Tôi đặt chân sang Ba Lan cuối năm 1988, đúng lúc nền kinh tế, chính trị, xã hội đất nước này như bên thùng thuốc nổ chỉ chực chờ mồi lửa là tan tành.
Lúc đó đường phố thủ đô Warszawa thì hoang tàn, xám xịt. Các cửa hàng thì vắng teo, trống rỗng. Trên vỉa hè đôi chỗ có những người trung tuổi trải tấm nilon bày bán lèo tèo ít sách cũ, quần áo cũ, đồ cũ. Có cụ bà vai khoác vài nhánh tỏi, cụ ông tay bế con chó con… chôn chân giữa trời tuyết lạnh, đứng bán.
Chỉ trong 6 năm, qua hàng loạt lãnh vực kinh doanh và đầu tư sắc bén, giá trị số vốn ban đầu ông Trịnh Vĩnh Bình đưa về Việt Nam được nhân lên hơn 8 lần. Sự thành công của ông tạo ra “sức cuốn hút không bình thường,” đưa đến con đường lao lý, dẫn “Vụ án Trịnh Vĩnh Bình” lên đến Bộ Chính Trị. Cựu Đại Sứ Việt Nam tại Hà Lan thời điểm ấy nhận định: “Việt Nam có câu ‘đục nước béo cò’ có lẽ khá đúng trong trường hợp này. Mà ‘cò’ ở đây lại là những con cò lớn và nhiều khi không xuất đầu lộ diện.” Vụ án này đã ảnh hưởng quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hà Lan ra sao? Việt Nam và ông Bình “đáo tụng đình” như thế nào? Mời độc giả theo dõi dưới đây.
Trịnh Vĩnh Bình, “Vua Chả Giò” tại Hà Lan, vào năm 1990 quyết định về Việt Nam “khảo sát thị trường” sau khi được giới chức ngoại giao Việt Nam tại Châu Âu khuyến khích. Sau gần 60 lần nhập cảnh, ông mang về nước gần 2,5 triệu đô la và 96 ký vàng, với sự hỗ trợ của Đại sứ quán, Tổng cục hải quan Việt Nam và Hải quan sân bay Tân Sơn Nhất. Từ đây, ông bắt đầu sự nghiệp bằng cách đầu tư vào nhiều lãnh vực khác nhau, thành công rất nhanh, theo như nhận định của cựu Đại Sứ Việt Nam tại Hà Lan thời đó, tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng: “Nhờ tính năng động và chủ động như vậy mà giai đoạn đầu, ông Bình trở nên thành công và khá nổi tiếng ở Việt Nam.” Và cũng chính sự thành công vượt bậc này đặt ông Bình vào thế rủi ro. Mời độc giả theo dõi sau đây.
Tôi vô tình xem Video “Góc nhìn Nguyễn Ngọc Lập” (ghi ngày 19/9/2019), phát hiện vài điều hơi lạ. Sau đó tôi tìm nghe tiếp một số bài khác của ông ta để có cái nhìn chung.
Sau đệ nhị thế chiến, năm 1945 nước Đức bị chia làm hai, Tây Đức (Cộng hòa liên bang Đức, tự do) và Đông Đức (Cộng hòa dân chủ Đức, cộng sản). Từ đó hai bên có chiến tranh lạnh với nhau. Năm 1990, đảng cộng sản Đông Đức tan rã, Đông Đức được sáp nhập vào Tây Đức, chính quyền Tây Đức điều hành nước Đức tái thống nhất.
Thấm thoắt thế mà đã tròn 20 năm, một phần năm thế kỷ, kể từ khi Bộ Chính trị Đảng CSVN ban hành nghị quyết công khai đầu tiên về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài (NVNONN), Nghị quyết 36-NQ/TW, ngày 26-3-2004. Cho đến thời điểm đó, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác này đều là “MẬT”.
Nhiều anh chị em của tôi đang sống ở ngoài Việt Nam và không được, không thể về nước. Họ bị từ chối visa. Bị trục xuất. Bị đe dọa khi về nước.
Chúng tôi không bao giờ từ chối tổ quốc nhưng bị đẩy ra khỏi đất nước thành những kẻ vô tổ quốc.
