Nhiệm vụ khó khăn nhất của Israel

 FAZ

Tác giả: Christoph Ehrhardt, Gregor Grosse Christian Meier

Vũ Ngọc Chi, chuyển ngữ

19-10-2023

Cuộc tấn công trên bộ của Israel vào Dải Gaza là một thách thức lớn đối với quân đội của họ. Nước này là một trong những cường quốc quân sự hàng đầu, nhưng Hamas và Hezbollah cũng rất mạnh. Một cái nhìn tổng quan.

Đại Vận Hà Phù Nam của Vương Quốc Cam Bốt – Âm mưu thâm độc của Bắc Kinh

Phạm Phan Long, P.E.

16-10-2023

Trung Quốc và Lào tích lũy nước, phù sa và cắt đứt sinh lộ của di ngư trên sông Lancang – Mekong tại các hồ chứa thủy điện của họ, đe dọa sự sinh tồn của Cam Bt và Việt Nam, nên đã đến lúc Trung Quốc và Lào phải nhận trách nhiệm. Họ đã gây ra khô hạn cho hạ vực, chịu khát giữa mùa mưa.

Từ đế chế Phù Nam – Khmer tới con kênh lịch sử Funan Techo của vương quốc Cam Bốt

Ngô Thế Vinh

16-10-2023

Gửi 20 triệu cư dân ĐBSCL

Gửi Nhóm Bạn Cửu Long

Dư âm Hội nghị Trung ương 8 khoá 13

Mai Hoa Kiếm

14-10-2023

Hội nghị Trung ương 8 khoá 13 của đảng cộng sản Việt Nam đã bế mạc sau một tuần vòng vo, tranh cãi mà không đưa ra được giải pháp căn cơ nào cho hàng loạt vấn đề nan giải, như cải cách tiền lương, y tế, giáo dục và phục hồi kinh tế. Những tờ trình của Bộ Chính trị đưa ra Trung ương bỏ phiếu chỉ quanh quẩn việc phán quyết kỷ luật, bố trí nhân sự điền vào chỗ trống và quy hoạch cho được “mâm bát” của đại hội 14 vào tháng 1-2026.

“Chiến tranh chống Mỹ, miền Bắc khổ như thế nào”?

Mạc Văn Trang

12-10-2023

Sau khi tốt nghiệp lớp Diễn viên điện ảnh đầu tiên, bà xã Kim Chi nhà tôi xung phong đi vào Nam 1964, ở chiến trường 10 năm; năm 1974 thì ra Bắc rồi đi Bulgaria học đạo diễn. Bả kể cho tôi nghe những nỗi khổ, đi xuyên Trường Sơn 4 tháng và ở chiến trường 10 năm ra sao, rồi hỏi: Thời đó ở miền Bắc khổ như thế nào?

Giải Nobel Y học – Sinh lý học năm 2023

Trần Gia Huấn

7-10-2023

Giải Nobel Y học – Sinh lý năm 2023 thuộc về Katalin Kariko và Drew Weissman, cho việc tìm ra mRNA vaccine chống COVID-19. Ủy ban Nobel ca ngợi, đây là một tìm tòi mang tính đột phá. Thay đổi căn bản sự hiểu biết của nhân loại về mRNA tương tác với hệ miễn dịch.

Giải Nobel Hoà Bình năm nay được trao cho nhà đấu tranh cho nữ quyền Narges Mohammadi 

Vũ Ngọc Yên

6-10-2023

Ngày 6-10-2023,Ủy ban Nobel Na Uy thông báo, giải Nobel Hòa bình năm 2023 được trao cho Nhà hoạt đông nữ quyền Iran, cô Narges Mohammadi. Bà Berit Reiss-Andersen, Chủ tịch Ủy ban Nobel Na Uy, cho biết tại thủ đô Oslo là cô Mohammadi được vinh danh vì những nỗ lực dấn thân cho quyền phụ nữ ở Iran và thúc đẩy nhân quyền và tự do cho tất cả mọi người…

