Dự báo diễn biến tình hình chính trị Việt Nam trong thời gian tới (phần II)

Viet-studies

Phạm Hưng Quốc

9-1-2018

Tiếp theo phần 1

Trong cuộc chiến chống tham nhũng do Nguyễn Phú Trọng chỉ đạo thì cái khó không phải là tìm ra những vụ án tham nhũng khủng, hay cực khủng của các quả đấm thép (tập đoàn kinh tế nhà nước) thời thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vì chúng quá nhiều và quá lộ liễu. Ngược lại sẽ rất khó, thậm chí là không có, dự án lớn nào của các “quả đấm thép” lại không xẩy ra những tham nhũng nghiêm trọng. Cái khó cho Nguyễn Phú Trọng và lực lượng của ông ta là phải chọn ra những vụ án mà không làm “vỡ bình”.

Một thực tế là những dự án lớn của các quả đấm thép thì không chỉ liên quan đến một vài ủy viên Bộ Chính trị mà có thể nói là đến rất nhiều ủy viên Bộ Chính trị. Tất nhiên sự phân bổ “lợi lộc” giữa các ủy viên Bộ Chính trị và các cá nhân khác trong ban lãnh đạo đảng, chính phủ và nhà nước sẽ rất không đồng đều nhưng xét về con số tuyệt đối thì người được hưởng “lộc” ít nhất cũng cao hơn mức khung hình phạt cao nhất mà bộ luật hình sự của bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện hành dành cho tội tham ô, tham nhũng.

Cái khó nhất cho Nguyễn Phú Trọng là làm sao cho việc xử lý các vụ án này không gây tổn thương quá lớn cho chế độ, cho sự ổn định của đất nước. Cách thức xử lý đối với những vụ việc tham nhũng từ trước tới nay là giảm thiểu mức độ nghiêm trọng của sự thiệt hại trong từng vụ án, khoanh vùng các đối tượng liên đới để rồi “giơ cao đánh khẽ”. Như vậy vừa tạo ra bức tranh nghiêm minh về pháp luật vừa làm cho đối tượng bị “thí điểm làm gương” chấp nhận “ngậm bồ hòn làm ngọt”. Giải pháp này ít ảnh hưởng tới hình ảnh của chế độ.

Nhưng sự kiện khởi tố, bắt giam và xử án nhanh chóng Đinh La Thăng đang minh chứng rằng Nguyễn Phú Trọng đã không muốn đi theo lối mòn cũ mà muốn tạo đột phá. Vấn đề là đột phá ở mức độ nào? Mức giống như Tập Cận Bình là hay mức thấp hơn? Nhưng cho dù ở mức thấp hơn Tập Cận Bình đã làm ở Trung Quốc thì cũng vượt quá khả năng hiện có của lực lượng chống tham nhũng do Nguyễn Phú Trọng cầm đầu tại Việt Nam hiện nay. Để thành công Nguyễn Phú Trọng có ba chỗ dựa:

1. Lòng dân: Khái niệm này có một biên độ dao động rất cao. Đương nhiên tỉ lệ ủng hộ của lòng dân luôn tỷ lệ thuận với mức độ kiên quyết, triệt để, công bằng, minh bạch trong quá trình điều tra và xét xử những vụ án tham nhũng, nhưng điều này lại làm gia tăng sự phức tạp của vấn đề cả về chính trị, ngoại giao và các vấn đề an ninh, quốc phòng. Thông thường, để hỗ trợ đắc lực cho việc giải tỏa những nghịch lý này thì vai trò của Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương rất quan trọng. Song cho đến nay dường như các phương tiện thông tin “lề phải” còn rất thụ động trước diễn biến tình hình, hay nói cách khác Nguyễn Phú Trọng và lực lượng của ông ta vẫn chưa làm chủ được địa hạt này.

2. Sự hỗ trợ của Tập Cận Bình: Đây cũng là một yếu tố có biên độ dao động rất cao. Rất rõ ràng Tập Cận Bình không ủng hộ Nguyễn Tấn Dũng ngay cả khi ông ta còn đương quyền, nhưng hiện nay họ lại công khai sự ủng hộ đối với Hoàng Trung Hải. Người ta dễ dàng quan sát thấy rằng công cuộc chống tham nhũng đang sục sôi tại Việt Nam nhưng Hoàng Trung Hải gần như vẫn đứng NGOẠI PHẠM trong mọi vụ viêc mặc dù ông ta cũng đã trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào rất nhiều dự án bê bối trong quá khứ khi ông ta còn là một phó thủ tướng phụ trách công nghiệp và thương mại dưới thời Nguyễn Tấn Dũng. Đặc biệt là các dự án do các nhà đầu tư Trung Quốc thực hiện hoặc do tiền của Trung Quốc cho vay đều là những thí dụ điển hình bê bối trên nhiều phương diện.

