berlin, cái mà thế giới tư bản gọi là “bức tường ô nhục” đã sụp đổ trong đúng một đêm. Người Đức đã trả giá trong 2 thế chiến bằng nhiều triệu sinh mạng. Lần này, họ tỉnh táo hơn, lí trí hơn và mọi chuyện đã diễn ra trong hoà bình.
Sau những ngày hân hoan, thực trạng của đất nước Đức XHCN dần được phơi bày. Hàng hoá không còn trao đổi trong khối Hiệp định chung được vì ông anh cả, con gấu Nga cũng trúng thương, nằm chờ thợ săn đến lấy mật. Các nước trong phe XHCN còn đang lo giữ lấy nóc nhà của mình. Thị trường tư bản lại không chấp nhận các sản phẩm công nghiệp của Đông Đức vì chúng không đạt tiêu chuẩn. Nông sản cũng ế vì khâu bảo quản và chế biến quá kém. Rồi cái gì phải đến cũng đến. CHDC Đức phải chấp nhận dùng đồng D-Mark của CHLB Đức, đồng nghĩa với việc chấp nhận sáp nhập phần lãnh thổ của mình vào Tây Đức.
Người Việt nghiễm nhiên trở thành nạn nhân của cuộc thống nhất này. Xí nghiệp, nhà máy đóng cửa hàng loạt, không có lương. Chính phủ chu cấp cho một thời gian rồi bố trí cho lực lượng thợ khách hồi hương. Mỗi người nhận 3000 D-Mark tiền bồi thường và lên máy bay về nước. Số ở lại tự bươn chải, mưu sinh. Bắt đầu từ đây người Việt “xuống đường” chinh chiến, mở đầu cho một thời kỳ gian lao, đẫm mồ hôi, nước mắt và cả máu.
Đầu thập kỷ 90, các chợ giời mọc lên như nấm sau mưa ở Đông Đức. Chợ nào cũng có vài bóng đầu đen, có nơi con cháu Hùng King làm hẳn một khu lớn. Dân Đông Đức cũ thiếu thốn đủ thứ, tiền lại mới được đổi, để trong nhà nóng như có hoả hoạn. Vậy là đem ra tiêu. Hàng hoá thời kỳ này chỉ là băng đĩa của các ban nhạc chuyên hát Schlager (một dạng bô-lê-rô trong âm nhạc Đức), quần áo, khăn trải bàn, đồ điện tử gia dụng rẻ tiền. Nguồn hàng chẳng phải đi đâu xa, dân Dresden chỉ chạy hơn 200 km sang đến West Berlin, lượn qua mấy khu phố Thổ, đong lấy một xe đủ chủng loại hàng. Hôm sau bày ra sạp, kiểu gì cũng có đôi nghìn tiền lời. Chợ có cái mở thứ 2,4,5 cái mở 3,5,7. Cứ thế sắp xếp lịch đi, không nghỉ ngày nào. Ra chợ cứ thấy sạp hàng nào màu sắc như cầu vồng, hàng hoá cái trên bàn, cái dưới đất và người bán hàng tròn xoe như con lật đật vì mặc 2, 3 lớp áo khoác thì đích thị đó là quầy của dân Giao Chỉ. Phơi nắng sương suốt ngày, về sau đây là nguồn cơn của lớp người Việt phải chung sống với máy chạy thận và thuốc trợ tim. Ở thủ đô Berlin, nghề đi chợ cũng thịnh hành. Song tại đây có một nguồn béo bở do người Nga, gồm cả lực lượng lính Nga đồn trú cung cấp: thuốc lá. Buôn thuốc lá lãi cao. Đêm đêm trên các cánh rừng quanh Berlin, cảnh buôn thuốc giữa người Nga và người Việt thật sôi nổi. Nhiều vốn thì làm cái Minivan cũ, nhét lên 2000 tút Marlboro, West gì đó. Chạy về tới nhà tập thể, sang tay cho lực lượng bán lẻ ngay và luôn cũng được hơn nghìn D-Mark. Còn người bán lẻ, phải phơi mình dưới nắng mưa, băng tuyết được hưởng số lãi cao hơn. Trung bình một bao thuốc mang lại cho người bán lẻ 1,5 đến 2 đồng DM.