“Đạo đức và lối sống” của Chánh Văn phòng Cục Thi hành án tỉnh Phú Yên 

Trần Kỳ Khôi 

5-10-2023

Lâu nay, việc đảng viên cộng sản làm cán bộ lãnh đạo cơ quan, đơn vị, địa phương hoặc trung ương, dính lùm xùm chuyện quan hệ bất chính, sàm sỡ cấp dưới, “xem đất”, “khám điền thổ” vợ người ta trong nhà nghỉ, khách sạn, xảy ra quá nhiều. Nhưng cái cách mà đảng viên cao cấp chính trị Huỳnh Ngọc Thuận, Chánh Văn phòng, kiêm Chủ tịch Công đoàn Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Phú Yên phá nát hạnh phúc gia đình người ta, thật sự đáng phẫn nộ, cũng như đáng bị lên án.

Truyền thông tiếng Việt hải ngoại, kẻ ăn không hết người lần không ra!

Yên Khê

1-10-2023

Đóng cửa vì hết tiền…

Hôm 27-9-2023, ông Nguyễn Hùng có bài viết đăng trên trang Thời Báo: “BBC Tiếng Việt sẽ về đâu sau khi rời London”. Bài viết bàn về việc văn phòng BBC Việt ngữ tại Luân Đôn sắp đóng cửa, toàn bộ hoạt động của Ban tiếng Việt sẽ dựa trên văn phòng ở Bangkok, Thái Lan.

Hội nghị Trung ương 8 của đảng CSVN và những bất ngờ …

Nông Văn Tiềm

29-9-2023

Lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam đang triệu tập Hội nghị Trung ương 8 khoá 13, sẽ khai mạc vào ngày 2-10-2023 và bế mạc ngày 8-10-2023 tại Hà Nội. Tin nội bộ cho hay, thời gian hội nghị kéo dài bảy ngày, đồng nghĩa với việc có quá nhiều vấn đề nan giải cần giải quyết trong nội bộ đảng.

Học ở đâu để làm Tổng Bí thư, Chủ Tịch nước?

Lê Văn Đoành

27-9-2023

Trong nhiều chương trình “Tư vấn mùa thi” cho các trường phổ thông trung học ở Việt Nam, ban tổ chức thường đối mặt với câu hỏi của các học sinh: “Học trường nào để làm Tổng Bí thư, Chủ tịch nước?” Các thành viên Ban tổ chức “bó tay”, không trả lời được, hoặc không dám trả lời.

Về cái chết của Nguyễn Chí Vịnh 

Lê Văn Đoành

14-9-2023

Sau hơn mười ngày rơi vào hôn mê, ngày 14-9-2023, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Uỷ viên Trung ương hai khoá 11-12, cựu Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đã trút hơi thở cuối cùng, vĩnh viễn khép lại số phận “lẫy lừng” của nhân vật được cho là chứng nhân số một trong hàng loạt bí mật kinh thiên động địa trong triều đình cộng sản gần ba mươi năm qua.

Mừng luật gia Nguyễn Bắc Truyển tới bến bờ tự do

Thục Quyên

13-9-2023

Vợ chồng ông Nguyễn Bắc Truyển và bà Bùi Kim Phượng. Nguồn: FB nhân vật.

Tôi muốn tiết lộ “vài bí mật”

Nguyễn Đình Cống

13-9-2023

Gần đây, tác giả Từ Thức viết bài “Những nhân chứng sống sót của một thời thảm khốc”, đăng trên Tiếng Dân và Boxit, giới thiệu hai cuốn truyện của Phan Thúy Hà kể về những thảm khốc xảy ra trong thời cải cách ruộng đất (CCRĐ): Cuốn Gia Đình và cuốn Đoạn đời niên thiếu. Truyện ghi lại những lời do nhân chứng còn sống kể theo trí nhớ, trong đó viết về những tàn ác, dã man đối với những nạn nhân của CCRĐ. 

Những nhân chứng sống sót của một thời thảm khốc (Kỳ 2)

Từ Thức

10-9-2023

Tiếp theo kỳ 1

CÁI S:

Cai trị bằng cái sợ là một chính sách, một lý thuyết chính trị của Lénine, được Staline, Mao, Pol Pot và những đệ tử Việt Nam trung thành áp dụng triệt để.