Đây có lẽ cũng là cái cớ rõ ràng của luận điểm cho rằng Nguyễn Phú Trọng đang dựa vào Trung Quốc để thanh lọc bộ máy thông qua cái cớ chống tham nhũng. Nhưng vì cần sự hỗ trợ của Trung Quốc nên ông ta không dám động tới các dự án của Trung Quốc và cá nhân Hoàng Trung Hải. Vậy câu hỏi đặt ra là Tập Cận Bình hỗ trợ Nguyễn Phú Trọng ở mức độ nào trong chiến dịch chống tham nhũng hiện nay? Liệu người ta có thể lấy việc NGOẠI PHẠM này để xác định MÀU SẮC VÀ DIỆN MẠO cho công cuộc chống tham nhũng hiện nay của Nguyễn Phú Trọng?

Tác giả bài viết này cho rằng chỉ trong một thời gian ngắn nữa thôi thì thực tế sẽ cho mọi người thấy rõ MÀU SẮC của công cuộc chống tham nhũng hiện nay tại Việt Nam. Nhưng để hiểu thêm về bản chất sự chi phối của Trung Quốc đối với bộ máy chính trị tại Việt Nam, tác giả bài viết cần phải nêu rõ nhận định của cá nhân về việc tại sao Trung Quốc hay nói cụ thể hơn là Tập Cận Bình không ủng hộ Nguyễn Tấn Dũng ngay từ khi ông ta còn đương chức. Họ không ủng hộ Nguyễn Tấn Dũng không phải vì ông ta chống Trung Quốc thân với Mỹ và phương Tây mà chỉ vì ông ta đã tự trở thành một con bài thối trên bàn cờ chính trị tại Việt Nam. Để minh chứng cho nhận định này xin hãy đánh giá Nguyễn Tấn Dũng thông qua những di sản mà ông ta để lại cho Việt Nam chứ không nên chỉ dựa vào một số lời nói hay động thái bề nổi có vẻ thân Mỹ và chống Trung Quốc của ông ta.

3. Mỹ và phương Tây: Tuy không có khả năng chi phối mạnh vào chính trường Việt Nam như Trung Quốc nhưng họ đang có lợi thế “trời cho” do quá trình “đổi mới” tại Việt Nam mang lại. Nhờ vào thành tựu mặt phải do quá trình đổi mới tại Việt Nam mang lại, người dân Việt Nam đã hiểu giá trị của sự cởi trói trong các hoạt động kinh tế, thương mại: giá trị của tự do dân chủ, của quyền con người và đương nhiên sự khát khao để có được nó. Việc không ngừng hoàn thiện nó đã và đang không chỉ là nhu cầu tất yếu của mọi người dân mà đã đần trở thành mục tiêu, lý tưởng của không ít người Việt Nam đặc biệt là thế hệ trẻ. Các giá trị PHƯƠNG TÂY đã trở thành động lực cho sự phát triển của kinh tế, xã hội. Mỹ và các nước phương Tây tuy khá chậm nhưng đã dần dần nhận ra xu thế này tại Việt Nam và họ đã có nhiều chính sách để khuyến khích và tạo điều kiện cho Việt Nam đi theo hướng này. Song vì sự khác biệt về chế độ chính trị, về ý thức hệ nên đã kìm hãm khá nhiều sự hợp tác hiệu quả giữa Việt Nam và các nước phương Tây và Mỹ.

Chỉ trong những năm gần đây thì tiến trình hợp tác này mới đươc chú trọng tăng cường đáng kể do sự xuất hiện của sự kiện BIỂN ĐÔNG. Sự kiện này đã thúc đẩy hai bên hiểu đươc GIÁ TRỊ của nhau hơn. Rõ ràng rằng cho dù có đủ loại lời ong tiếng ve về cái gọi là “rắp tâm bán nước” hay “làm tay sai” cho Trung Quốc của một số lực lượng cầm quyền nào đó ở Việt Nam nhưng không ai có thể phủ nhận một thực tế là nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam hiện này trở thành “cái gai” to nhất và khó chịu nhất của Trung Quốc trong quá trình thực hiện kế hoạch BIỂN ĐÔNG của họ. Những hiềm khích giữa Việt Nam và Trung Quốc tại Biển Đông nhiều và lớn hơn rất nhiều so với các nước ASEAN khác với Trung Quốc cộng lại. Biển Đông có vai trò địa chính trị toàn cầu của nó. Nhà cầm quyền Hoa Kỳ trong thời gian qua đã dần ý thức được vai trò này của Việt Nam và đã có những điều chỉnh quan trọng trong chính sách đối với Việt Nam trong những năm gần đây. Sự kiện lần đầu tiên trong lịch sử vào đầu tháng ba năm 2018 sắp tới, một tầu sân bay Mỹ sẽ cập cảng dài ngày tại Đà Nẵng, một thành phố chiến lược của Việt Nam, là một minh chứng.

Nhà cầm quyền hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ đã khôn ngoan tận dụng cơ hội này để phát huy tối đa các hệ quả của nó không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng mà còn cho cả các lĩnh vực dân sự như giữ gìn sự ổn định và hòa bình, an ninh và an toàn hàng hải trên Biển Đông, đảm bảo một môi trường an toàn và ổn định trong việc cùng sử dụng và khai thác Biển Đông một cách hòa bình văn minh chống xu thế nước to bắt nạt nước nhỏ dưới mọi hình thức. Ngoài các phái đoàn quân sự phía Mỹ và được sự cho phép của nhà cầm quyền, Việt Nam còn mời rất nhiều các cơ quan, tổ chức phi quân sự Việt Nam viếng thăm tàu.

Thật ngoạn mục, mới chỉ cách đây bốn thập kỷ đối với Việt Nam, Mỹ luôn luôn là yếu tố đe dọa, nhưng bây giờ lại là yếu tố để giữ ổn định để bảo vệ hòa bình. Lạ lùng thay để làm cho tình thế bị xoay ngược 1800   như trên, nước Mỹ đã không mất một viên đạn nào, khi mà chỉ ngay trước đó họ đã phải chi tới hàng trăm tỷ đô la và hàng vạn sinh mạng mà không thể làm nổi dù chỉ là một phần nhỏ những gì họ đang có. Trớ trêu thay nguyên nhân của sự thay đổi ngoạn muc này lại là do chính sách bành trướng trên tư thế của kẻ mạnh luôn muốn bắt nạt các nước khác của Trung Quốc.

Đương nhiên nhà cầm quyền Trung Quốc sẽ cảm thấy khó chịu về sự kiện này cũng như sự xích lại gần nhau giữa Mỹ và Việt Nam. Chắc chắn trong ngắn hạn và dài hạn họ sẽ tìm cách xoay ngược tình thế. Cụ thể ngay trong năm 2018 này lãnh đạo chóp bu của Trung Quốc sẽ tổ chức những chuyến đi thăm rất THÂN MẬT tại hai nước láng giềng của Việt Nam là Lào và Campuchia và đương nhiên họ sẽ tìm đủ mọi cách, tận dụng mọi cơ hội để gây sức ép, để khuất phục ban lãnh đạo Việt Nam bớt “cứng đầu”. Tác giả không muốn dùng khái niệm “khuất phục Việt Nam” mà chỉ là “ban lãnh đạo Việt Nam” vì với hàng nghìn năm lịch sử tồn tại,  người dân Việt Nam chưa bao giờ chịu khuất phục trước sức mạnh cường quyền của ngoại bang.

Một chút tản mạn về đại án Petro Việt Nam

Tác giả bài viết cho rằng sự kiện vụ án Petro Việt Nam là một câu chuyện rất điển hình, phản ảnh rõ nét thực trạng tình hình chính trị tại Việt Nam hiện nay: Tại sao lại là Petro Việt Nam trong khi mà bất cứ tập đoàn kinh tế nhà nước nào – các quả đấm thép của cựu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng có mức độ vi phạm luật pháp và tham nhũng nghiêm trọng không kém, đặc biệt là các sai phạm của tập đoàn Than Khoáng sản Việt nam trong quá khứ còn lộ liễu công khai hơn nhiều?

Công bằng mà nói Petro Việt Nam là con gà đẻ trứng vàng cho nhà nước Việt Nam không những trong vài ba thập kỷ trở lại đây mà còn có tiềm năng rất lớn trong tương lai. Chỉ cách đây vài năm khả năng thu hút vốn tài chính quốc tế của Petro Việt Nam còn cao hơn cả khả năng của chính phủ Việt Nam (Bộ Tài chính). Có thể nói Petro Việt Nam không chỉ có vai trò cực kỳ quan trọng về mặt kinh tế, tài chính đối với Việt Nam mà nó còn gắn rất chặt tới các lĩnh vực an ninh, quốc phòng và cả ngoại giao của đất nước. Nguyễn Phú Trọng và các đồng chí của ông ta liệu có hiểu rằng khả năng thu hồi tài sản tham nhũng do các thế hệ lãnh đạo Petro Việt Nam và các cá nhân trong chính phủ có liên quan đến Petro Việt Nam sẽ thấp hơn nhiều so với những thiệt hại vô hình và hữu hình do sự ngừng trệ trong việc đầu tư và triển khai kinh doanh của các dự án của tập đoàn này? (Theo ước tính các thiệt hại này có thể lên tới trên 5 triệu mỹ kim/ngày tức là hơn 1,5 tỷ mỹ kim/ năm)? Rõ ràng rằng nếu Nguyễn Phú Trọng và bộ máy của ông ta mà phạm sai lầm trong trong quá trình xử lý các vụ án tham nhũng tại Petro Việt Nam (hoặc quá mạnh, hoặc quá nhẹ, thậm chí chỉ cần vụng về …) thì hậu quả sẽ rất khó lường.

Trong các cáo trạng của các cơ quan thực thi pháp luật thì nhà nước Việt Nam mới chỉ đụng tới một số sai phạm trong một số vụ án chưa phải đã là lớn và điển hình trong số các sai phạm mà Petro Việt Nam đã thực hiện trong thời gian qua. Thông thường một vụ án tham nhũng tại Việt Nam có dây mơ rễ má với nhiều quan chức trong nhiều lĩnh vực khác nhau trong khi mà hệ thống pháp luật của Việt Nam còn quá non yếu để có thể đảm bảo rằng trong khi “phẫu thuật các vụ án” sẽ không để lây lan sang các việc khác mà lúc đầu tưởng chừng như không có liên quan. Quả thực hiện nay các ngân hàng như Ocean Bank và Ngân hàng Xây dựng đang chuẩn bị khởi kiện Ngân hàng Nhà nước vì đã áp đặt việc mua các ngân hàng này với giá 0 đồng là trái pháp luật. Vậy một Uỷ viên Bộ Chính trị thứ hai là Nguyễn Văn Bình liệu có đi theo số phận của Đinh La Thăng? Hai vị này vốn cũng là hai tư lệnh ngành thân cận hàng đầu của Nguyễn Tấn Dũng.

Kết luận

Nếu ví tình hình chính trị Việt Nam như chiếc bình rượu chứa đựng những giọt rượu ngọt, bùi, đắng, cay của lịch sử Việt Nam từ ngày thoát khỏi ách thực dân đến nay thì rõ ràng cái bình này đã không phù hợp với những gì chứa trong nó. Nó có thể nứt và vỡ bất cứ lúc nào. Vấn đề là nếu nó bị nứt vỡ ở phần cổ thì chỉ mất ít rượu, nhưng nếu ở phần thân thì mất nhiều và nếu ở phần đáy thì đương nhiên sẽ mất sạch.

Nguyễn Phú Trọng và các đồng chí của ông ta đang cố gắng không để bình bị vỡ. Một trong những phương án mà họ đang cố gắng không để bình vỡ là tạo cho Việt Nam đi theo một tiến trình thay đổi rất cơ bản nhưng vẫn đảm bảo ổn định chính trị xã hội trong nước, đó là thực hiện cải cách triệt để nhưng lại từ từ “có lộ trình hợp lý”. Quá trình cải cách này bắt đầu từ các cơ quan hành pháp (chính phủ) rồi sau đó là các cơ quan tư pháp và cuối cùng là xây dựng một thể chế chính trị mới trên nền tảng của một học thuyết về tư tưởng và triết học mới trong khi mà học thuyết cũ đã hoàn toàn bất cập.

Khác với các nước phát triển khác, cụ thể như Châu Âu hay Bắc Mỹ, khi mà họ đã có bề dày hàng trăm năm để làm quen với các khái niệm dân chủ, nhân quyền, Việt Nam vừa mới thoát ra từ chế độ thực dân hà khắc rồi sau đó lại tiếp tục các chính sách hà khắc của chế độ cộng sản duy ý chí, nay khi muốn phát triển theo hướng tự do dân chủ thì không thể không có một chủ thuyết đúng đắn cho riêng mình. Nếu không có điều này thì rất dễ mất phương hướng và đặc biệt các khái niệm cũ, mới sẽ bị ngộ nhận hay lạm dụng vì lợi ích của các nhóm quyền lực trong xã hội.

Nhưng trớ trêu thay, cho đến nay sẽ thật khó tin Nguyễn Phú Trọng và các đồng chí của ông ta (Ban Lý luận TƯ) có thể đưa ra một cái gì mới, sáng tạo dù chỉ là ở mức độ thấp. Hỡi ôi, tác giả bài viết này chỉ cầu trời khấn phật là Ban Lý luận TƯ của ông ta sau khi tổ chức hàng trăm buổi tọa đàm, hội thảo với các giáo sư tiến sĩ lừng lẫy uy tín cùng với hàng tỷ đồng tiền ngân sách sẽ không đưa ra kiến nghị lấy tên cho hướng đi mới, học thuyết chính trị mới của Việt Nam là “Việt Nam đi theo con đường Chủ Nghĩa Xã Hội mang đậm tính đặc tính đặc sắc Việt Nam”.

Việt Nam, ngày 7/1/2018

Phạm Hưng Quốc

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 8-1-18

Bình Luận từ Facebook