Những người cầm quyền ở Việt Nam hiện nay đang hành xử như thể họ độc quyền sở hữu đất nước, như thể đất nước là một thứ tài sản riêng của họ; thứ tài sản mà họ có thể cho thuê dài hạn, mang thế chấp, bán bớt, bán dần, làm hư hỏng, làm tàn hại, và họ tỏ ra bất lực trước sự việc bị ngoại bang đe dọa và xâm chiếm, mà họ không chia sẻ quyền lợi và trách nhiệm với chúng tôi.
Ông Bin sinh năm 1944, nguyên là thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban về người Việt ở nước ngoài. Tôi kính trọng, cảm phục sau khi đã đọc nhiều bài viết của ông và bài viết về ông. Gần đây việc ông lên tiếng yêu cầu xóa bỏ kỷ luật GS Chu Hảo là rất đáng hoan nghênh. Tuy vậy sau khi đọc bài “15 năm một nghị quyết- vết thương dân tộc vẫn chưa lành” thì tôi lại muốn trao đổi với ông vài điều về nhận thức.
45 năm, từ làn sóng người Việt tị nạn đến Mỹ đầu tiên vào năm 1975, đến nay, cộng đồng gốc Việt tại Mỹ được xem đã khá ổn định với nhiều thành công cá nhân và trong mỗi gia đình. Trải qua nhiều đời tổng thống, bất luận đảng phái nào, người gốc Việt từng bước hội nhập rồi thăng tiến trên đất nước thứ hai của mình.
Cộng hòa liên bang Đức có 82 triệu dân, trong số đó người ngoại quốc với 17 triệu chiếm trên 20% tổng số dân. Người Việt ở Đức ước chừng 130.000 với 90.000 chưa nhập tịch và 40.000 đã nhận quốc tịch Đức mà đa số là những thuyền nhân tị nạn cộng sản đã thành công hội nhập xã hội. Nhiều năm qua vấn đề di dân đã được đưa vào các chương trình chính trị của chính quyền và các chính đảng. Đặc biệt thành phần cử tri Đức gốc di dân khoảng 9,3 triệu người được mời gọi tham gia vào các cuộc bầu cử ở mọi cấp. Trong các nghị viện thành phố, tiểu bang, liên bang và Âu châu đã có nhiều đại biểu dân cử gốc di dân. Người Đức gốc Việt thành danh trong lãnh vực chính trị là cựu phó thủ thướng liên bang Philipp Rössler.
Báo Ấn Độ, Times of India có bài phân tích về “Mục tiêu chiến lược của Trung Quốc ở Biển Đông”. Bài viết cho biết, mục tiêu của Trung Quốc ở Biển Đông là, thông qua khu vực này để chiếm lĩnh tất cả các khu vực chiến lược xung quanh nó.
“Nông dân, công nhân hôm nay bị bóc lột còn tàn tệ hơn trước kia vì sự cấu kết công khai giữa chế độ với tư bản hoang dã. Bản án tử hình nông dân Đặng Văn Hiến ở Đắk Nông mới đây nói lên tất cả! Chống tư bản để phe nhóm kết thành hệ thống tư bản đỏ, càng tàn độc hơn. ‘Cách mạng’ vỡ nhanh như bong bóng xà phòng. Biến một xã hội có nền tảng văn hóa lâu đời thành một xã hội mông muội. Một cái vòng lẩn quẩn oan nghiệt!“
____
Hồ Phú Bông
20-1-2018
Cuối năm thường nghĩ về, còn đầu năm không mấy ai muốn nói chuyện ra đi, dù chỉ mới nghĩ đến thì tâm trạng đã rối bời. Đã bâng khuâng, xao xuyến. Ra đi như vậy là sẽ quay về. Quay về vì tình quê hương là sợi dây vô hình ràng buộc đã thấm đẫm trong máu, trong tim. Về, để hồi sinh vùng ký ức nhạt nhòa. Về, để thăm chốn cũ. Cuốn rún vẫn chưa lìa.
Đại Hội đồng Liên Hiệp quốc ngày 11/10/2022 đã bỏ phiếu chấp nhận Việt Nam làm thành viên mới của Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc (HĐNQLHQ), nhiệm kỳ 2023-2025.
1- Trong lịch sử nhân loại, có hai dân tộc chịu số phận bi thảm hơn các dân tộc khác. Rất không may, một trong hai lại là dân tộc Việt chúng ta. Một trong hai còn lại là Do Thái.