Sợ từ khi còn ngồi ghế nhà trường: “Lúc nào cũng mang ni s. S mà không biết s gì (GĐ. tr. 42).

Văn đ t, phi chn gia 3 đ, đ 2: Bình lun mt câu ca Trưng Chinh, đ 3: Phương pháp t ngưi ca Nguyn Du. C lp làm đ 3. Di chi làm đ kia, viết h hênh mt câu mt lp trưng là nguy (ĐĐNT. tr.21).

Cái sợ bám vào nạn nhân suốt đời, như một người cao tuổi, trong Gia Đình, tới nay vẫn không dám thắc mắc một chuyện gì:

Quá na đêm, dân quân không canh na, tôi vn s. Tôi đã tiu ra qun. Ni khiếp s năm mưi lăm tui. Nay tám mươi hai, tôi vn là mt ông già s hãi. Tôi không dám thc mc mt chuyn gì. Mun viết đôi điu cho con cháu biết v cha ông mình, cm bút lên tôi li run.

CÁI CHT:

Hậu quả của sự tàn bạo là cái chết. Chết vì bị treo cổ, treo đầu nón chân, bị đánh đập, tra tấn, vì đói, vì tự tử.

– “Ch ngi ta lưng vào gc cây di, di yếm tr xung, thng con như con nhái bén vn đang nhay vú m. Lúc đó ch đã chết ri mà tôi không biết” (ĐĐNT. tr. 41)

– “Bà ni chết vì rét hay vì đói. T hôm b trúng viên gch thng K, bà nm mt ch. Ba năm sau bc m bà, thy hai chiếc xương sưn b gy” (GĐ).

HUN LUYN CĂM THÙ:

Người ta tự hỏi: Tại sao những người nông dân, vốn hiền lành, đã trở thành ác quỷ?

Con người có thể trở thành thánh, hay thú vật, tuỳ môi trường sống, tuỳ giáo dục. Lịch sử đã chứng minh điều đó, với xã hội Đức dưới thời Hitler, Nga dưới Stalin, Tàu dưới Mao, Cao Miên dưới Pol Pot. Việt Nam không phải là một ngoại lệ, nếu điều đó có thể an ủi người Việt.

Tất cả trò đấu tố đều học của Tàu, cố vấn Tàu sang dạy cách xử án, quy định tỷ số địa chủ phải mang ra làm thịt.

Đó là một xã hội xây dựng trên sự căm thù, được dạy dỗ, tập luyện từ nhỏ, từ ghế nhà trường:

– “Thy giáo nói hôm nay ngh hc đ ti đi đu đa ch Xen vào nhng bui đi hc bình thưng là nhng bui ngh hc đ ti đi d đu t. Hc sinh đến trưng tp trung. Mi em mt bó đuc, va đi va hô. Tôi cũng hô to không thua gì các bn“ (ĐĐNT. tr.64).

Tm bin Đa ch dng trưc sân. Tôi ht đi thì hôm sau thng bn hc cùng trưng đến dng lên. Trưc đây nó cùng đi thiếu niên, tôi liên đi trưng, nó liên đi phó (ĐĐNT. tr. 49).

Được dạy dỗ như vậy, bọn trẻ thơ ngây trở thành ác quỷ. Có lẽ cái giết sự ngây thơ, trong trắng của tuổi thơ, nó còn ghê rợn hơn cả chuyện giết người.

B đui dy, thy giáo Banh nu nưc chè xanh đi bán các làng khác, khi v đến đu làng b nhóm tr con xúm vào đp v hết bát, ném xung sông, thy ngi khóc trên cu (ĐĐNT. tr.87).

Ê con đa ch, con đa ch. My đa lao vào tôi. Bn con gái không đánh đưc thì git tóc, gõ đu, cu véo. Tan hc là tôi chy. C đám rưt đui. Đui theo v đến nhà. Đánh chết thng con đa ch này (GĐ tr.41).

