Phạm Thị Hoài
28-6-2018
Trong các tranh luận xung quanh Luật An ninh Mạng (Luật ANM) vừa được thông qua tại Việt Nam, một số người đã lấy Luật NetzDG của CHLB Đức làm quy chiếu để khẳng định rằng Việt Nam không phải là một ngoại lệ, thế giới (dân chủ và văn minh như Đức) cũng phải có những bộ luật tương tự.
Thế nào là tương tự?
NetzDG, nguyên văn: Gesetz zur Verbesserung der Rechtsdurchsetzung in sozialen Netzwerken (Luật cải tiến chấp pháp tại các mạng xã hội), gọi tắt là Netzwerkdurchsetzungsgesetz, viết tắt là NetzDG, có hiệu lực từ ngày 01.10.2017 và chính thức được áp dụng từ ngày 01.01.2018. Luật này rất ngắn gọn, nội dung chính như sau: Các mạng xã hội hoạt động vì mục đích lợi nhuận và có từ 2 triệu thành viên ở Đức trở lên – điển hình là Facebook, vì vậy NetzDG còn được gọi nôm na là Luật Facebook – phải xóa, gỡ bỏ hay chặn những nội dung vi phạm luật pháp, tức vi phạm tổng cộng 22 điều thuộc bộ Luật Hình sự, trong một thời hạn nhất định.
Thời hạn được quy định như sau: 24 tiếng đồng hồ kể từ khi nhận được báo cáo khiếu nại đối với các nội dung hiển nhiên vi phạm luật pháp, tức không cần phân tích sâu xa đã có thể thấy rõ tính chất vi phạm; và 7 ngày đối với những nội dung khác. Nếu cố tình hay sơ ý không tuân thủ sẽ bị phạt hành chính, mức cao nhất là 500 triệu euro, mức thấp nhất là 5 triệu.
Từ khi còn là dự thảo đến nay, NetzDG gây tranh cãi và bị phản đối, tại Đức và cả ở quốc tế. Nhẹ thì nó bị coi là một sản phẩm tư pháp vội vàng và ngớ ngẩn, nặng thì nó bị cáo buộc xâm phạm quyền tự do thông tin và ngôn luận của công dân. Nhiều cá nhân và tổ chức đã tuyên bố sẽ kiện bộ luật mà họ coi là vi hiến này ra Tòa Bảo hiến.
Một mặt, mục đích hiển nhiên của NetzDG mà không ai phản đối là ngăn chặn sự bành trướng của những dịch bệnh kinh hoàng từ mạng xã hội, trong đó trầm trọng nhất là tin giả (fake news) và phát ngôn gây thù hận (hate speech). Các doanh nghiệp cung cấp mạng xã hội như Facebook không phải là những nhà từ thiện, mà thuần túy là các nhà tư bản. Nguyên tắc nổi tiếng: lợi nhuận 20% thì tư bản háo hức; 50%, nó trở nên táo bạo; 100%, nó sẵn sàng chà đạp lên mọi luật lệ của con người và 300%, nó không từ một tội ác nào, dù có phải lên giá treo cổ; và trước khi bị treo cổ nó sẽ cố bán cho bạn chính sợi thòng lọng đó với giá đắt nhất, vẫn còn nguyên hiệu lực, cả với chủ nghĩa tư bản đỏ đang thống trị tại các quốc gia vẫn mang danh nghĩa cộng sản. Fake news, hate speech và những xú uế rác rưởi đang tràn ngập không gian mạng là tài nguyên vô tận cho các doanh nghiệp kiểu Facebook kiếm lời. Không có gì phải bàn cãi, bản năng tham lam vô độ đó phải bị luật pháp kiềm chế.
Nhưng mặt khác, trong một nhà nước pháp quyền, chức năng phán quyết về những hành vi vi phạm luật pháp duy nhất thuộc về tòa án và các thẩm phán độc lập, và không ít những phán quyết ấy cần đến vài tuần, vài tháng, thậm chí vài năm. Các diễn ngôn văn chương, nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật châm biếm và đả kích, thường đa tầng đa nghĩa, nhiều khi đi chênh vênh giữa ranh giới của hợp pháp và bất hợp pháp. NetzDG đã khoán trắng nhiệm vụ khó khăn này – như thể đó là một lĩnh vực outsourcing – cho đội ngũ nhân viên không hề được đào tạo tương xứng về luật pháp của các mạng xã hội, và áp đặt một thời hạn không tưởng là 24 tiếng đồng hồ hoặc cùng lắm 7 ngày. Với áp lực thời gian ấy, với hình phạt hành chính nặng đô ấy, những nhân viên đóng vai từ dân vệ đến quan tòa nghiệp dư của các doanh nghiệp cung cấp mạng xã hội tất yếu có xu hướng overblocking, xóa nhầm còn hơn bỏ sót, trái với nguyên tắc nhân bản bỏ sót còn hơn phạt nhầm trong nền tư pháp của các nước dân chủ pháp quyền. Với NetzDG, không gian mạng có thể sẽ bớt xú uế hơn đôi chút, nhưng có thể cũng sẽ ít tự do hơn.