Cái “lỗi” của dân tộc Do Thái là sinh ra Chúa rồi hành hình Chúa trên thập giá. Họ đã bị kỳ thị, xua đuổi, bị truy bức giết hại và lưu vong khắp nơi. Năm 1947, cái dân tộc rã rời nát vụn đó đã cùng nhau gom góp từng đồng tiền, từng mãnh đất để gầy dựng lại quốc gia của mình. Định mệnh bi thảm của dân tộc đã khiến họ gắn kết với nhau thành một khối, nhờ đó quốc gia Israel đã phát triển không ngừng. Một mình họ đã đánh bại quân đội của liên minh các nước Ả rập để bảo vệ sự tồn vong của đất nước. Và giờ, họ đã có bom nguyên tử…
Khác với dân tộc Do Thái lưu vong hơn ngàn năm trước, dân Việt chỉ bắt đầu lưu vong đại trà từ sau 30-4-1975. Dân tộc này không hành hình Chúa nhưng vẫn phải chịu một định mệnh bi thảm không kém. Cuộc chiến tranh giữa hai miền anh em với vũ khí bom đạn của ngoại bang kết thúc, đất nước được gom về một mối, những tưởng sẽ bắt đầu một thời đại vàng son, nhưng không ngờ, thời đại đó biến thành một cuộc phân ly bi thảm.
Vượt qua cả dân tộc Do Thái, người Việt ” vươn lên” dẫn đầu lịch sử lưu vong của nhân loại bằng cuộc di cư chính trị quy mô nhất về mặt số lượng từ trước đến nay. Hàng triệu người đã lao ra biển trên những chiếc tàu đánh cá các loại để thoát khỏi đất mẹ của mình, chấp nhận cả cái chết để… lưu vong. Một phần của dân tộc đã làm mồi cho cướp biển cho cá mập và bị nhốt trong những trại tị nạn nghẹt thở ở các nước Đông Nam Á đồng liêu.
Cuộc di cư khốc liệt của người Việt đã đưa họ đến khắp nơi trên thế giới, kể cả châu Phi, điều mà trước 1975, cả hai miền Nam Bắc đều không hề có. Tâm thức lưu vong kể từ mốc thời gian đó, đã phục kích trong các tầng lớp dân Việt, đóng đinh trong đầu họ cho đến tận ngày nay, không ngơi nghỉ và không có cơ hội để chấm dứt…
2. Sau 30-4-1975, ở Phan Thiết quê tôi, người vượt biên bằng đường biển rất nhiều do thành phố này sống bằng kinh tế biển với rất nhiều tàu đánh cá. Người Phan Thiết không chỉ giúp “đồng bọn” quê mình vượt biển mà còn giúp cả dân Sài gòn, với giá vài ba cây vàng, có khi chủ tàu chỉ thu đủ sở hụi để mua dầu, thực phẩm và đút lót cho bộ đội biên phòng. Có nguyên một làng chài hay cả xóm đạo vượt biên sạch.
Sau đó, khi đất nước đói meo, thì những người vượt biên bắt đầu góp phần gầy dựng quê nhà bằng … những thùng hàng gởi về từ nước ngoài. Dân quê tôi gọi đó là hàng thùng. Một người vượt biên thoát được qua nước ngoài thì cả gia đình được nhờ, cả gia đình cùng thoát thì dòng họ được nhờ. Dân sống bằng hàng thùng chả cần làm gì vẫn phong lưu vì nhận hàng thùng đều đặn gởi về.
Gia đình nào sống bằng hàng thùng thì con trai rất dễ lấy vợ và con gái, dù xấu, cũng rất dễ lấy chồng. Tâm thế chờ đợi hàng Mỹ, hàng Tây đã ăn sâu từ đó vào ký ức của cộng đồng. Không chỉ chờ đợi hàng thùng và đô la từ nước ngoài, người thân trong nước của các Việt kiều thường xuyên sống trong tâm trạng chờ đợi được bảo lãnh. Gặp nhau là họ hỏi thăm nhau bằng một câu cửa miệng: “Bao giờ đi?”. Đi ở đây chính là lưu vong, là thoát khỏi nơi họ chôn nhao cắt rún!
3- Năm 2017, tôi đi du lịch Mỹ để thăm thú bạn bè định cư ở đất nước này. Ngày tôi đi cũng là ngày một nhà báo đồng nghiệp rất thân với tôi tại Đài phát thanh TPHCM xách va ly qua Mỹ để… lưu vong. Anh đã nghỉ hưu và được gia đình bảo lãnh. Rất nhiều nhà báo mà tôi quen biết khi về hưu đã sang Mỹ định cư, coi việc lưu vong là điều hết sức bình thường. Ai thắc mắc tuổi già còn sang Mỹ để làm gì, cứ hỏi họ đi rồi sẽ nhận được câu trả lời.
Tại Mỹ, tôi ghé San Jose thăm L. Hoàng, bạn học thời trung học của tôi ở Phan Thiết. Hoàng qua Mỹ năm 1978 và tiếp tục học hành để lấy bằng kỹ sư, giờ cậu là trưởng một bộ phận trong một công ty có 5000 căn hộ cho thuê. Cậu ở trong khu da trắng, với một ngôi nhà trị giá 800.000 đô la và lái chiếc Mẹc 7 chỗ.
17 tuổi, Hoàng đã là nhà tổ chức vượt biên và từng vô tù ngồi 6 tháng. Sau khi tổ chức nhiều chuyến tàu vượt biển thành công, cậu cùng 5 anh chị em của mình quyết định ra đi. Giờ họ cùng nhau sinh sống trên đất Mỹ. Hoàng bảo tôi khi gặp lại, rằng gia đình cậu lúc đó nghèo quá và thấy đất nước cũng nghèo quá nên vượt biên là con đường duy nhất mà cậu buộc phải lựa chọn. Cậu bảo, “tao đâu muốn sống lưu vong, nhưng không vượt biên làm sao có tương lai. Nước Mỹ lúc đó là miền đất hứa và họ đã cưu mang tao nên cuối cùng tao cũng quen với cuộc sống bên này”.
Đã có 3 thế hệ người Việt sống lưu vong trên đất Mỹ, thế hệ thứ nhất là những người bỏ chạy khỏi nước khi quân đội miền Bắc tràn vào Sài gòn và những người vượt biển. Thế hệ 2 là các sĩ quan VNCH và gia đình họ qua đây theo diện HO cùng với những người được thế hệ thứ nhất bảo lãnh. Thế hệ thứ 3 là con em người Việt sang du học, tìm kiếm việc làm, định cư và bảo lãnh cha mẹ.
Trong số cha mẹ này có rất nhiều cán bộ nhà nước, họ đầu tư tiền bạc cho con cái ăn học, mua nhà cửa, gởi tiền vào tài khoản ngân hàng và chờ đợi thời cơ để… lưu vong. Tiền họ có được, dĩ nhiên đến từ túi của nhân dân, vì lương của thủ tướng VN chưa tới 20 triệu đồng (khoảng 850 đô Mỹ) thì họ lấy gì để nuôi con du học?
4- Mỗi năm, người Việt trong nước bỏ tiền tỉ đô la để mua nhà ở Mỹ. Ai có khả năng này? Chỉ có cán bộ và doanh nhân. Ở một thành phố của quận Cam, có cả một “ngôi làng” của cán bộ nhà nước. Họ chuyên sống bằng hồn của Trương Ba nhưng da hàng thịt. Họ ở VN, làm việc trong bộ máy của chế độ nhưng tâm hồn thì để trong những ngôi nhà ở Mỹ. Ở đó có con cháu họ chờ sẵn. Giống như Võ Kim Cự Formosa vậy, nếu cần thiết lên đường xuất ngoại là đi thôi. Tiền đã gởi, nhà đã mua, con cháu đã chuẩn bị đón chào.
Tôi biết Tổng biên tập một tờ báo nọ, vẫn đương chức ở Việt Nam nhưng đã có thẻ xanh ở Mỹ. TBT phải là đảng viên, nhưng chuyện này dễ ẹt, một khi lòng người đã muốn… lưu vong thì không có gì là không thể. Có TBT một tờ báo chửi Mỹ không còn nước non gì, thế mà cuối đời xách đít qua Mỹ để sống …lưu vong.