NHC M

Giết người chưa đủ, đánh tan nát gia đình nạn nhân chưa đủ, chia nhau từng cái chổi cùn chưa đủ, còn phải nhục mạ người sống, người chết: ‘’n ca bác đã là vưn ca nông dân. Không đưc chôn đa ch trong vưn nông dân (GĐ. tr.23).

Có lẽ cái nhục mạ nạn nhân, cái thú man rợ khi tước đoạt luôn nhân phẩm con người chỉ có dưới chế độ Cộng Sản, đặc biệt là Cộng Sản Tàu và đàn em.

Dưới những chế độ độc tài khác, thường chỉ có cái ác.

SA SAI

Năm 1957, Đảng nhận lỗi, sửa sai. Nhưng lỗi là lỗi của những phần tử quá khích. Đảng không thể có lỗi. Tại trường học, những ông hiệu trưởng, giáo viên trước đây được khen ngợi đã thành công trong việc giúp học sinh đấu tố nhau, bị kết tội do địch gài vào để phá hoại.

Nhà nước xin lỗi, thế là xong, yên chuyện, ai về nhà nấy, như không có chuyện gì xẩy ra. Như có người vô tình chạm vào tôi ngoài đường, xin lỗi. Dạ, không có chi.

Dù sao, chuyện Đảng công khai xin lỗi cũng cho phép gia đình nạn nhân được khóc công khai những người đã bỏ mạng. Và cho phép rất nhiều tác phẩm về cải cách ruộng đất ra đời mà tác giả không đi tù hay mất mạng.

Mặc dù vậy, cái sợ hình như vẫn đâu đó.

Đại tá nhà văn Phan Kế Toại, đề tựa cho cuốn Gia Đình, đề cao việc làm của tác giả, coi trọng việc đi tìm sự thực, không quên thòng một câu, cho chắc ăn: “Mi ngưi cn chung tay c gng trân trng s đi mi, gìn gi thành qu dân ch đ đt nưc không bao gi tr li thi k u trĩ như thế na.

Thành qu dân ch! Câu kết luận politically correct không khỏi khiến người đọc mỉm cười, khi nghĩ đến thực trạng Việt Nam ngày nay về nhân quyền, về tự do báo chí, tự do tín ngưỡng…

Trong cùng một bài tựa, ông Toại kể: “Trong gia đình tôi (…), nhiu ngưi đã b quy đa ch, phú nông hoc phn đng. Ngưi b tch thu tài sn, ngưi t vn, ngưi b bt giam, b cùm chân, ngưi b x t. Dùng chữ “ấu trĩ” cho một xã hội lở lói khủng khiếp như vậy, có lẽ hơi nhẹ.

Bao nhiêu người là nạn nhân của “cách mạng?” Theo BBC, nhà nghiên cứu Mông Cổ Balazs Szalontai khai thác các tài liệu Đông Âu và Liên Xô, đưa ra con số 7,7 triệu người dân và hàng trăm gia đình “buc phi tham gia và chu h luỵ” chỉ trong đợt giảm tô. Trong đợt chính thức Cải cách Ruông đất, 4 triệu người chu tác đng. Tác giả Hoàng Minh Chính đưa ra con số nửa triệu người (5% dân số miền Bắc) bị chính quyền VNDCCH giết.

Riêng Cải cách Ruộng đất, theo Bernard Fall, 50.000 người bị xử tử, ít nhất gấp đôi bị tù cải tạo (BBC 3/2/2022) (2).

Le Livre Noir du Communisme (S Đen ca Ch Nghĩa Cng Sn) do sử gia Stéphane Courtois chủ biên, cũng đưa ra con số 50.000 người bị xử tử, từ 50.000 tới 100.000 người bị đưa đi tù cải tạo (3).

Le Livre Noir là một cuốn sách dày 662 trang, do các sử gia, ký giả, giáo sư Pháp biên soạn, tố cáo những tội ác của Cộng Sản quốc tế, với 100 triệu nạn nhân đã bỏ mạng để xây dựng “XHCN”.

ALEXIEVITCH và NGÀY TÀN CA NGƯI Đ

Đọc Phan Thuý Hà, người ta nghