Nguyễn Quang Dy
19-7-2017
“Chúng ta không thể thay đổi được quá khứ, nhưng chúng ta có thể sắp xếp lại tương lai” “We cannot change the past, but we can reshape the future” (Dalai Lama)
Chiến tranh Việt Nam đã đi vào lịch sử lâu rồi. Đã 42 năm kể từ khi cuộc chiến đó chấm dứt, nhưng người ta vẫn còn tranh luận về Chiến Tranh Việt Nam (hay còn gọi là cuộc “Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai”). Tại sao “bóng ma Việt Nam” đến giờ vẫn còn ám ảnh người Mỹ và người Việt, nhất là thế hệ những người đã trực tiếp dính líu vào Việt Nam, dù là quân nhân hay dân sự và nhà báo. Tại sao người ta vẫn tiếp tục viết sách và làm phim về Việt Nam? Phải chăng vì Chiến tranh Việt Nam có quá nhiều nghịch lý và ngộ nhận?
Hệ quả chiến tranh
Chiến tranh Việt Nam đã làm 58.000 người Mỹ và hàng triệu người Viêt (cả hai phía) bị thiệt mạng, và làm cho hai quốc gia bị tổn thất nặng nề và chia rẽ sâu sắc. Sau chiến tranh, hầu hết các trường hợp người Mỹ mất tích (MIA) đã được kiểm chứng, nhưng hàng vạn người Việt mất tích (cả hai phía) vẫn chưa được kiểm chứng. Ngay lúc này, tại khu vực sân bay Tân Sơn Nhất, người ta vẫn đang tìm kiếm mộ tập thể của hàng trăm liệt sỹ thiệt mạng trong “Tết Mậu Thân” (1968) mà đến nay vẫn coi như “mất tích”. Người ta vẫn đang phải chi nhiều triệu USD để rà soát bom mìn và tẩy độc dioxin tại nhiều nơi ở Việt Nam.
Ngoài 257 nhà báo quốc tế sống sót sau Chiến tranh Viêt Nam, tham gia câu lạc bộ “Vietnam Old Hacks”, 73 đồng nghiệp xấu số của họ bị mất tích trong chiến tranh, đến nay vẫn chưa được kiểm chứng. Sau nhiều năm tìm kiếm vô vọng, phóng viên ảnh Tim Page và thân hữu vẫn chưa chịu bỏ cuộc, tuy Chính phủ Mỹ và Chính phủ Việt Nam vẫn chưa làm gì để giúp họ tìm kiếm. Trong khi những người Mỹ mất tích trong chiến tranh đã được kiểm chứng, tại sao các nhà báo quốc tế mất tích trong chiến tranh lại bị Mỹ và Việt Nam “bỏ quên”? Thật là bất công và bất nhẫn khi số phận người sống lẫn người chết vẫn chưa hóa giải.
Trong bộ phim tài liệu mới “The Vietnam War” (gồm 10 tập, dài 18 giờ, sẽ chiếu trên PBS từ 17/9/2017) Ken Burns và Lynn Novick đã chọn cựu binh Mỹ John Musgrave để nói lên một sự thật đau lòng (ngay từ đầu bộ phim): “Có lẽ chúng tôi là những đứa trẻ cuối cùng của một thế hệ tin rằng chính phủ của mình không bao giờ nói dối chúng tôi” (We were probably the last kids of any generation that actually believed our government would never lie to us). Câu nói đó chắc sẽ ám ảnh khán giả, và tiếp tục ám ảnh người Mỹ và Việt Nam.
Bộ phim “The Vietnam War” làm tôi nhớ lại một kỷ niệm vào năm 1985 khi chúng tôi đứng trên đỉnh đèo Hải Vân nhìn xuống bãi biển Non Nước (còn gọi là “China Beach”). Thomas Vallely (một cựu binh ở Massachusetts) đứng trước ống kính máy quay phim để làm một “stand-up” giữa trời nắng chang chang, đã phải lặp lại nhiều lần một câu nói làm tôi bị ám ảnh, nên đã thuộc đến tận bây giờ: “Hai mươi năm trước tôi đã đổ bộ vào Đà Nẵng khi còn là một thanh niên 19 tuổi. Chính tại Việt Nam tôi đã hiểu về cuộc chiến tranh, về bản thân, và về đất nước của mình… Chúng ta không nên đưa thanh niên vào chỗ chết, chỉ vì lòng tự hào của mấy ông già”. (Twenty years ago, I landed here in Da Nang as a nineteen years old. It was here in Vietnam that I had learned about the War, about myself and about my country… We should not be in the businees of sending young men to die for the old men’s pride).
