30-7-2019
Trên BBC có bài phỏng vấn ông Ngô Vĩnh Long, giáo sư đại học Maine ở Mỹ. GS Long cho rằng “VN thua ở bãi Tư Chính” nguyên nhân vì VN không “đa phương hóa Biển Đông”. Đây là điều mà GS Long cho rằng ông đã đã cảnh báo VN “từ mười mấy năm nay”. Dẫn nguyên văn:
“Họ (TQ) muốn đây là vấn đề song phương, mà vấn đề song phương thì các nước khác không được dính líu vào. Chỉ là giữa Trung Quốc với Việt Nam thôi. Thì vấn đề này Việt Nam phải suy nghĩ, vì trong mười mấy năm qua chúng tôi nói là Việt Nam phải cố gắng đa phương hóa vấn đề Biển Đông.”
Điều đáng tiếc là trong bài phỏng vấn GS Long đã không cắt nghĩa để độc giả hiểu thế nào là “đa phương hóa tranh chấp ở Biển Đông”, đặc biệt ở bãi Tư Chính?
Vụ bãi Tư Chính, cả hai bên VN và TQ, phát ngôn nhân bộ Ngoại giao lên tiếng phản đối với nhau, nội dung xét ra không khác chi nhiều. Phía TQ ra tuyên bố: “VN phải nghiêm túc tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc đối với các vùng lãnh hải liên quan và không có bất kỳ hành động nào làm phức tạp tình hình”.
Phía VN ra tuyên bố: “Việt Nam có chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển ở Biển Đông được xác định theo đúng các quy định của Công ước của LHQ về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và các nước ở Biển Đông đều là thành viên.”
Tranh chấp ở bãi Tư Chính vì vậy có nguồn gốc từ tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ.
Câu hỏi đặt ra cho GS Long là làm thế nào để “đa phương hóa” một tranh chấp vốn có nguồn gốc lâu đời từ “tranh chấp về chủ quyền”?
Theo tôi Biển Đông có rất nhiều “vấn đề”, vừa “đa phương” vừa “song phương”.
Việc các quốc gia chung quanh Biển Đông phải tôn trọng quyền tự do hải hành của tàu bè các nước là vấn đề “đa phương”. Việc các nước ASEAN cùng TQ thảo luận bộ “qui tắc ứng xử – COC” ở Biển Đông là một vấn đề “đa phương”. Tôi không nghĩ tranh chấp Tư Chính sẽ được giải quyết trong khuôn khổ “quyền tự do hải hành” hay theo nội dung “tuyên bố ứng xử COC”.
Các việc “song phương”, chỉ có thể giải quyết bằng thiện chí giữa hai nước, như việc phân định hải phận giữa hai quốc gia kế cận, hay đối diện trên Biển Đông. VN phân định biển với Indo, VN nộp chung hồ sơ “thềm lục địa mở rộng” với Mã Lai… là các vấn đề “song phương”, không quốc gia nào có thể “xen vào”. Việc phân định biển giữa hai quốc gia chỉ có thể được “quốc tế hóa”, tiên khởi với sự đồng thuận của hai bên, bằng một Tòa án, hay một trọng tài “quốc tế”, nếu hai bên tranh chấp không tìm được thỏa thuận trong việc phân định. Bất kỳ quốc gia thứ ba can dự vào các việc này đều có thể qui vào việc vi phạm Hiến chương LHQ “không được can dự chuyện nội bộ quốc gia khác”.
Tranh chấp Tư Chính: “Đa phương” hay “song phương”?
Nếu ta xét những hành vi của tàu hải giám và nghiên cứu địa chất của TQ đã (và đang) diễn ra ở bãi Tư Chính và lô 6.1.
Bãi Tư Chính TQ đặt tên là Vạn An Bắc, bao gồm các lô 133, 134, 135, 136, 157, 158, 159 trên “bản đồ dầu khí” của VN. Toàn bộ khu vực Tư Chính nằm trong thềm lục địa 200 hải lý của VN, tính từ điểm cơ bản “Hòn Hải” thuộc cụm đảo Phú Quí. TQ phản đối hệ thống điểm (và đường) cơ bản của VN, vì nó cách xa bờ. Giả sử VN từ bỏ hệ thống điểm cơ bản, điểm tính bề rộng hải phận 200 hải lý lấy từ ngấn nước cận bờ. Thì bãi Tư Chính có một phần nằm ngoài khu vực 200 hải lý.
Lô 6.1 nằm ngoài khu vực Vạn An Bắc, thuộc bãi trầm tích Nam Côn sơn, hoàn toàn nằm trong thềm lục địa tự nhiên (và pháp lý) của VN. Lô này hiện do công ty dầu khí lớn nhứt nước Nga là Rosneft khai thác (và phát triển) từ năm 2013 với 2 mỏ Lan Tây, Lan đỏ. Trước đó lô 6.1 do BP khai thác, từ 2003 đến 2010 (BP rút lui do sức ép kinh tế của TQ).
Ngay cả khi đặt giả thuyết đảo Côn sơn không đủ tiêu chuẩn “đảo” theo điều 121 UNCLOS và Hòn hải (thuộc cụm đảo Phú quí) không có tiêu chuẩn để lấy làm “điểm cơ bản”, thì lô 6.1 vẫn nằm trong vòng 200 hải lý, tính từ bờ biển VN (Trà Vinh hay Phan thiết). Ghi lại các chi tiết này để thấy mọi yêu sách của TQ chống lại VN tại lô 6.1 là ngang ngược, phi lý.
“Bản chất” của tranh chấp khu vực Tư Chính là gì? Tại lô 6.1 là gì?
Thứ nhứt, nguyên nhân tranh chấp có thể đến từ sự đối nghịch lập trường giữa VN và TQ về việc giải thích nội dung của Luật Biển 1982, như việc giải thích hiệu lực các đảo Trường Sa theo điều 121. TQ cho rằng họ có chủ quyền các đảo Trường Sa mà các đảo này có hiệu lực “đảo”. Khu vực Tư Chính nằm trong vùng “chồng lấn” giữa các đảo TS và bờ biển VN. Việc này vốn “song phương”, cũng đã được giải quyết bằng “quốc tế hóa”, trong phán quyết của Tòa Trọng tài 11 tháng 7 năm 2016 trong vụ Phi kiện TQ. Theo đó không có đảo nào ở TS có hiệu lực “đảo” đẻ có 200 hải lý hải phận kinh tế độc quyền và thềm lục địa.
Thứ hai, tranh chấp có thể đến từ sự áp đặt về “chủ quyền lịch sử” của TQ, thể hiện qua bản đồ chữ U 9 gạch. Khu vực Tư Chính nằm trong vùng “chồng lấn” giữa “vùng nước lịch sử” (bản đồ chữ U) của TQ và vùng biển EEZ của VN tính từ bờ.
Đây là một vấn đề vốn “song phương” nhưng đã giải quyết bằng “quốc tế hóa” qua phán quyết của Tòa Trọng tài 11 tháng bẩy năm 2016 dẫn trên. Theo phán quyết tháng 7-2016, Tòa cho rằng “biển lịch sử” hay “chủ quyền lịch sử” thể hiện trong bản đồ chữ U là các khái niệm không phù hợp với Luật Biển 1982.
Thứ ba, do việc TQ không nhìn nhận hệ thống điểm (và đường) cơ bản. Nếu vậy thì bãi Tư Chính vẫn nằm trong thềm lục địa pháp lý của VN (thềm lục địa mở rộng 200+100 hải lý). Trong khi lô 6.1 hoàn toàn nằm trong thềm lục địa địa lý và pháp lý (200 hải lý) của VN.
Như vậy bản chất tranh chấp ở bãi Tư Chính là TQ “ngồi xổm” lên luật lệ, bất chấp phán quyết ngày 11 tháng 7 năm 2016 của Tòa Trọng tài. Nội dung phán quyết có mục đích giải thích việc áp dụng Luật Biển 1982 tại Biển Đông. Bản thân của phán quyết vì vậy cũng là “Luật”. Tòa cũng phán rằng các bãi chìm ở Trường Sa, như bãi Tư Chính, thuộc về thềm lục địa của quốc gia ven bờ (tức của VN). Chúng không phải là đối tượng lãnh thổ để chiếm hữu hoặc tuyên bố chủ quyền. TQ cũng bất chấp thực tế pháp lý và lịch sử là quần đảo Trường Sa chưa bao giờ thuộc về TQ.