Tất nhiên tôi không phải là đỉnh cao chói lọi của nhân loại để trả lời câu hỏi: nên cắt bớt mấy phân chiếc áo của tự do để chắp vào chiếc quần của an ninh trật tự. Nhưng là người trải qua cả hai thể chế, cá nhân tôi luôn xót xa cảm thấy mỗi bước lùi của tự do, mỗi vết rạn dù nhỏ nhất trong những pháo đài dân chủ đều có nguy cơ thành một viên gạch củng cố cho các thành lũy chuyên chế, và như cười vào mặt những người đã và đang phải trả những cái giá đau đớn ở các quốc gia chuyên chế. Song có phải vì thế mà NetzDG của Đức đáng được làm chỗ dựa để bênh vực Luật An ninh Mạng của Việt Nam không? Câu trả lời là không.
Thứ nhất, NetzDG từ tên gọi đã cho thấy nó chỉ nhằm vào việc thúc đẩy thực thi những quy định luật pháp sẵn có của Đức. Những nội dung bị coi là vi phạm luật pháp đều đã được quy định trong bộ Luật Hình sự. NetzDG chỉ mất chưa đầy một dòng liệt kê số thứ tự của các điều liên quan, không chế tạo thêm một tội danh nào. Những quy định đối với các mạng xã hội cũng đã có sẵn trong Luật Truyền thông Điện tử (Telemediengesetz) từ năm 2007. NetzDG không làm việc gì khác ngoài tăng áp lực, bằng cách đưa ra những hình phạt tiền thấm thía và quy định thời hạn hành động cụ thể cho các doanh nghiệp cung cấp mạng xã hội, hy vọng qua đó có thể chống các dịch bệnh ngày càng nghiêm trọng trên các mạng xã hội nhanh chóng hơn. Hy vọng này có trở thành hiện thực hay không, đó lại là chuyện khác.
Thứ hai, NetzDG không có mục đích bảo vệ một chế độ chính trị, một đảng phái, một chính phủ hay quốc gia nào, mà bảo vệ mọi cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp là nạn nhân của sự hoành hành của những quái thai do chính con người đẻ ra trên không gian mạng. Không phải các cơ quan nhà nước nói chung hay một cơ quan đặc trách nào đó của chính quyền mà mọi cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, kể cả không là thành viên của mạng xã hội, đều có quyền báo cáo khiếu nại.
Thứ ba, đối tượng của NetzDG không phải là các cá nhân người dùng mạng xã hội, mà là các doanh nghiệp cung cấp mạng xã hội. Hình phạt hành chính mà luật này đưa ra chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp này. Nhóm đối tượng liên quan được khoanh vùng rõ ràng, đó chủ yếu là Facebook, Twitter và Google (với YouTube), trong khi những mạng chuyên đề như Linkedin, Xing, các ứng dụng nhắn tin như WhatsApp, các hệ thống thư điện tử, diễn đàn trên các trang mạng và hầu như mọi dịch vụ internet khác đều không bị đụng chạm.
Thứ tư, NetzDG không phải là sự kiểm duyệt từ phía nhà nước. Chính quyền hoàn toàn không can thiệp vào quy trình báo cáo khiếu nại và xử lý báo cáo khiếu nại. Đó thuần túy là việc giữa doanh nghiệp tư nhân cung cấp mạng xã hội và khách hàng của mình. Trong các trường hợp phức tạp, các doanh nghiệp có thể tự nguyện xin tư vấn từ phía các cơ quan nhà nước, song không bị ràng buộc vào kết quả tư vấn này. Hệ thống tư pháp nhà nước chỉ vào cuộc khi tranh chấp giữa doanh nghiệp và người dùng mạng xã hội trong quá trình xử lý báo cáo khiếu nại cần đến sự phân xử của một tòa án.
Thứ năm, để bảo đảm tính minh bạch của quy trình xử lý báo cáo khiếu nại, NetzDG đề ra một loạt quy định đối với các doanh nghiệp cung cấp mạng xã hội, chẳng hạn trách nhiệm đăng công khai báo cáo định kỳ 6 tháng trên Công báo và trên trang nhà, trách nhiệm cử đích danh một đại diện phụ trách xử lý báo cáo khiếu nại tại Đức, trách nhiệm lưu trữ những nội dung bị gỡ bỏ trong vòng mười tuần làm chứng cứ, trách nhiệm kịp thời thông báo và lý giải quyết định của mình cho người khiếu nại cũng như người đăng nội dung bị gỡ bỏ… Một cơ quan hành chính nhà nước sẽ giám sát, nhưng không can thiệp vào quy trình này.
Thứ sáu, NetzDG đương nhiên không hề đưa ra những quy định về trách nhiệm của các doanh nghiệp cung cấp mạng xã hội như xác thực thông tin người dùng, cung cấp thông tin người dùng cho Bộ Công an, ngừng cung cấp dịch vụ mạng cho người dùng, lưu trữ dữ liệu tại Việt Nam… như trong Luật ANM, điều 26. Các nền dân chủ phương Tây có thể đang gặp khủng hoảng và các chế độ chuyên chế có thể đang tự đắc phất cờ, hơn bao giờ hết với sức mạnh vô song của Trung Quốc, nhưng những điều tương tự như các quy định kể trên của Luật ANM Việt Nam không thể xuất hiện trong một bộ luật của nước Đức hiện tại.
Như vậy, dù là một bước đi chuệch choạc và chắc chắn không phải là thành tựu huy hoàng của nền pháp quyền trong một thể chế dân chủ, phần tương tự của NetzDG với Luật ANM Việt Nam có lẽ chỉ chưa đầy một phần trăm. Song khác biệt quan trọng nhất xung quanh hai bộ luật này không bắt nguồn từ văn bản, mà từ thể chế nhà nước và môi trường xã hội. Tôi sẽ đề cập điều đó trong phần tiếp theo.