Lịch sử thường lặp lại với nhiều nghịch lý. Nước Mỹ đã lặp lại một sai lầm mà tướng Omar Bradley đã từng cảnh báo (15/5/1951): Chiến tranh Việt Nam đã trở thành “một cuộc chiến sai lầm, tại một địa điểm sai, vào một thời điểm sai, và chống một kẻ thù sai” (The wrong war, in the wrong place, at the wrong time, and with the wrong enemy). Tại sao một chính quyền có nhiều người tài giỏi như vậy, mà vẫn mắc sai lầm? Phải chăng là do “ngạo mạn về quyền lực”, nên họ đã ngộ nhận về “quyền năng tuyệt đối”? Phải chăng do cực đoan và tự phụ nên họ không chịu lắng nghe lời khuyên, mà còn lừa dối Quốc hội và Nhân dân.
Tại sao Việt Nam
Năm 1990, tôi có dịp gặp ông Archimedes Patti tại Bangkok trong khi ông ấy chờ máy bay đi Việt Nam để dự kỷ niệm sinh nhật cụ Hồ. Ông đã ký tặng tôi cuốn sách “Tại sao Việt Nam” (“Why Vietnam: Prelude to America’s Albatross”, University of California Press, 1980) và kể lại nhiều kỷ niệm với cụ Hồ và OSS. Tuy ông Patti và cuốn sách đã đi vào lịch sử, nhưng câu hỏi Why Vietnam vẫn còn ám ảnh nhiều người Mỹ và người Việt Nam.
Khi tôi hỏi ông Patti là người Mỹ có đọc cuốn sách của ông không, ông buồn rầu trả lời là rất ít người đọc. Mãi sau này người ta mới đưa nó vào danh mục sách tham khảo của các trường đại học. Trong một lần trả lời phỏng vấn (1981), ông Patti nói:“Theo tôi, chiến tranh Viêt Nam là một sự lãng phí khồng lồ. Trước hết, nó không cần phải xảy ra. Hoàn toàn không. Không đáng tí nào cả. Trong suốt những năm chiến tranh Việt Nam, không ai đến gặp tôi để tìm hiểu xem điều gì đã xảy ra năm 1945 hoặc 1944. Trong suốt những năm tôi làm việc ở Lầu Năm Góc, Bộ Ngoại giao và Nhà Trắng, không một ai có quyền hành đến gặp tôi cả…”
Năm 1995, nhân kỷ niệm 20 năm kết thúc chiến tranh, ông Robert McNamara đã viêt cuốn sách “Hồi tưởng: Bi kịch và Bài học Việt Nam” (Robert McNamara, “In Retrospect: The Tragedy and Lessons of Vietnam”, Vintage books, 1995). Cuối cùng ông McNamara đã thừa nhận sai lầm. Nhiều người đặt câu hỏi tại sao một người thông minh tài giỏi như vậy, phải mất tới 20 năm mới nhận ra hay thừa nhận sai lầm. Phải chăng nghịch lý quá khó để nhận ra, hay sai lầm quá lớn để thừa nhận? Trong khi sử gia Arthur Schlesinger khen ngợi ông McNamara là dũng cảm và chân thành thừa nhận sai lầm, thì nhiều người khác lại cho rằng ông McNamara thừa nhận sai lầm quá chậm trễ như vậy là thiếu tử tế (indecent). Những người trong cuộc phải hiểu cái giá của sự chậm trễ trước mỗi bước ngoặt của lịch sử. Theo Đại tá Andre Sauvageot, “Đáng lẽ Tổng thống Nixon phải rút quân khỏi Việt Nam sớm hơn…”
Năm 1997, ông H.R. McMaster đã viết cuốn “Bỏ rơi Nhiệm vụ” (H.R. McMaster, “Dereliction of Duty: Lyndon Johnson, Robert McNamara, the Joint Chiefs, and the Lies that led to the War”, Harper, 1997). Đó là nhận xét thẳng thắn của một sỹ quan dũng cảm dám nói ra sự thật, dù là sự thật đau lòng. Chắc lúc đó ông McMaster không biết rằng sau này mình sẽ trở thành Chủ tịch Hội đồng An Ninh Quốc gia. Liệu ông có thể làm gì để sửa chữa sai lầm khi có cơ hội, vì sau Việt Nam, Chính quyền Mỹ tiếp tục nói dối và mắc sai lầm tại Iraq.