Người Việt đứng đầy các ngã tư, ngã năm. Cứ đến đợt đèn đỏ, các phương tiện giao thông dừng là họ lao ra chào mời thuốc lá, cách tiếp thị so với lớp tiền bối phe vé ở rạp Tháng 8 Hà Nội bạo dạn gấp bội phần. Buôn thuốc lá lãi suất cao nhưng hiểm nguy không ít. Đầu tiên là hải quan và cảnh sát bắt, tịch thu thuốc, nhốt vào đồn lấy vân tay, sau đó phạt khá nặng. Cái này người Việt điếc vì họ tâm niệm lúc đó, mình có ăn đời ở kiếp ở cái xứ băng giá này đâu mà tính xa? Cố cày lấy vài chục cây vàng rồi khăn gói hồi hương, tậu con vợ, xây quả nhà là mỹ mãn rồi. Khổ cái tiền vào nhiều ham, sau có đến một, hai trăm cây vẫn chép miệng “một đời ta muôn vàn đời nó”, tội gì không mần tiếp. Về sớm sau này thằng đồng hương cùng xã về xây nhà to hơn thì nỏ biết nói với cha mạ ra răng. Có buôn lậu sẽ có cạnh tranh, mà là cạnh tranh không lành mạnh, đi kèm với bạo lực. Khởi đầu là mấy tay du côn tụ họp lại đi bắt người bán thuốc, bán xôi chè, bún phở trong các khu nhà tập thể đóng tiền bảo kê. Vì muốn yên thân, những người buôn bán này chấp nhận nộp tiền. Sau thấy dễ nuốt, mấy tay “bộ đội” này tiến đến yêu cầu cao hơn, bắn đóng hụi chết cho những địa điểm người bán thuốc lậu vẫn đứng hoạt động. Đó có thể là cửa một cái siêu thị, một cái ngã tư, ngã năm sầm uất, miễn có nhiều người qua lại . Tiền bảo kê này dựa vào doanh số của khu vực đó. Ngày bán được nhiều sẽ đóng nhiều và ngược lại.
Trong số bộ đội làm nghề này nổi lên Nam “Động” và Tuấn “Hà Nội”. Kiếm tiền dễ, thấy bà con hiền lành dễ bắt nạt, mấy chú này bắt đầu làm càn. Đấm đá, chửi bới, trấn lột xảy ra như cơm bữa. Tức nước tất phải vỡ bờ, bà con tiểu thương (gọi thế cho nó lành mạnh) kiến nghị lên một số cốt cán người miền Trung đề nghị giúp dẹp đám thảo khấu đang tác oai tác quái này. Số cốt cán đa phần là những bộ đội phục viên, cựu công an cũng đang lêu lổng, đôi lúc cũng bị đám “bộ đội” Bắc kỳ đà cản mũi trong làm ăn. Nhóm này đứng lên lập hội Từ thiện, mục đích ban đầu cũng trong sáng như thời Xô viết Nghệ Tĩnh là đòi lại công bằng cho quảng đại quần chúng.
Vào một ngày đẹp trời, Nam “Động” vừa khệnh khạng xuống xe trước cửa một khu tập thể của người Việt ở Berlin thì bị bốn bàn tay cứng như thép khoá chặt hai bên. Một cú lê xiên thẳng vào bụng. Nam rũ xuống và bị kéo lê lên tầng hai khu nhà. Tại đây đã có một Thạch Sanh cầm rìu chờ sẵn. Một cú bổ của gã tiều phu này chẻ đôi phật thủ của tay giang hồ xóm, Nam giãy được mấy cái trên đống đậu Mơ nhầy nhụa rồi hồn du địa phủ.
Mấy hôm sau, đến ku Tuấn “Hà Nội” ăn trọn băng đạn AK lúc ngồi trong ô tô. Hai vụ này làm rúng động phe Hắc đạo Bắc kỳ. Mất cả đại đội trưởng lẫn chính trị viên trong tích tắc, phe Bắc kỳ tan rã và phía miền Trung lên ngôi. Bộ đội Bắc dạt về các tỉnh mai danh ẩn tích, nín thờ chờ thời. Berlin rơi hoàn toàn vào tay quân khu Bốn.
Thiên hạ đã tưởng thế là thái bình đã trở lại, Bắc Trung Nam lại cùng ca bài như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng. Nhưng khi đã có “quyền bính” trong tay, người Việt đánh mất mình cũng nhanh như lúc tạo dựng tên tuổi. Băng miền Trung quay ra cắn xé, tranh giành lãnh địa làm ăn và phân hoá. Có đội thuộc Quảng Bình, đội Nghệ An, Hà Tĩnh. Rồi trong cùng một tỉnh cũng phân biệt đội Vinh, đội Thanh Chương… Đến bố ông Đinh Bộ Lĩnh sống dậy cũng không thể mời các hội này ngồi cùng mâm uống chén rượu kể cả vào ngày Quốc Khánh.