Như vậy tranh chấp giữa VN và TQ ở khu vực Tư Chính là tranh chấp vừa “song phương” vừa có tính “quốc tế”. “Song phương” vì VN là nạn nhân của thái độ bành trướng ngang ngược, bá quyền ngồi trên luật của TQ. “Quốc tế” là vì mọi vấn đề liên quan đến việc “tuân thủ luật lệ” thuộc thẩm quyền của tất cả các quốc gia thuộc LHQ.
Vì vậy, nếu tranh chấp Biển Đông đưa đến xung đột vũ trang, việc này đe dọa an ninh của khu vực và thế giới. Các nước như Mỹ có thể can thiệp, “quốc tế hóa tranh chấp”, để bảo vệ quyền và lợi ích của họ.
Nhưng ở lô 6.1 thì tuyệt đối không có tranh chấp chi cả.
Giải quyết vấn đề Tư Chính tóm lại là giải quyết vấn đề TQ không tuân thủ luật chơi quốc tế.
TQ “Đẩy” VN cái gì?
GS Long có đề cập đến việc tự do thông lưu ở Biển Đông và trường hợp Đài loan để “minh họa” cho nội hàm “đa phương hóa” của mình. Dẫn nguyên văn:
“Là bởi vì nhiều nước trên thế giới đi ngang Biển Đông, nhưng Việt Nam lại rụt rè. Thành ra, Trung Quốc bây giờ càng ngày càng đẩy. Trung Quốc đẩy rất là ‘hay’, không những ở Biển Đông mà cả ở Đài Loan nữa. Họ đẩy từ từ.
“Ví dụ như Đài Loan, ngày xưa, thỏa thuận giữa Mỹ và Trung Quốc nói rằng là người Trung Quốc ở Đài Loan và người gốc Trung Quốc ở Đài Loan và người Trung Quốc ở lục địa đồng ý là chỉ có một nước Trung Quốc, không có nói gì vấn đề là Đài Loan thuộc về Trung Quốc.
“Nhưng Trung Quốc đẩy từ từ, bây giờ nói là Đài Loan là một tỉnh của Trung Quốc…”
Hết dẫn.
Mục đích “đa phương hóa” của GS Long, nếu không lầm, là làm giảm sức “đẩy” của TQ.
Nhận định của cá nhân tôi, vấn đề “tàu bè nhiều nước qua lại trên Biển Đông” là một “vấn đề quốc tế”, thuộc về tập quán quốc tế (Thông luật quốc tế – Droit International Coutumier), được cụ thể hóa qua điều 87 của bộ Luật quốc tế về Biển 1982.
Không ai “đa phương hóa” một vấn đề tự nó đã là một “vấn đề của quốc tế”.
Về tự do thông lưu, trên không và trên biển, các đại cường như Mỹ, Pháp, Nhật… cho rằng hải đạo xuyên qua Biển Đông là một hải đạo quốc tế, các quốc gia cận biển phải tôn trọng quyền tự do thông lưu của các quốc gia khác.
TQ chủ trương “tự do thông lưu”, tàu bè được tự do qua lại trong lãnh hải cũng như hải phận kinh tế độc quyền EEZ của TQ, nhưng điều này không áp dụng cho tàu chiến. Các quốc gia như Mỹ không chia sẻ lập trường này của TQ, như tại eo biển Đài loan, hay những vùng TQ mở rộng theo bản đồ chữ U ở Biển Đông.
Trên nguyên tắc, quyền tự do thông lưu thuộc về mọi quốc gia và quyền này được “luật quốc tế” bảo đảm. Mọi hành vi cản trở quyền tự do này đều xâm phạm đến lợi ích của tất cả các quốc gia khác.
Quyền tự do thông lưu trên Biển Đông thực tế chưa bao giờ bị cản trở. Lo ngại chỉ bắt đầu dấy lên từ khi TQ hoàn tất việc xây dựng 7 đảo nhân tạo đồng thời “quân sự hóa” chúng (đầu năm 2018). Tuyên bố “vùng nước lịch sử” của TQ ở Biển Đông qua bản đồ chữ U 9 đoạn có thể đưa vào thực tế. Các quốc gia “nhỏ” chung quanh Biển Đông có nguy cơ bị TQ sử dụng áp lực kinh tế và quân sự buộc phải nhìn nhận thực tế này.
