1-3-2021
3- CHẾT LÂM SÀNG VÀ GẶP NHÂN VẬT
Tôi nuôi khá lâu ý định sẽ viết một cuốn sách nói về nỗi sợ. Tôi vẫn cho rằng nỗi sợ của con người là nguyên nhân đẩy cuộc sống đến trạng thái kinh khủng mà họ tất yếu phải đối mặt như bạo lực, chiến tranh, thói vô cảm, sự dối trá, những cái chết tức tưởi và sự tan rã về đạo đức. Nỗi sợ là nguyên nhân của nạn diệt chủng. Thế giới trước sau cũng bị huỷ diệt nếu không giải thoát nhân loại khỏi nỗi sợ. Đây là chủ đề lớn.
Có lẽ do quá nhọc nhằn kiếm sống và trả nợ tiền mua nhà, hai năm liền tôi bị chảy máu dạ dầy, phải cấp cứu tại bệnh viện Đống Đa. Lần nhập viện thứ 2, năm 1997, tôi bị kết luận là ung thư di căn giai đoạn cuối. Tuy nghe thông báo như vậy, trong khi người thân và bạn bè đều thất thần, (bạn tôi đã bàn việc mua đất để an táng tôi, tại chính địa bàn mà tôi đang sinh sống hiện nay) thì tôi lại chẳng hề tỏ ra sợ hãi, hoang mang, mà chỉ buồn cười. Tôi tự nhủ, mình còn nhiều việc muốn làm, chưa thể chết sớm thế được. Mọi người kéo đến thăm vì “sợ không kịp” trong khi tôi thì vẫn “ủ mưu” về cuốn sách mà mình theo đuổi. Cuối cùng hóa ra chính là bệnh viện… nhầm!
Nhưng sự thay đổi sau một tháng đối mặt với “án tử” thì rất rõ ràng. Nó khiến tôi không thể không nghĩ đến một sự thương xót nào đó đặc biệt dành cho mình, từ ở đâu đó! Tôi thực sự được sinh lại! Nghĩa là cái cuộc đời thứ hai này chỉ nối với cuộc đời thứ nhất bằng thân xác tôi. Còn về phần hồn thì khác hẳn. Từ cuộc đời này tôi nhìn lại cuộc đời trước đây thấy nó giống như một cuộc lưu lạc trong mù mịt thời gian, không gian và ký ức. Trong sự mù mịt đó, tôi không ngớt lầm lẫn. Lầm lẫn liên miên. Lầm lẫn này là kết quả của lầm lẫn khác.
Có vô số điều nhỏ mọn, tầm thường, chả đáng gì thì lại trở thành quan trọng, thành mục đích phải đạt tới một cách khổ sở và ngược lại. Cái cuộc đời trước kia tôi là kẻ hiếu thắng, tự kiêu tự đại, vẫn chưa thoát thói cay cú kiểu ăn thua, dễ nổi nóng, cố chấp, háo danh và vẫn bị chi phối bởi thành kiến. Sau cú chết hụt, chuyển sang sống cuộc đời như bây giờ, tôi dần dần nhận ra nhiều thứ quan trọng mà trước đây không thấy và điều đáng ngạc nhiên nhất là những thứ ấy vẫn ở ngay trước mắt.
Có biết bao nhiêu điều tưởng là ghê gớm, tưởng rất quan trọng cho một đời người thì hoá ra rất đáng buồn cười.
Trong thời gian nghỉ dưỡng bệnh, tôi đọc hai cuốn sách, cuốn thứ nhất tên là “Sự phát triển Siêu cá nhân”, của Roberto Assagioli, cuốn còn lại có tên “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng” của Đức Giáo Hoàng John Paul II. Thật trùng hợp khi cả hai cuốn sách đều đề cập đến nỗi sợ. Tôi đặc biệt ấn tượng với câu của Thánh Paul: “Nỗi sợ giống như cái gai đâm sâu vào da thịt ta”.
Tôi cảm thấy mình đã tìm ra điểm tựa để bắt đầu. Tuy thế mọi chuyện chỉ sáng rõ trong tôi khi tôi trải qua một biến cố kỳ lạ như sau.
Buổi sáng hôm ấy, vào khoảng nửa cuối năm 1998, tức là gần hai năm sau ngày khỏi bệnh, khi đó gia đình còn ở phố Tân Mai, tôi không đi làm mà ở nhà. (Thời gian đó Trường Viết văn đang khủng hoảng lãnh đạo, hầu như không hoạt động, mỗi tuần tôi ghé qua một lần và cũng chỉ chốc lát). Sau khi đưa các con đến lớp, tôi quay về và bỗng dưng thấy toàn thân rã rời. Cơ thể tôi trong phút chốc chỉ muốn đổ oặt xuống. Tôi còn kịp nghĩ nếu mình không nhanh chóng lên giường, mình sẽ không còn cơ hội đó. Tôi nằm giang hai chân hai tay, như một kẻ mất hết cảm giác sống. Người tôi chảy ra nhão nhoẹt, dính xuống chiếu.
Không hiểu sao tôi tin chắc rằng mình sắp chết, chỉ một lát nữa thôi tôi sẽ chết. Đó là cảm giác rất rõ ràng chứ không phải do tôi tưởng tượng ra. Đầu óc tôi còn đủ tỉnh táo để quyết định gọi điện cho vợ, báo cho cô ấy biết là tôi đang chết. “Phải, anh đang chết”-tôi sẽ nói đúng như vậy.
Nhưng tôi không kịp nhấc máy bởi liền ngay đó tôi chìm lút vào một khoảng tối đen ngòm.
Ba tiếng sau tôi tỉnh dậy và việc đầu tiên là chạy ngay đến bên chiếc bàn, quơ vội cây bút viết xiên xẹo dòng chữ: ĐI TÌM NHÂN VẬT.
Lập tức tôi trở lại khỏe khoắn, tỉnh táo như chưa từng xảy ra chuyện gì. Ngày hôm sau tôi bắt đầu ngồi xuống bàn, cắm cúi lia bút viết, cứ như mọi thứ chảy ra theo mực. Khi tôi đứng lên thì trời đã về chiều cùng với khoảng 15 trang giấy học trò, loại có dòng kẻ, kín đặc chữ. Rồi đến chương thứ hai, thứ ba, mỗi chương cũng khoảng ngần ấy trang. Nhưng rồi hai chương đầu đều bị bỏ đi ngay sau đó, vì nó lạc nhịp, không gọi được cảm hứng cũng như ngôn ngữ, nếu cứ tiếp tục theo cái nhịp điệu khấp khểnh đó sẽ chui vào ngõ cụt. Hóa ra nó chỉ làm nhiệm vụ “đề-pa” cho cuốn sách. Chương một trong cuốn sách sau này, thực ra là chương thứ ba trong bản thảo ban đầu.
Suốt 4 tháng trời, ngày nào tôi cũng ngồi lỳ bên bàn viết hàng chục tiếng đồng hồ và chỉ đứng dậy khi đến bữa. Hễ giải lao thì tôi dừng lại viết tản văn in báo Nông nghiệp, sau này gom lại thành cuốn sách Ngẫu hứng Sáng-trưa-chiều-tối. Hồi đó tôi viết tay nên việc sửa chữa mất rất nhiều công. Tôi vẫn không khắc phục được thói quen là bản thảo cứ phải sạch tinh. Chỉ cần một chữ bị xoá là tôi chép lại hết trang, để không phải thấy cái chữ bị xoá đó. Tôi viết say mê, tự mình thấy lạ với những gì mình viết. Mấy chương viết về chiến tranh là nhọc nhằn nhất. Số trang bỏ đi của những chương này bằng cả một phần cuốn sách. Nhưng đó sẽ là những chương sách suýt gây tai họa lớn cho tôi sau này.
“Đi tìm nhân vật”, sau khi qua gần chục nhà xuất bản bằng cái tên SỢ, đều bị ngăn chặn. Cuối cùng, nhờ sự tài giỏi của ông Dương Tất Thắng, nó lọt qua Nhà xuất bản văn hóa Dân tộc với cái tên ban đầu của mình, đúng vào lúc cả ông giám đốc và ông trưởng phòng-cũng là người đứng tên biên tập-chuẩn bị nghỉ hưu. Nhưng nó vừa phát hành được khoảng 10 ngày, thì lập tức bị đình chỉ. Văn phòng Tổng bí thư, Văn phòng Chủ tịch nước, Cơ quan A, cơ quan B… đều yêu cầu Nhà xuất bản đưa sách lên để họ thẩm định và cho ý kiến. Khi được cán bộ NXB thông báo như vậy, tôi chỉ thấy khoái chí, mà không hề biết rằng mối nguy hiểm đang ngày một áp sát mình.
Sau này một đại tá an ninh (giờ ông ấy đã là tướng hai sao), sau vài lần “tiếp cận” tôi, kể với tôi rằng, hồi đó có hẳn cả một cuộc họp liên ngành và quyết định bắt tác giả tống giam chỉ còn chờ phê chuẩn. “Hung hăng nhất là lão D, đồng nghiệp của ông”- ông đại tá bảo thêm và hỏi: “Ông có biết tay đó không?” Khi tôi lắc đầu bảo có nghe tên những không quen, thì ông đại tá nói tiếp: “Tay đó nóng ruột muốn tống ngay ông vào tù”.
Vẫn theo viên đại tá nay đã là tướng, khi Hội nghị sắp kết thúc thì bất ngờ một ông “to thứ mười lăm đất nước” bước vào. Ông ấy nói là chuẩn bị đi công tác, biết có cuộc họp này, chỉ ghé qua phát biểu vài lời. Câu đầu tiên ông ấy bảo Tạ Duy Anh là một người tử tế, một nhà văn có trách nhiệm, một người rất yêu nước… Ông to vật mà nói thế về ông, coi như ý kiến chỉ đạo, cấm bàn cãi, thì còn bàn chuyện bắt bớ gì nữa…
(Khi “ông to thứ mười lăm đất nước” về hưu, qua nhà thơ D.T, ông mời chúng tôi đến nhà ông uống rượu, để ông có dịp nói lại với tôi chuyện cấm “Đi tìm nhân vật”. Tưởng tôi chưa biết chuyện ông cứu tôi, ông đã kể lại đúng như những gì tôi nghe từ viên đại tá an ninh).
Năm 2003 ông Nguyễn Minh Cần, khi đó đang ở Mat-xcơva, đã chuyển “Đi tìm nhân vật” cho nhóm làm sách Tiếng quê hương ở Hoa Kỳ in lại. Năm 2017, tức là sau 15 năm, “Đi tìm nhân vật” mới được phép tái bản trong nước.
ĐM CS