Các băng nhóm miền Trung thống trị Berlin trong một thời gian khá dài. Những gương mặt tiêu biểu có thể kể đến Vân “bụng” (vụ Vân bụng bị hạ thủ đến giờ vẫn là một ẩn số), Tịu “híp”, Trị “bờm”, Hà “lì”… Sẵn tiền mua vũ khí (súng quân đội Nga bán ở chợ đen như bán rau), em út từ quê sang tị nạn đông, cứ vài chục người là lập thành băng, tha hồ tung hoành. Nhưng để nói đến mức độ tàn bạo chắc không ai qua được Lê Duy Bảo với biệt danh Ngọc Thiện. Sang Đức năm 1993, chỉ một thời gian sau băng Ngọc Thiện đã thâu tóm 2/3 thị trường thuốc lá lậu của người Việt tại Berlin. Đỉnh điểm là vụ hành quyết 6 người Việt trong một căn chung cư tại quận Marzahn. Tất cả đều bị bịt mắt và bắn vào đầu.
Vụ án này làm rúng động truyền thông và tốn không ít giấy mực của báo giới. Bắn giết trong cộng đồng người Việt là chuyện thường nhật. Đi karaoke, nhìn thằng bàn bên ngứa mắt, lôi ra cửa bắn. Đá bóng ở sân trại tị nạn, va chạm nhau, lập tức bỏ bóng… bắn người. Các sát thủ Việt học hỏi phim ảnh Hồng Kông quá nhiều, lúc hành quyết thường có những hành động kiểu Châu Nhuận Phát. Thế nên mới có vụ, chợ đang họp đông, một chú Việt Nam lê khẩu AK dài hơn người ra làm một tràng thị uy. Không dùng hàng nóng bao giờ, súng giật chú ngã lăn quay trên bãi cỏ. Rồi vụ năm chú đuổi bắn một chú như phim hành động. Đối phương ngã rồi, có chú còn tiến đến làm thêm phát vào đầu, coi như chốt hạ.
Sau vụ Ngọc Thiện, cảnh sát liên bang vào cuộc vì dư luận quá phẫn nộ. Cảnh sát lập hẳn chuyên án về băng đảng người Việt gọi là Soko Vietnam. Các cuộc truy quét diễn ra rầm rộ, các nhân chứng được triệu tập. Có trường hợp công tố viện chấp nhận thay đổi danh tính, nhân thân, cấp quyền cư trú cho nhân chứng để họ mạnh dạn khai ra hung thủ. Côn đồ người Việt thật ra mới ở đẳng cấp lưu manh, sánh sao được với “phia” Nga, Ý. Bắt cho vài chục chú, giã mỗi chú 1,2 án chung thân. Thế là khai hết, đổ tội cho nhau, miễn thân mình thoát cảnh ngục tù. Các băng nhóm tan rã nhanh hơn vụ Cần Vương của cụ Phan!
Cũng từ giai đoạn này, nước Đức nới lỏng quy chế định cư cho người Việt. Miễn có nhà cửa đủ rộng, thu nhập đủ sống là được cấp phép cư trú. Có giấy tờ rồi, không còn là công dân hạng ba nữa, người Việt bước vào thương trường với tư cách khác. Nhiều người lập công ty, đưa hàng dệt may, thực phẩm từ Việt Nam sang bán. Hàng quay về ban đầu là xe IFA, máy móc, thiết bị cũ, sau đó đến hàng tiêu dùng, thiết bị cao cấp hơn. Học theo gương các “soái” Nga, Ba Lan, người Việt tại Đức cũng mở chợ đầu mối, chuyên bán buôn. Có thể kể đến Vina Center ở Dresden của Dũng “con”, chợ Đồng Xuân của anh em Hiền “râu” tại Leipzig, chợ “Rhin 139” của chị Thắng. Mỗi chợ có từ vài chục đến tầm trăm quầy giao hàng. Nếu so với chợ Vòm bên Mát hoặc chợ sân vận động ở bên Vác thì quy mô kém xa. Dẫu sao người Việt đã bắt đầu có sân chơi riêng.