Các nhà báo đàn anh tôi, cùng lứa tuổi tôi hoặc nhỏ hơn ở Sài gòn, bằng cách này cách khác, đều gởi con du học Mỹ hoặc Úc. Đó là tương lai mới không chỉ cho con cái họ mà cho cả họ. Giờ họ là công dân Việt Nam nhưng mai mốt đây họ sẽ là công dân Mỹ Úc, nếu muốn. Cả đất nước đều như vậy.
Nhiều công dân Việt hiện nay đã lên kế hoạch cho cuộc sống tương lai của mình không gắn với Việt Nam. Dân thường, cán bộ viên chức, nhà văn nhà báo, lãnh đạo cấp cao…vân vân. Không từ một tầng lớp nào. Ai dám chắc rằng các lãnh đạo cao cấp không chọn trước cho mình một chỗ để … lưu vong khi cần thiết. Cuộc đời, thời cuộc mà, đâu nói trước được điều gì.
Người thân Mỹ chọn chỗ sẵn ở Mỹ, người thân Tàu chọn chỗ sẵn ở Tàu. Có biến là dzọt thôi. Vậy thì làm sao trách các công dân Việt thu nhập thấp tìm qua Đài Loan hay Nhật Bản để… lưu vong bất hợp pháp. Đã lưu vong thì bình đẳng, giống như sự bình đẳng của con người trong tuyên ngôn nhân quyền vậy, dù người giàu tiền và nghèo tiền thì chọn cách lưu vong khác nhau.
5- Vậy tại sao người Việt lại khát khao…lưu vong như thế? Câu hỏi này quá dễ trả lời bằng câu thành ngữ Việt Nam: đất lành chim đậu. Khi đất mẹ không còn lành thì người dân Việt sẽ tìm cách ra đi như một tất yếu để tìm đến mãnh đất lành hơn. Không ai muốn tương lai gia đình con cái mình sống trong môi trường nhiễm độc, nền giáo dục – y tế thiếu chất lượng, sự bất nhất giữa nói và làm của những người điều hành xã hội, sự giả dối lừa lọc nhau giữa người và người, niềm tin cùn mòn vì mọi thứ đều có thể làm giả, từ học vấn giả, nhân cách giả, đến cả lịch sử cũng bị làm giả, rồi người dân bị cấm đoán nói lên sự thật của đất nước mình… vân vân và vân vân, đó là chưa kể nỗi sợ hãi bị mai phục và thôn tính đến từ anh bạn vàng ròng láng giềng khổng lồ phương bắc…
6- Ở lứa tuổi hiện nay của mình, chưa bao giờ tôi muốn sống lưu vong, nhưng tôi lại muốn con cái mình được đào tạo bởi nền giáo dục Mỹ, Úc và đó cũng là nơi sinh sống thật tuyệt cho chúng nếu chúng muốn… lưu vong. Tâm thức cá nhân được định hình từ tâm thức xã hội, do vậy ngay trong bản thân, tôi đã bị tâm thức lưu vong chế ngự , kể từ khi đứa con của tôi bắt đầu xách cặp tới trường để học tiếng Anh.
Một quốc gia sao có thể hùng cường khi người dân của quốc gia ấy cứ nhấp nhổm… lưu vong và không coi trọng đất nước của mình? Khó có thể gắn kết những con người nhấp nhổm ấy lại với nhau bằng tình cảm quốc gia để đoàn kết như dân Do Thái. Ai cũng biết rằng, kẻ lưu vong là kẻ bị nhổ bật gốc rễ khỏi quê hương, như bụi lúa bị nhổ bật khỏi ruộng nước.
Đó là một nỗi đau từng là điều không chịu nổi đối với người tha hương xa xứ, vậy mà giờ đây, nó đang biến thành một món ăn tâm lý hạng nhất của người Việt chúng ta. Vì đâu nên nỗi cuộc này, hả người?
Sau ngày quân đội miền Bắc chiếm được Sài Gòn và toàn bộ lãnh thổ nước Việt Nam Cộng hòa, tướng việt cộng Trần Văn Trà tuyên bố trước toàn dân thiên hạ: không có người Việt Nam nào thắng người Việt Nam nào cả, chỉ có nhân dân Việt Nam đã thắng đế quốc Mỹ xâm lược, từ nay nhân dân Việt Nam chúng ta là một khối thống nhất, đoàn kết, thương yêu nhau để xây dựng đất nước ngày một phồn vinh.
Tháng tám mang chút gió mát về tựa như một muỗng kem lạnh giữa ngày hè, khi mặt trời khép những tia nắng vàng cam giấu trong đám mây đen cuối ngày. Trên bãi cỏ rất xanh có hai hàng thông đã bắt đầu rơi trên lối đi những trái thông khô mà vào đầu mùa thu tôi thường nhặt đầy túi mang về nhà, bỏ vào giỏ như gởi một tín hiệu là mùa mới đang đến để có cảm nhận về thời gian đang trôi thật nhanh, khi mà chúng ta nhìn thấy sự thay đổi của chính mình và thời gian như chậm lại khi phải mang tâm trạng chờ đợi một ai đó, hay một điều nào đó trong mong mỏi khôn cùng.
Tôi đi dự một đám cưới Việt Nam tại California. Chú rể là H.; cô dâu là T., cả hai đều là người Việt, ở độ tuổi trên dưới 30. Thực khách vào khoảng 150 người, với gia đình và bạn bè hai bên. Ba phần tư trong số này là người Việt, phần còn lại là người Philippines, có một số người Caucasian (người da trắng).
WASHINGTON, D.C. (NV) – Nội các của Tổng Thống Donald Trump đang tái khởi động những nỗ lực để trục xuất số di dân Việt Nam vốn là những người được sống hợp pháp ở Hoa Kỳ trong nhiều thập niên qua. Nhiều người trong số họ đã trốn thoát khỏi đất nước sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975.
Cả đời mình chưa bao giờ tham gia biểu tình mà cũng chưa bao giờ rủ rê (xúi dục?) ai biểu tình. Ở Berlin, hội cờ vàng cờ đỏ của người Việt tổ chức biểu tình suốt. Biểu tình trước đại sứ quán Việt Nam, biểu tình trước đại sứ quán Trung Quốc, biểu tình chống Formosa, biểu tình chống Trung Quốc xâm phạm biển Đông, biểu tình chống gián điệp Việt Nam bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, biểu tình chống đàn áp các nhà hoạt động dân chủ ở Việt Nam… Chưa bao giờ mình xuống đường cùng đồng hương. Bị người quen hỏi tới, mình chỉ nhăn răng cười. Có nhiều lý do để mình không tham gia lắm, nào là bận đi chợ, nào là bận đánh tennis, nào là không biết tổ chức biểu tình chỗ mô, nào là không có ai kêu điện thoại rủ đi… Ai nghe mình viện lý do vắng mặt, cũng gật đầu thông cảm. Dân chủ tự do mà, ai thích thì tham gia, ai không thích thì thôi. Làm gì có chuyện chửi nhau là phản động hay lên án người khác là không yêu nước.
Hôm thứ Sáu 14 tháng 10 vừa qua, tại tư gia của tôi ở San Jose, California, có một buổi gặp gỡ giữa Uỷ ban người Việt ở nước ngoài đến từ Hà Nội và một số nhân sĩ Việt kiều, hầu hết là từ miền Nam. Trong suốt hơn hai giờ, cuộc trao đổi đều tương đối khá thẳng thắn và thực tiễn về các chính sách đối với Kiều bào.
“…Gia tài của mẹ để lại cho con là nước Việt buồn!” – Trịnh Công Sơn
1. Khi niềm tin của người dân không còn
Có thể nói, từ cổ chí kim không một quốc nào phát triển và thịnh vượng mà bên trong quốc gia ấy không có sự thống nhất, hòa hợp của cả cộng đồng dân tộc. Và thước đo cho sự hòa hợp này chính là chỉ số niềm tin của mỗi cá nhân trong xã hội dựa trên ba mối quan hệ căn bản sau:
Tôi đã chứng kiến, đã tiếp xúc với rất nhiều ông bà, cô bác kiều bào về nước ở tuổi xế chiều. Tôi hỏi họ: “Tại sao lại quay về trong khi ở nước ngoài điều kiện y tế tốt hơn ở VN, chăm sóc, cho tới phúc lợi đều hơn hẳn?” Câu trả lời của họ luôn rất dài nhưng luôn luôn kết câu sẽ là: “Được chết trên quê hương mình. Nằm hay tan vào dòng nước quê hương, được nghe tiếng nói quê hương, nhìn thấy bầu trời quê hương trước khi nhắm mắt”.