Để chống lại tham vọng của TQ, năm 2013 nội các Obama thành lập Chương trình FONOP (Freedom Of Navigation Operation Program) ở Biển Đông nhằm bảo vệ quyền tự do hàng hải và hàng không.
Các chiến hạm Mỹ đã thực hiện chương trình FONOP, có lần đi qua lãnh hải 12 hải lý các đảo thuộc Hoàng Sa như đảo Phú Lâm và đảo Tri Tôn (USS Wilbur Curtis tháng giêng 2016, USS Stenthem tháng bẩy 2017) nhằm thách thức yêu sách “lãnh hải” và “vùng nước quần đảo” của TQ tại Hoàng Sa.
Các chiến hạm của Mỹ cũng thực hiện FONOP qua các chuyến đi vào khu vực 12 hải lý những đảo nhân tạo thuộc Trường Sa như đá Chữ Thập (USS W.P. Lawrence tháng năm 2016) , đá Gaven (USS Decatur tháng chín 2018)… nhằm thách thức yêu sách phi lý của TQ về hải phận của một cấu trúc nhân tạo trên biển.
Về hàng không thì phi cơ dọ thám Poseidon đã bay ngang qua đá Chữ thập để thách thức không phận đảo nhân tạo này (tháng năm 2015)…
Các quốc gia lo ngại rằng, với các bộ luật quốc gia của TQ hạn chế đáng kể các hoạt động của tàu bè trong một vùng “biển quốc tế”. TQ có thể đơn phương ra tuyên bố vùng nước, vùng trời (như tuyên bố vùng Nhận dạng phòng không ADIZ) khu vực Biển Đông. Mọi phương tiện bay qua không phận Biển Đông, hoặc tàu bè qua lại trên Biển Đông đều phải thông báo hoặc xin phép TQ.
Vì vậy ta có thể hy vọng rằng chương trình FONOP của hải quân Mỹ vẫn được tiếp tục (mà không lo ngại rằng nội các TT Trump sẽ bãi bỏ vì lý do “kinh tế” hay trao đổi lợi ích với TQ). Hiển nhiên chương trình FONOP của Mỹ trong chừng mực là “quốc tế hóa”, “đa phương hóa” Biển Đông mà VN là một bên có lợi.
Giải pháp nào cho tranh chấp Tư Chính?
Theo tôi, sở dĩ có những vấn đề như Tư Chính hiện nay, nguyên nhân là do TQ không tuân thủ luật chơi quốc tế.
Nhiều người gợi ý VN cóp py hồ sơ của Phi để đi kiện TQ. Theo tôi, khó khăn của VN là làm thế nào để phán quyết của Tòa Trọng tài có hiệu lực chớ không phải đi kiện TQ với mô hình (hồ sơ) của Phi. Đi kiện (theo mô hình của Phi) VN chắc phần thắng, nhưng hệ quả vẫn là một phán quyết y như phán quyết của Tòa tháng bẩy năm 2016.
TQ không tham gia, không nhìn nhận thẩm quyền của Tòa và dĩ nhiên không công nhận phán quyết của Tòa.
Nhưng nếu cần thiết để có được quyền “tự vệ chính đáng”, VN vẫn phải đưa TQ ra một tòa án quốc tế, nếu trường hợp Phi bỏ qua phán quyết 11-7-2016 của Tòa Trọng tài Thường trực.
Theo tôi VN cần phải có “tư duy mới” và cách tiếp cận mới trong những vấn đề Biển Đông.
Mới đây viên chức Mỹ tố cáo Tập Cận Bình đã “bội ước” trong lời hứa “không quân sự hóa các đảo ở Biển Đông”.
Theo nội dung bài báo trên VOA ngày 30 tháng năm 2019, Tướng Joseph Dunford, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ, nhân phát biểu trong một cuộc trao đổi về quốc phòng ở Viện Brookings tại thủ đô Washington. Vị tướng nói rằng : “Mùa thu năm 2016, Chủ tịch Tập Cận Bình đã hứa với Tổng thống Obama là họ sẽ không quân sự hóa các hòn đảo [ở Biển Đông]. Nhưng những gì chúng ta chứng kiến ngày hôm nay đó là các đường băng dài 10 nghìn bộ [hơn 3 nghìn mét], các kho chứa đạn dược, việc thường xuyên triển khai thiết bị có khả năng phòng thủ tên lửa, khả năng hàng không, vân vân”,.