Trong cuốn sách đó, McMaster đã nói rõ không chỉ có Chính quyền Johnson lừa dối Quốc Hội trong sự kiện Vịnh Bắc Bộ, mà các tướng lĩnh cầm đầu cũng tham gia sự “đồng thuận dối trá” (Contriving consensus). Tướng Earle Wheeler và các tham mưu trưởng liên quân, được gọi là “năm người đàn ông im lặng” (five silent men) đã giúp Tổng thống lừa dối Quốc Hội, leo thang chiến tranh tại Việt Nam, bằng gia tăng ném bom và tăng quân để gây sức ép (graduated pressure). McMaster gọi đó là “bãi lầy dối trá” (quicksand of lies).
Nhà báo Peter Arnett (CNN) gọi đó là“sự bất tài, dối trá, và ngạo mạn của những quan chức Mỹ cao cấp nhất” (the ineptness, duplicity and arrogance among the most senior officials of the US). Còn nhà báo Joe Galloway (US News & World Reports) đã nhận xét:“Những người có quyền lực và trách nhiệm đã gây ra thảm họa chiến tranh và để lại dấu vết khắp nơi…McMaster đã làm sáng tỏ hơn và biết rõ hơn về ‘những người tài giỏi và thông minh nhất’ đã dùng dối trá và bí mật để che đậy cho họ như thế nào, nhằm khuynh đảo và thao túng đất nước này, xô đẩy Mỹ trượt theo con đường chiến tranh và thất bại cay đắng” (men of power and responsibility caused that disastrous war and left their fingerprints all over it. He sheds fresh light and understanding on how ‘the best and the brightest’ shielded by lies and top secret, maneuvered and manipulated our country down the road to war and bitter defeat).
Bất đồng chính kiến
Khác với Robert McNamara (cựu Bộ trưởng Quốc phòng) và McGeorge Bundy (cựu Cố vấn An ninh Quốc gia), George Ball (cựu Thứ trưởng Ngoại giao, 1961-1966) lúc đó đã nhận ra sai lầm và cố khuyên can Tổng thống Kennedy và Johnson đừng can thiệp vào Việt Nam: “Tôi nhìn thấy trước một cuộc phiêu lưu rất nguy hiểm…Chúng ta sẽ sa vào một cuộc xung đột kéo dài, còn nguy hiểm hơn cả Triều Tiên”. Trong số những nhân vật mà David Hamberstam gọi là the Best and the Brightest trong Chính quyền Kennedy, George Ball là thiểu số đơn độc giữa sự đồng thuận ngạo mạn và tự phụ về quyền lực. Tuy lập luận của George Ball rất thuyết phục, nhưng họ không buồn nghe, nên ông đã từ chức (năm 1966).
George Ball là một nhân vật đóng vai phản biện (devil’s advocate) có uy tín trong việc hoạch định chính sách đối ngoại của Mỹ trong thập niên 1960. Ông đã cố thuyết phục Tổng thống Kennedy đừng gửi quân sang Việt Nam và đã cảnh báo từ rất sớm là cuối cùng Mỹ phải đưa tới đó hàng trăm ngàn quân: “Việt Nam như một cái vòng luẩn quẩn với những khe sâu và bãi lầy khó thoát” (Vietnamese detour with its deep ruts and treacherous quicksands). Ông dự đoán chiến tranh sẽ kéo dài, quân Mỹ sẽ mắc kẹt vào một cuộc chiến tranh trong rừng rậm, Trung Cộng sẽ can thiệp, sự ủng hộ của dân chúng Mỹ sẽ mất dần khi thương vong tăng lên, dư luận quốc tế sẽ phản đối chiến tranh, và cuối cùng Mỹ sẽ thất bại.