Từ chỗ phải đặt hàng hoặc mua lại từ Trung Quốc, Thái Lan, Pakistan, người Việt ở Đức đã mở xưởng may ở Việt Nam, tự thiết kế mẫu mã, chủ động tìm nguồn nguyên vật liệu để mở rộng sản xuất. Có những xưởng may ở Hải Dương, Thái Bình, Nam Định tạo ra công ăn, việc làm cho hàng nghìn người lao động. Hàng hoá tràn ngập trong các khu giao hàng. Đây cũng là lúc các đầu mối đưa hàng từ Ba Lan, Hungary… vào Đức bùng nổ. Điển hình là anh em Quân-Trường-Sơn tại Ba Lan (mà TSQ ở Hà Nội dân bất động sản nghe cũng thấy quen quen đấy). Ba anh em nhà này đã biến hoá hàng nghìn container hàng dệt may xuất xứ Việt Nam thành hàng Ba Lan (được ưu đãi thuế) tuồn vào Đức. Thế nên đã có vụ hải quan Đức bắt được nhiều công hàng nghi vấn có xuất xứ ngoài châu Âu. Kiểm tra, giám định chán không xác định được nguồn gốc. Chỉ đến khi họ đem mảnh giấy lót phía trong phần thêu của áo len đi dịch mới biết đó là xã luận báo Nhân dân của đảng cộng sản Việt Nam thì mọi việc mới vỡ lở.
Bước vào thế kỷ 21, mô hình kinh doanh của cộng đồng người Việt tại Đức có thêm nghề mới: nghề làm móng – Nail. Người đưa nghề này vào Đức nghe thiên hạ đồn là Sơn Nail, một Việt kiều Mỹ. Đây được coi là ông tổ tạo ra nghề mài giũa cho hàng chục nghìn người đã và đang hành nghề khắp các hang cùng, ngõ hẻm ở Đức quốc xã. Người người cầm giũa, nhà nhà quét Gel. Có những ông nghề chính từ xưa đến nay là đi dán băng dính vào mồm thiên hạ (cướp), bẻ khoá, cậy cửa, nay cũng đi nâng niu bàn tay, bàn chân người Đức kiếm tiền. Từ chỗ chỉ làm móng, một số người thức thời chuyển sang buôn vật tư nghề nail và cũng tạo dựng nên tên tuổi như Cường Maika, Hà Nail, Luỹ Nhàn….
Nhưng nghề làm người Việt có tiếng tăm trên nước Đức lại là nghề hàng ăn. Trước năm 2000, các quầy bán đồ ăn của người Việt chủ yếu bán mấy món cơm rang, mỳ xào theo dạng ăn nhanh. Lác đác có người mở quán thì cũng theo mô hình Tàu, nghĩa là đèn lồng treo cao, câu đối, long ly quy phượng, sư tử chầu ngoài cửa tiệm như sở thú. Sau đó người Việt tiến tới mở các chuỗi hàng ăn nhanh tại khắp các siêu thị lớn, nhà ga trên nước Đức.
Tiên phong cho trào lưu này phải kể đến Asia Goumet của chị Tâm “Koch”, sau này để lại cho vợ chồng con gái là Trà Thảo tiếp quản. Lúc đỉnh cao, gia đình chị Tâm có đến 80-90 quầy nằm ở những vị trí đắc địa nhất. Doanh số quầy này bù quầy kia cũng khoảng 3-4 nghìn Euro/quầy một ngày. Tiếp bước theo gia đình bà Tâm là vợ chồng Hùng Xuân với thương hiệu Asia Hung, số quầy và doanh thu cũng ngang ngửa. Có thể kể đến một vài tên tuổi khác như Thăng Long, Hùng Haiky, Cocos…
Sau làn sóng tiệm ăn nhanh, được sự tiếp sức của làn sóng du lịch của người Đức đến Việt Nam, chắp cánh bởi đường bay thẳng Hanoi-Frankfurt, HCMC-Frankfurt của Vietnam Airlines, người Đức đã biết đến nền ẩm thực “nói không với dầu hào” của con dân nước Việt. Đồ ăn Việt tươi, nhiều rau và chủ yếu xào nấu trực tiếp. “Bóp chết” đồ ăn Tàu ở món nước mắm làm nên mùi vị đặc trưng, người Việt cũng thiết kế quán tiệm thật gần gũi với thiên nhiên, tận dụng tre, nứa trong thiết kế không gian bán hàng. Quán Việt mở ra với tốc độ chóng mặt, khách đông nườm nượp.