“Vì thế, rõ ràng họ đã từ bỏ cam kết đó”.
Hôm 11 tháng 7, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Mỹ, bà Morgan Ortagus, ra tuyên bố lên án TQ: “việc Trung Quốc quân sự hóa các tiền đồn tại vùng đang tranh chấp ở Biển Đông đã phản bội cam kết năm 2015 của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình là không tiến hành những hoạt động đó”.
Ý kiến của Tập Cận Bình có thể trở thành một “tuyên bố đơn phương” có giá trị pháp lý ràng buộc.
VN cần đứng đầu trong việc phát động phong trào phản đối, buộc họ Tập tuân thủ lời hứa, Biển Đông phải “phi quân sự” thì các quốc gia chung quanh mới có thể tránh được áp lực gay gắt từ TQ. Mỹ có thể dùng tòa án quốc tế để buộc TQ phải thực hiện “tuyên bố đơn phương” của họ Tập.
Ngoài ra ta không thể loại trừ giả thuyết ý đồ của Tập Cận Bình khẳng định sự hữu dụng của việc xây dựng 7 đảo nhân tạo. Những chiếc tàu hải cảnh quấy rối VN đều có ghé qua các đảo Chữ Thập và Subi để lấy nhiên liệu.
Báo Hoa nam buổi sáng (SCMP) hôm đầu tháng có bài viết nội dung trích dẫn ý kiến của khoa học gia TQ, cho rằng TQ đã không nghiên cứu kỹ về địa chất và thời tiết khi xây dựng các đảo nhân tạo. Kiến trúc bằng bê tông ở các đảo này bị hư hỏng sau 3 năm (do tia tử ngoại) và khí tài bằng kim khí bị rỉ sét (vì nước biển) sau 1 năm. Riêng năm 2014 TQ đã phải chi phí 300 tỉ đô la, tương đương 3% GDP cho việc bảo trì gây ra từ việc rỉ sét (tàu bè, súng đạn, máy móc…).
Nếu các con số này là “sự thật” thì chi phí bảo trì cho các đảo nhân tạo cực kỳ lớn. Các đảo thay vì là các “tiền đồn trên biển” của TQ nhằm mục đích khẳng định chủ quyền thì trở thành những “cục nợ” mà Tập Cận Bình là thủ phạm.
VN không thể loại trừ viễn ảnh TQ sẽ cho tàu bè quấy rối VN lâu dài và thường xuyên. Tập Cận Bình không chỉ muốn chứng minh cho phe chống đối thấy rằng các đảo nhân tạo hỗ trợ đắc lực cho tàu hải cảnh cản trở công tác khai thác ở lô 6.1, hay các tàu thăm dò địa chấn ở bãi trầm tích Tư chính (như đã thấy). Mà về lâu về dài, các vị trí quân sự đóng ở các đảo này sẽ can thiệp nhanh chóng để bảo vệ (trong tương lai) các giàn khoan của TQ hoạt động trong khu vực.
Vì vậy công tác hô hào “Tập Cận Bình phải giữ lời hứa không quân sự hóa các đảo Biển Đông” còn có hiệu quả làm giảm nhịp điệu gây hấn của TQ.
Nhưng quan trọng hơn cả là làm sao để TQ tuân thủ luật lệ quốc tế. Phán quyết ngày 11 tháng 7 năm 2016 của Tòa Trọng tài thường trực có nội dung diễn giải và hướng dẫn cách thức áp dụng luật Quốc tế về Biển 1982 cho khu vực Biển Đông. Phán quyết vì vậy “cũng là Luật”.
GS Long cũng nại “Tuyên bố Thượng hải 1972” để cho rằng Đài loan bị TQ “đẩy” bây giờ Đài loan trở thành một tỉnh của TQ.
Thực ra số phận đảo Đài loan đã được quyết định tại hội nghị Cairo 1943 (gồm có đại diện Mỹ, Anh và Trung hoa), nội dung xác định điều kiện để Tưởng Giới Thạch tuyên bố chiến tranh với Nhật. Theo đó Mãn Châu, Đài loan và các đảo Bành Hồ trả lại cho Trung Hoa. Hòa ước San Francisco 1951 khẳng định lại nội dung này. Vấn đề là lúc đó có hai chính phủ đại diện một quốc gia Trung Hoa: một ở Bắc Kinh của Mao Trạch Đông và một ở Đài loan của Tưởng Giới Thạch. Nội dung hòa ước San Francisco chỉ ghi Đài loan, quần đảo Bành hồ và Mãn Châu trả lại cho Trung Hoa mà không ghi rõ là giao cho phe nào.
Tức là trên phương diện pháp lý (de jure), không bên nào “đẩy” bên nào, Đài loan là một phần lãnh thổ của TQ. Về phương diện thục tế (de facto), Đài loan được trả cho phe Tưởng Giới Thạch.
VN “thua” cái gì ở bãi tư Chính?
GS Long nói “VN thua ở bãi Tư Chính”. Nói vậy theo tôi là hơi sớm. Thực tế đến nay TQ chưa “hút” được lít dầu nào ở khu vực này. Điều ta cần tìm hiểu là đàng sau vụ Tư Chính có những chuyện gì xảy ra ? Nếu ta nhớ lại vụ chiếc HD981 năm 2014 hoạt động ngoài khơi đảo Lý sơn. TQ cũng không “hút” được lít dầu nào ở khu vực này.
Vấn đề là song song với “biến cố HD981” TQ cho xây dựng 7 đảo nhân tạo.
Việc TQ quân sự hóa 7 đảo nhân tạo (vốn chiếm của VN năm 1988) đã đe dọa an ninh quốc gia VN cũng như an ninh toàn khu vực.
Nhưng đó vẫn là “nghi vấn”. Điều cần thiết, theo tôi GS Long cần giải thích thêm về nội hàm “quốc tế hóa tranh chấp biển Đông”, đặc biệt trong trường hợp hiện nay VN và TQ ở vùng Tư Chính. Điều này sẽ giúp cho giới học giả VN về Biển Đông thêm cơ hội nghiên cứu để đóng góp vào công cuộc bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ cũng như quyền và lợi ích của VN ở hải phận EEZ và thềm lục địa của đất nước mình.
Thi Sĩ Bùi Chí Vinh.
Biển Đông không chấp nhận “Đường Lưỡi Bò” láu cá
Không chấp nhận tàu Hải Giám, tàu Ngư Chính thưa em (thứ tàu lạ mơ hồ)
Biển Đông không có dầu hỏa cho bọn cường hào, không có thềm lục địa cho ác bá
Nhưng có ngư dân hiền lành và tuổi trẻ khát tự do
Biển Đông tang thương từ những rặng san hô
Nơi xác cha ông trồi lên thành quần đảo
Nơi bọn xâm lăng đang gióng trống giương cờ
Tưởng đất nước Tiên Rồng thời bình trôi hết máu
Anh đã từng nếm mùi chiến tranh, từng nếm mùi đói cơm thiếu áo
Thoát chết ở Trường Sơn, sống lại ở đồng bằng
Thuộc lòng sử Việt Nam như một người tử đạo
Thương cọc nhọn Ngô Quyền, mê chiến thắng Bạch Đằng Giang
Làm sao có thể thờ ơ trước bầy cá mập ăn đêm
Dám lồng lộn khắp Biển Đông dọa nạt
Chúng săn anh và chúng đuổi em
Bằng lý luận của Thiên Triều xưa… “quá đát”
Em ơi em tự do có thật
Mộ gió cha ông cũng có thật kia kìa
Sờ lên ngực anh đi, khi trái tim còn đập
Thì đâu dễ gì giặc phương Bắc được hả hê ?
Em ơi em khi sinh tử cận kề
Mới hiểu hết thế nào là nhân quả
Mới thấy “cháy nhà ra mặt chuột” ngô nghê
Thấy “tàu lạ” thành tàu quen… dối trá
Biển Đông không có chỗ cho Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống rạp mình hèn hạ
Không có chỗ cho tàu Hải Giám, tàu Ngư Chính “giả nai” quen thói mơ hồ
Càng không có dầu hỏa cho cường hào, không có ngư trường cho ác bá
Chỉ có cọc nhọn Bạch Đằng và cánh tay “Sát Thát” khát tự do !
Nguồn Mạng.
Lúc này chỉ có đánh hoặc không đánh( nghĩa là thua, mất Tư chính và tiếp tục mất hết)
Nhưng xem ra đám ba đình đã xác định thà mất biển Đông còn hơn đảng chết. Nhưng nếu đảng để mất Tư chính thì đảng sẽ chết ngay tắp lự bởi chính dân VN sẽ treo cổ đảng, hóa kiếp cho đảng về với ĐỊA NGỤC CÙNG VỚI HOBACHO
Trích:
“VN thua ở bãi Tư Chính” nguyên nhân vì VN không “đa phương hóa Biển Đông”. Đây là điều mà GS Long cho rằng ông đã đã cảnh báo VN “từ mười mấy năm nay”.
Xin “đừng nghe những gì Ngô Vĩnh Long nói, mà hãy nhìn….” Vì ai cũng biết Ngô Vĩnh Long là một “chí thức” thiên cộng, phò cộng, nằm vùng tại Mỹ để kiên trì “chống Mỹ cứu nước….Tàu” từ mấy chục năm nay.
“Chí thức” yêu đảng, (thỏ thẻ) “cảnh báo” đảng từ mười mấy năm nay (?), mà đảng bỏ ngoài tai, thì đúng là đảng đã coi lời “cảnh báo” của đám “trí thức không bằng cục phân” này (thiu) như “zắm chó”, không đáng để tai!
Cuộc diện “tranh chấp” Biển Đông mà lợi thế đang nghiêng hẳn về phía Tàu ngày nay – một phần – có sự góp công của đám trí thức thiên tả “ăn cơm quốc gia, thờ ma CS” như Ngô Vĩnh Long, vì:
Đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào,
Để bác – đảng rước Tàu vào Biển Đông.
Nên tội lỗi của đám trí thức (cục phần) này đời đời không thể rửa sạch!
Trước khi phản bác luận lý của người khác cần có một lập luận vững chắc, khả thi của chính mình. Không nên đánh phá một chiều theo kiểu “chụp mũ” như thế này chẳng có lợi gì cho quốc gia cả !
Quốc gia nào ???
Nếu là Quốc Gia Việt Nam thì Quốc Gia Việt Nam ấy đã bị Hồ Chí Minh và đảng CSVN “thủ tiêu” bằng cuộc CƯỚP CHÍNH QUYỀN ngày 19 – 8 – 1945 rồi, vậy cho nên anh/chị bảo “làm lợi cho quốc gia” thì là Quốc Gia nào vậy?
-Trong bài viết: “Giải pháp nào cho tranh chấp Tư Chính?” của bác Trương Nhân Tuấn có dòng viết: “Đi kiện (theo mô hình của Phi) VN chắc phần thắng, nhưng hệ quả vẫn là một phán quyết y như phán quyết của Tòa tháng bẩy năm 2016”. Vậy là VN ko làm như Philippines vì chê phán quyết ko đủ sở hụi? Ko xứng tầm đi kiện, kiện giống như Philippines thì uổng công quá? Hay VN tự hào thông minh hơn Philippines nên sẽ có tuyệt chiêu hay hơn Philippines là: “Làm thế nào để “đa phương hóa” một tranh chấp vốn có nguồn gốc từ “tranh chấp chủ quyền”?”. Đừng bàn ra nữa. Hãy kiện đi. Đường xa mà ko đi thì sao tới đích. Ban đầu đi bộ (“Đi kiện (theo mô hình của Phi) VN chắc phần thắng”), sau đó đi xe đạp, rồi xe máy, đến xe hơi. Đòi có xe hơi thì mới đi, xe hơi ở đâu có ngay mà đi?
-Học sinh bây giờ ngày càng chán sử, nền giáo dục VN chỉ nhồi sử CS, có nói gì rõ về chủ quyền HS, TS cho thế hệ sau tự hào đứng lên bảo vệ HS, TS đâu? Các sử gia VN lớn tuổi rành về HS, TS rồi sẽ thay nhau về với cát bụi thì sau này còn ng đâu đứng ra vác đơn đi kiện? TQ chiếm HS năm 1974, chiếm một phần TS năm 1988 và TQ sẽ có đủ sức mạnh để bảo vệ thời hạn 50 năm thì năm 1974+50=2024 HS về với TQ, năm 1988+50=2038 TS về với TQ. Họ đã có lộ trình rõ rồi, còn VN cứ ngồi bàn từ 2009 đến 2019 mà rặn chưa ra vấn đề. Than ôi.