Ngay từ đầu thập niên 1960, George Ball đã nhấn mạnh giá trị của ngoại giao, và khuyến nghị “rút quân chiến thuật” để tránh thảm họa. Ông kêu gọi ngừng bắn, có ủy ban quốc tế giám sát, tiếp theo là bầu cử tại Miền Nam, cho Việt Cộng tham gia, tiến tới thống nhất Việt Nam. Ông khuyến nghị tìm kiếm một giải pháp ngoại giao, vì nếu thiếu thì Mỹ sẽ khó tránh được thảm họa, dẫn tới thất bại nhục nhã. Lịch sử đã chứng minh George Ball có tầm nhìn sáng suốt, tuy lúc đầu ông không phản đối quyết liệt. Chính ông George Ball và TNS William Fulbright đã ủng hộ “Nghị quyết vịnh Bắc Bộ” (mà George Ball cùng soạn thảo).
Nhưng có lẽ chính họ cũng đã bị lừa dối. Sau đó, George Ball ngày càng bất đồng chính kiến, với những khuyến nghị ngày càng quyết liệt. TNS Fulbright đã viết cuốn “Sự Ngạo mạn của Quyền lực” (William Fulbright, “The Arrogance of Power”, Random House, 1966). Ông cho rằng khi “quyền lực bị lẫn lộn với đạo đức thì nó thường bị ngộ ngận là quyền năng tuyệt đối” (omnipotence). Ông lập luận “trong một nền dân chủ, bất đồng chính kiến là từ lòng tin, giống như tin vào thuốc chữa bệnh, mà giá trị của nó không phải vị đắng ta nếm, mà là công hiệu của thuốc”. Không phải chỉ có George Ball và William Fulbright bất đồng chính kiến, mà còn một số người khác như TNS Earnest Gruening và TNS Wayne Morse, là hai người dũng cảm trong Thượng viện đã bỏ phiếu chống “Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ” (1964). Sau TNS Fulbright, TNS Gruening đã viết cuốn Vietnam Folly, làm thay đổi nhận thức nhiều người Mỹ về Chiến tranh Việt Nam (Earnest Gruening, “Vietnam Folly”, National Press, 1968).
Sự kiện Vịnh Bắc Bộ
Ngày 2/8/1964, ba tàu phóng ngư lôi của Bắc Việt Nam đã tấn công tàu khu trục USS Maddox trong vịnh Bắc Bộ (cuộc “tấn công lần thứ nhất”). Hai ngày sau (4/8/1964) tàu USS Maddox và USS Tuner Joy tiếp tục tuần tra trinh sát tại vịnh Bắc Bộ. Trong đêm tối mịt mù, sóng to gió lớn làm mất tầm nhìn, thủy thủ hai tàu phát hiện trên màn hình radar những đốm sáng và hơn 20 vật thể di chuyển giống ngư lôi của đối phương, nên tàu phải tăng tốc để tránh, thả thủy lôi và bắn trả 650 quả pháo xuống biển (tưởng là cuộc “tấn công lần thứ hai”).
Nhưng sau đó, họ không tìm thấy dấu vết ngư lôi hay tàu của đối phương bị phá hủy hay tháo chạy trước hỏa lực cực mạnh của hai tàu Mỹ. Trong vòng mấy giờ sau đó, thuyền trưởng tàu USS Maddox John Herrick đã gửi điện khẩn về Honolulu báo cáo không phát hiện thấy địch bằng mắt thường, và báo động bị địch tấn công bằng ngư lôi có thể là do thời tiết xấu và phản ứng hồ đồ của các kỹ sư sonar. Ông khuyến nghị “cần đánh giá lại toàn bộ trước khi có hành động tiếp theo” (complete evaluation before any further action taken). Nhưng Bộ trưởng Quốc phòng McNamara đã lập tức khuyến nghị ném bom Bắc Việt Nam, và Tổng thống Johnson đã nghe lời khuyên của McNamara, vội vã tuyên bố Mỹ bị “tấn công vô cớ” (unprovoked attack) trên hải phận quốc tế. Ba ngày sau, hai viện Quốc Hội thông qua “Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ” cho phép Tổng thống toàn quyền hành động, triển khai quân đội Mỹ tại Đông Nam Á. Đó là bước ngoặt để Chính quyền Johnson quyết định leo thang chiến tranh.