Nói đến Sushi, ai cũng hình dung ra một ông như Samurai đứng sau quầy múa dao, chạy bàn là mấy Kimono lả lướt. Thưa, hình ảnh đó Diễm rồi. Quán Sushi tại Berlin giờ nằm trong tay người Việt. Cũng vung dao chém miếng Sashimi thành thục như đàn anh ở Tokyo nhưng mồm vẫn điện thoại báo con đề về Hà Nội. Cá hồi, cá ngừ đại dương, cá tuyết cũng không còn là món hàng độc quyền của mấy ông Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ và kể cả Đức. Công ty Le Seafood của Sơn “lim” đã phủ hàng kín Berlin. Xe giao hàng chạy như ong vỡ tổ.
Cũng không có những cuộc dịch chuyển ngoạn mục về Việt Nam như anh Vượng Vin hoặc chí ít như anh Thân “địa chủ” chợ “Sân vận động”. Nước Đức chia đều cho số đông. Ai cũng có công ăn, việc làm. Nếu có chí, chăm chỉ thì có cuộc sống đủ đầy. Cái hay và cái dở của nước Đức nằm ở khâu phúc lợi xã hội. Ở đây không ai phải khúm núm trước một ông soái nào cả. Ông trả lương tử tế, tôi phục vụ ông. Bầy nhầy tôi lượn, việc đầy ngoài đường. Nhỡ có đau ốm, bệnh tật đã có bảo hiểm lo, thiếu tiền nhà thì xin trợ cấp xã hội. Trẻ con đi học không phải trả xu nào, cũng không có ngày 20/11 để bố mẹ đến xếp hàng ở cửa nhà thày cô. Hết giờ làm, đi nhậu có gặp sếp cũng chỉ Hello là xong. Sếp nhiều tiền dùng bò Kobe chiêu với Macallan thì lính cũng đủ tiền làm chai John đỏ với nồi chép om dưa. Cái dở của việc nhà nước bao cấp là nó làm cho người ta ù lì hơn, AQ hơn và kém năng động. Kiểu, kệ bố mày, mày cứ lo thân mày đi, tao đã có nhà nước lo.
Bố mẹ Việt giống nhau ở đoạn nuôi dạy con cái. Ở Việt Nam thế nào thì ở Đức cũng vậy. Người Việt luôn đốc thúc con cái học hành, tạo điều kiện tốt nhất cho thế hệ kế tục, đúng tinh thần con hơn cha nhà có phúc của ông bà để lại. Thế hệ 2 và 3 ở Đức đã có chỗ đứng trong xã hội. Nhiều tiến sỹ trẻ, thậm chí có hàm giáo sư đã xuất hiện. Vài nơi, người gốc Việt đã tham gia chính trường. Tất nhiên không tính đến ông Roessler, cựu chủ tịch đảng FDP, kiêm phó thủ tướng Đức vì ông này ăn khoai tây và Doener là chủ yếu, cội rễ bong tróc từ lâu rồi. Lứa trẻ cũng có định hướng riêng. Có người phàn nàn, em chuẩn bị 200 ngàn Euro cho con để nó mở quán, kiếm tiền cho nhanh. Ai ngờ nó bảo, quán con không cần, nếu bố cho con vay, con sẽ sang Anh làm tiến sỹ, sau này ra làm việc, chỉ 3, 4 năm con gửi lại bố. Kể cả trong lĩnh vực nghệ thuật, thể thao, lứa trẻ gốc Việt cũng đóng góp nhiều gương mặt.
Tản mạn về nước Đức trước thềm Noel như vậy đã. Sẽ có dịp quay lại với nước Đức kỹ lưỡng hơn cùng bạn đọc. Covid 19 lại có biến thể mới, lịch tiêm chủng bắt đầu từ ngày 27.12.2020. Già tiêm trước, trẻ tiêm sau. Lứa người Việt đạt mức xưa nay hiếm ở Đức cũng chỉ như lá mùa thu. Đa phần còn trong lứa tuổi sung sức, còn phải bươn chải. Lúc dịch giã này, đã là người Việt thì dù uống nước sông Đuống hay nước sông Elbe, câu đầu tiên chúc nhau vẫn là “vạn sự an lành!”.
Chúc mừng năm mới 2021!
***
Bonus
CHUYỆN CŨ VỀ “NEW”
Giới thiệu sách: Tập 4 “Người Đông Âu về Đông Anh”
Nước Đức ngày nay cũng có những người giàu. Hùng “Asia”, Tâm “Koch” rồi Hiền “râu” chủ chợ Đồng Xuân. Số người này đều là triệu phú lớn. Tất nhiên không thể so sánh với các “đại nguyên soái” ở Nga, Ba Lan. ..vì đặc thù xã hội. Phúc lợi xã hội cao, ai cũng đủ cơm ăn áo mặc. Không có kiểu một người nói vạn người nghe như bên mấy nước Đông Âu. Họ chỉ âm thầm gây dựng. Cũng có vài nhân vật đầu tư sớm vào bất động sản Việt Nam và có cỡ 100 triệu USD. Con số này so với anh Vượng là “muỗi”. Cái muốn nói đến là một vài nhân vật từ thời DDR đã có tiếng, trở về Việt Nam cũng ba chìm bẩy nổi chín lênh đênh mà vẫn có chỗ đứng riêng…
Ở Việt Nam, nhiều người biết đến vũ trường New Century lừng lẫy một thời. Nhưng chắc ít người biết là hai ông chủ của cái sàn đình đám này lại từ Đông Đức trở về. Đó là Thái “còm” và Dương “con”. Thái và Dương sang Đức năm 1982. Thuở ấy Đông Đức khá là hào nhoáng so với xứ Đông Dương đang trên bờ vực thẳm. Cả 2 đều là dân xuất khẩu lao động. Thái về Coswig cạnh Dresden. Đội trưởng là Liêm “gù”, em ruột đại gia Dũng “tăm” (VIT) bây giờ. Thái bắt đầu sự nghiệp buôn lậu bằng nghề đổi USD. Nơi giao dịch là quán bar Bastein tại Dresden. Nguồn cung là tụi sinh viên Algérie và Libya… Khách hàng chủ yếu là người Việt Nam và Ba Lan. Năm thì mười họa có ông chặt mía (Cuba ) ra đổi vài cắc …mua xà phòng Fa cho chị em Đông Đức cọ bím. Đến năm 1986 tại Đông Đức rộ lên trào lưu buôn computer từ West Berlin sang, bán lại cho các cửa hàng đồ cũ. (An und Verkauf ). Máy thuộc loại hàng chợ. Schneider 1512, 1640 Amiga… Một chiếc mua vào cỡ 30 nghìn Mark bán đi 65 nghìn. Tóm lại là siêu lợi nhuận. Cả thanh RAM (ngày ấy chỉ có 64 Kb và to như cái ngăn kéo) cũng được giá lắm. Cơn mưa vàng này Thái và Dương không bỏ qua…
Văn phong của tác giả bài này thấy rõ là thứ văn phong mất dạy,đểu cáng kiểu Bắc Kì,nhiều khi thô tục,cường điệu đọc muốn…ói ! Dân trong nam ra nước ngoài đâu có tàn ác,giết nhau khủng khiếp như đám con cháu lũ khỉ hang Pắc Bó?
Ăn mày chính hiệu là ta,
Bòn nhặt có của, mặt vênh “ông giời”.
Đám con cháu thằng bác bên Đông Âu lưu manh chết mẹ, cái cộng đồng ấy cho đến nay vẫn làm nhục người việt.
“Đi hội bia nhưng thấy có quầy vang bên ngoài, ông vào uống thử. Ông chủ tiệm thấy một tay mắt híp, uống vang có vẻ sành điệu nên tò mò hỏi, ông từ đâu đến? Tôi từ Việt Nam. (Thời đó ở Việt Nam có nút lá chuối uống là như Tết, nói gì đến cái loại phải xoáy xoáy, vặn vặn). Tay bán vang đố, giờ tôi mời ông một cốc vang, ông nói đúng tên vùng sản xuất và niên kỷ của chai vang này, tôi mời ông và cu cậu đi theo này uống say thì thôi. Vang rót ra, cụ hít, ngửi rồi cho vào miệng súc nhẹ vài vòng. Phán một câu xanh rờn, vang vùng X, đóng chai tầm năm Y. Chủ tiệm lùi mấy bước lạy như tế sao. Đúng là bợm phải trả lại tiền.”
Sạo quá cha nội. Đúng là múa gậy vườn hoang, như đám gà què… Don’t ever try to get me wrong man.
Sacré bullshit over there. Quen thói báo cáo láo với “thủ chưởng” rồi phải không?