Khi những người Việt Nam tị nạn đầu tiên đến định cư ở thị trấn ven biển Seadrift, Texas, họ đã phải đối mặt với thái độ thành kiến và giận dữ từ một số người dân địa phương. Mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm vào ngày 25/11/1979, khi đảng Ku Klux Klan đến làng chài này. Họ đe dọa các ngư dân Việt Nam đang cạnh tranh với ngư dân da trắng bản địa và buộc [các ngư dân Việt Nam] phải từ bỏ ngư trường ở đây rồi rời khỏi thị trấn này. Đó chỉ là một phần của làn sóng thù địch nhắm đến khoảng 130.000 người Việt tị nạn ở Hoa Kỳ sau ngày chính quyền Sài Gòn sụp đổ.
Bốn thập kỷ sau, người Việt Nam vẫn đang bám trụ dọc theo vùng Duyên hải Vịnh Mexico của Hoa Kỳ (US Gulf Coast). Quá trình người Việt tìm cách thích nghi với nơi này là một một trang sử đầy giá trị giáo dục, và nó cung cấp một cái nhìn, để qua đó chúng ta xem lại thái độ hiện tại với người nhập cư.
LTS: Ngày 1/9 vừa qua, nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, có gửi thư chiêu dụ nhà văn Phan Nhật Nam về Việt Nam tham dự cuộc gặp mặt, sẽ diễn ra ở Hà Nội và một số địa phương ở phía Bắc, từ ngày 20 đến 25 tháng 10 năm 2017. Ngày 9/9, nhà văn Phan Nhật Nam đã có thư trả lời ông Hữu Thỉnh. Dưới đây là nội dung thư trao đổi giữ hai người.
_____
THƯ CỦA THỦ ĐÔ HÀ NỘI
Thư gửi: Nhà văn Phan Nhật Nam
Thưa anh,
1- Để đỡ đường đột, xin giới thiệu. Tôi là Hữu Thỉnh, người từng đọc anh đã lâu, hiện nay đang làm việc tại Hội Nhà văn Việt Nam. Tôi mới gặp Thụy Kha vừa ở bên ấy về, cho biết có gặp anh và hai người đã từng cùng nhau uống bia vui vẻ. Đấy quả là một sự kiện bất ngờ thú vị. Với dư âm của các cuộc gặp ấy, tôi viết thư này thăm anh và bày tỏ nguyện vọng “tái bản” cuộc gặp ấy, và di chuyển nó về quê nhà với quy mô rộng hơn, thời gian dài hơn trong khuôn khổ một cuộc gặp mặt của Hội Nhà văn Việt Nam với các nhà văn Việt Nam đang sống và làm việc tại nước ngoài. Đây là một cuộc hội ngộ mà chúng tôi mong mỏi từ lâu, nay mới có thể thực hiện được. Với ý nghĩa cao cả, góp phần làm giàu các giá trị truyền thống của dân tộc, xứng đáng để chúng ta vượt qua mọi xa cách và trở ngại, cùng ngồi lại với nhau trong tình đồng nghiệp. Tôi chờ đợi được anh chia sẻ điều đó và chân thành mời anh tham gia sự kiện nói trên.
Trong vòng tối đa 6 tháng tới, chúng ta sẽ biết ai là người chiến thắng trong vụ kiện tỷ đô tại Tòa Trọng tài ICC được khởi xướng bởi doanh nhân Trịnh Vĩnh Bình đòi Chính phủ VN bồi thường cho những tài sản của ông đã bị tịch thu trái phép vào cuối thập niên 90.
Qua video ghi lại cảnh ông Trịnh Vĩnh Bình bước ra khỏi cổng Tòa với một trạng thái hân hoan và đầy phấn khích sau khi kết thúc quá trình tố tụng, dường như cho thấy Ông cảm nhận được sự chiến thắng đang rất gần kề.
Hôm qua, trên trên diễn đàn BBC tiếng Việt có bài của tác giả Võ Ngọc Ánh: “Người Việt hải ngoại và nạn kỳ thị, miệt thị nhau vì khác quan điểm”. Nội dung chính của bài viết này nói về thói quen của một số người Việt là chụp mũ những người khác chính kiến với mình là tiếp tay cho cộng sản hoặc tệ hơn nữa là làm việc cho cộng sản.