Năm 2003, trong bộ phim tài liệu “Sương mù Chiến tranh” (Fog of War) ông McNamara đã thừa nhận “không có cuộc tấn công lần thứ hai, ngày 4/8/1964”. Tổng thống Johnson cũng nói “Theo tôi biết, hải quân của chúng ta đã bắn cá voi ở đó” (For all I know, our navy was shooting at whales out there). Phi công James Stockdale, lúc đó đang lái máy bay hải quân F-8 Crusader bay trên vùng “có chiến sự” đã báo cáo về như sau: “Tôi đang ngồi ở vị trí tốt nhất để quan sát “các tàu khu trục của chúng ta đang bắn vào các mục tiêu bóng ma…Chẳng có cái gì ở đó ngoài nước biển tối đen và hỏa lực của Mỹ” (our destroyers were shooting at phantom targets … There was nothing there but black water and American firepower).
Năm 2005, Cục An ninh Quốc gia (NSA) đã giải mật nhiều tài liệu bao gồm các bức điện trao đổi xung quanh “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, nên các sử gia có cơ sở để kết luận là “không có cuộc tấn công lần thứ hai” (ngày 4/8/1964). Sử gia Edwin Moise tin rằng do thời tiết xấu, các đàn cá bơi gần mặt nước, hoặc sự cố cảm biến của radar đã làm các kỹ sư sonar hiểu lầm các tín hiệu trên màn hình. Biển cả đầy rẫy các hiện tượng lạ mà thủy thủ có thể hiểu lầm là mối đe dọa. Các nhà khoa học đã nghiên cứu và chứng minh thủ phạm trong “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” là một loài cá họ mực có tên là pyrosomes, thường đi ăn ban đêm hàng đàn gần mặt nước, với đội hình trông giống quả ngư lôi, tuy tốc độ di chuyển chậm hơn, nhưng cũng phát sáng và tạo vệt sóng, nên hình ảnh trên màn hình radar trông giống ngư lôi.
Giáo sư Todd Newberry (University of California, Santa Cruz) cho rằng hình ảnh và tập quán di chuyển của loài cá pyrosomes khớp với sự cố Vịnh Bắc Bộ. Newberry cho biết vào mùa hè 1966 ông đã gặp một kỹ sư sonar của tàu USS Turner Joy tại Monterey Bay. Anh ta kể lại sự cố đêm hôm đó với ông Newberry (một giáo sư sinh vật biển). Theo lời anh ta, trên màn hình radar của tàu USS Turner Joy xuất hiện những vật thể trông giống như ngư lôi, nhưng cách nó di chuyển không giống những quả ngư lôi mà từ trước tới nay anh ta đã thấy. Câu chuyện của Newberry về loài cá pyrosomes phát sáng là một ví dụ về những ngộ nhận cực đoan của con người về thế giới tự nhiên đa dạng, nhưng có thể làm thay đổi cục diện chiến tranh.
Thực ra hơn nửa thế kỷ qua, các nhà hải dương học đã nghiên cứu và kể lại nhiều mẩu chuyện về loài cá pyrosomes trong các bài giảng ở trường đại học, nhưng ít người để ý (ví dụ trong sự cố Vịnh Bắc Bộ). Trong bộ phim the Fog of War, ông McNamara nói “Chiến tranh quá phức tạp để đầu óc con người có thể hiểu được tất cả các biến số. Nhận định và hiểu biết của chúng ta không đủ, và chúng ta giết người một cách không cần thiết” (War is so complex it’s beyond the ability of the human mind to comprehend all the variables. Our judgment, our understanding, are not adequate. And we kill people unnecessarily).
Bóng ma Việt Nam và Iraq
Sau Việt Nam, người ta tưởng Mỹ sẽ không bao giờ mắc lại sai lầm nữa. Nhưng Iraq đã làm sống lại bóng ma Việt Nam. Chính quyền Bush đã mắc lại sai lầm cũ, làm mất lòng dân, không chỉ người Mỹ mà còn nhiều dân tộc khác trên thế giới. Tuy Mỹ chống chủ nghĩa khủng bố là đúng, nhưng đã sai khi ngộ nhận và ngạo mạn về quyền lực. Mỹ đã sai khi Washington đi theo chủ nghĩa đơn phương (unilateralism), chỉ dựa vào sức mạnh cứng (hard power) mà quên mất sức mạnh mềm (soft power) làm vũ khí chống khủng bố. Mỹ đã sai lầm khi Chính quyền Bush đã nói dối Quốc hội và nhân dân Mỹ về lý do tấn công Iraq.
Hình như người ta không chịu học bài học Việt Nam: Bắt đầu một cuộc chiến mà không có tầm nhìn rõ ràng, không biết giới hạn của quyền lực, nên cuối cùng không thắng được và không thu phục được lòng dân địa phương. Iraq một lần nữa lại chia rẽ nước Mỹ khi chiến tranh kéo dài với tổn thất quá lớn, nhưng không có lối thoát. Có thể nói, bóng ma Việt Nam được phục sinh bởi Iraq, và lịch sử đã lặp lại một lần nữa. Mỹ lại đứng trước thế “tiến thoái lưỡng nan” (như Catch-22): hoặc mất Iraq hoặc phải “Iraq hóa” chiến tranh để Mỹ có thể rút quân nhằm tránh những rắc rối lớn hơn trong nước. Đó không chỉ là thất bại của bộ máy chiến tranh với “sự ngạo mạn của quyền lực”, mà còn là thất bại của một triết lý chiến tranh dược dẫn dắt bởi một tầm nhìn thiển cận, dựa trên chủ nghĩa đơn phương và sức mạnh cứng.
Bài học Việt Nam là một trường hợp điển hình về sức mạnh cứng được sử dụng tối đa, nhưng cuối cùng vẫn thất bại. Ông McNamara đã mất hơn 2 thập kỷ mới nhận ra sai lầm chết người đã xô đẩy nước Mỹ vào một cuộc chiến tàn khốc, không chỉ đem lại thương vong và tổn thất to lớn cho nước Mỹ, mà còn tàn phá Việt Nam “trở về thời kỳ đồ đá” (lời tướng Curtis LeMay), khó tái thiết sau chiến tranh. Kết cục cả Mỹ và Việt Nam đều bị tổn thương và chia rẽ nghiêm trọng, cả về vật chất lẫn tinh thần, đến tận bây giờ vẫn chưa lành vết thương.
Vì vậy mà hai thập kỷ sau chiến tranh, cuốn sách “Hồi tưởng” của ông McNamara lại mở ra vết thương lòng với vết sẹo Chiến tranh Việt Nam vẫn chưa lành. Ba thập kỷ sau chiến tranh, bóng ma Việt Nam vẫn ám ảnh John Kerry và George Bush trong cuộc vận động tranh cử tổng thống (2004). Đến tận bây giờ, bóng ma Việt Nam vẫn tiếp tục ám ảnh hai quốc gia và và chia rẽ hai cộng đồng người Việt, làm cho hòa giải vẫn vô cùng khó khăn. Nhiều người Việt và người Mỹ vẫn như là “tù binh của quá khứ”, không thể kiến tạo được tương lai.
Hình như có một nghịch lý “yêu-ghét” (love-hate paradox) giữa hai quốc gia, do ám ảnh của quá khứ với mặc cảm tội lỗi (như trường hợp ông Bob Kerrey). Nó nuôi dưỡng những ẩn ức và ngộ nhận do “tư duy cũ” (mindset) bị “bất cập” trước thực tế mới với “khác biệt lớn” (big gaps). Chỉ khi nào những “bất cập” đó được tháo gỡ, mở đường cho thiện chí hợp tác dựa trên những giá trị nhân bản của con người, thì mới có thể hàn gắn được vết thương lòng và vết sẹo chiến tranh. Quá trình này chỉ có thể thực hiện được khi quan hệ con người được xây dựng trên nền tảng “sức mạnh mềm” để khai thác được tiềm năng con người qua giao lưu và kết nối, như “hệ quả không định trước” của chiến tranh, với một tầm nhìn mới về tương lai.
Nhà báo David Lamb (Nieman Fellow, LA Times, mất năm 2016) nhận xét: “Một trong những sai lầm lớn nhất của chúng ta là không hiểu người Việt Nam, không hiểu lòng kiên nhẫn, sự ngoan cường, chủ nghĩa dân tộc, khả năng chiến đấu, lịch sử, văn hóa, và ngôn ngữ của họ. Đối với thắng thua trong chiến tranh thì đó là sự thiếu hiểu biết chết người. Tôi ước rằng Mỹ đã có thể rút ra được bài học kinh nghiệm từ Việt Nam, nhưng đáng tiếc là chúng ta lại sa vào cuộc chiến tại Iraq, một thảm họa không khác cuộc chiến tranh Việt Nam”.
Thoát Trung và Biển Đông
Trong Chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã từng đánh Bắc Việt Nam để bảo vệ Nam Việt Nam nhằm ngăn chặn Trung Quốc. Nhưng sau khi Mỹ bắt tay với Trung Quốc, họ đã bỏ rơi Nam Việt Nam (năm 1975). Trong mấy thập kỷ tiếp theo, Mỹ đã hợp tác và giúp Trung Quốc trỗi dậy bằng chính sách “tham dự tích cực” (Constructive Engagement), với hy vọng Trung Quốc sẽ “trỗi dậy hòa bình”. Nhưng đáng tiếc, Trung Quốc đã bộc lộ bộ mặt thật hung hăng như con quái vật Frankeinstein (lời cố Tổng thống Nixon). Trung Quốc bắt nạt các nước láng giềng, quân sự hóa Biển Đông để độc chiếm nó như cái ao riêng của mình, đồng thời thách thức vai trò và lợi ích cơ bản của Mỹ và các đồng minh / đối tác tại Châu Á.
Năm 1964-1965, tàu chiến Mỹ thuộc Hạm đội 7 (như tàu khu trục USS Maddox) đến Vịnh Bắc Bộ để chống Việt Nam. Còn bây giờ tàu khu trục USS John McCain đến Cam Ranh để hợp tác với Việt Nam nhằm ngăn chặn Trung Quốc bành trướng tại Biển Đông. Lịch sử đang lặp lại “Trò chơi Vương quyền” (Game of Thrones), nhưng đổi chỗ diễn viên theo luật chơi mới với kịch bản mới. Lịch sử Việt Nam có nhiều nghịch lý và uẩn khúc bất thường. Làm thế nào người Việt Nam có thể bảo vệ được chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc, mà không để các nước lớn lợi dụng biến mình thành quân cờ của họ trong bàn cờ nước lớn?
Bàn cờ Biển Đông đầy cạm bẫy, nhất là từ khi Trung Quốc đưa giàn khoan HD981vào Biển Đông, như một bước ngoặt bất ngờ gây ra cuộc khủng hoảng Viêt-Trung (5/2014). Việt Nam đã phải trả giá quá nhiều và quá lâu, bởi những sai lầm của kẻ khác, cũng như của chính mình, trong cuộc Chiến tranh Việt Nam, cũng như suốt thời hậu chiến (sau 1975), với cuộc chiến “bạn thù” với Campuchia và Trung Quốc. Sau bài học đẫm máu xung đột Viêt-Trung (2/1979), là bài học xương máu Thành Đô (9/1990). Đã đến lúc người Việt phải quyết tâm đổi mới tư duy, vượt qua ý thức hệ đã lỗi thời, để đổi mới thể chế và kiến tạo lại tương lai.
Có thể nói “thoát Trung” không phải là “bài Trung” (chống Trung Quốc) mà thực chất là đổi mới tư duy và ý thức hệ đã lỗi thời để đổi mới thể chế, nhằm kiến tạo một nước Việt Nam độc lập và tự cường, có thể bảo vệ được chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc của mình. Nói cách khác, muốn “tái cân bằng tích cực” (active rebalance) với Trung Quốc, Việt Nam cần phải hợp tác chặt chẽ với các nước lớn (như Mỹ, Nhật, Ấn) trong khuôn khổ đối tác chiến lược vì an ninh tập thể, nhưng không nên quá phụ thuộc vào các nước lớn (như hiện nay đang phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc). Đã đến lúc Việt Nam phải đổi mới thể chế toàn diện, bao gồm đổi mới những nguyên lý cơ bản của chính sách đối ngoại, trong bối cảnh mới.
Thay lời kết
Trong một bài diễn văn để vinh danh TNS John McCain và TNS John Kerry vì đã đóng góp cho hòa giải Mỹ-Việt (Boston, 2001), Đại sứ Mỹ Pete Peterson nói: “Chiến tranh không chấm dứt khi ngừng tiếng súng…Chiến tranh chỉ thực sự chấm dứt khi hai bên hòa giải với nhau”. Nhưng hòa giải không chỉ diễn ra trên bàn đàm phán giữa hai chính phủ, mà còn diễn ra trên chiến trường xưa, giữa những người cựu chiến binh đã từng bắn giết lẫn nhau, và trong lòng những người thân của họ (ở cả hai phía). Nó đòi hỏi phải vươt qua thù hận.
Cách đây không lâu, cựu ngoại trưởng John Kerry đã nói tại một cuộc hội thảo tại California (10/10/2016): “Tôi đã từng chiến đấu tại Việt Nam. Chúng tôi tưởng là đến đây để ngăn chặn nơi này biến thành cộng sản… Nhưng nay chỉ có chủ nghĩa tư bản cuồng nhiệt tại Việt Nam”. Dù đúng hay sai, ông Kerry phản ánh một nghịch lý trớ trêu tại Việt Nam. Thực ra, đó cũng là “hệ quả không định trước” (unintended consequences). Nhưng đáng buồn là Việt Nam đang bị nhầm lẫn chạy theo những gì tồi tệ nhất của CNXH và CNTB. Đó là “CNXH thân hữu” để bảo kê cho thế lực “Tư bản Đỏ” (còn gọi là “các nhóm lợi ích”), lợi dụng “định hướng XHCN” để thao túng chế độ và cướp đoạt thành quả cách mạng của thế hệ trước.
Ông Phạm Xuân Ẩn, (“Điệp viên Hoàn hảo”) có kể với tôi một câu chuyện vui đầy nghịch lý. Khi ông đến gặp một quan chức CIA vừa mới tới Sài Gòn (khoảng năm 1961-1962), ông bạn Mỹ đã khuyên ông Ẩn phải cẩn thận với ông Ngô Đình Nhu. Khi ông Ẩn hỏi tại sao thì được ông ấy “bật mí” rằng ông Ngô Đình Nhu “có thể là cộng sản”. Ông Ẩn về kể lại câu chuyện đó với ông Nhu. Sau mấy giây ngỡ ngàng, ông Nhu phá ra cười. Khi ông Ẩn hỏi “tại sao toi lại cười?” ông Nhu đã trả lời (không biết đùa hay thật) “có lẽ nó nói đúng đấy…”. Việt Nam đầy nghịch lý. Nhưng có một nguyên lý cần phải nhớ là trên đời này “không có đồng minh hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn” (Winston Churchill).
Tham khảo
- William Fulbright, “The Arrogance of Power”, Paperback, 1966)
- Robert McNamara, “In Retrospect: The Tragedy and Lessons of Vietnam”, Vintage, 1995
- H.R. McMaster, “Dereliction of Duty: Lyndon Johnson, Robert McNamara, the Joint Chiefs, and the Lies that led to the War”, Harper, 1997).
- Errol Morris, “The Fog of War: Eleven Lessons from the Life of Robert McNamara”, Sony Pictures Classics (documentary), May 2003.
- Nguyen Quang Dy, “Iraq has revived the ghosts of Vietnam, Nieman Watchdog Discussion, May 31, 2006
- Chris Reeves, “Did a Glowing Sea Creature Help Push the US Into the Vietnam War?”, Atlantic, July 11, 2017
- Ken Burns & Lynn Novick, “The Vietnam War”, Florentine Films & WETA (documentary), September 2017
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 18-7-17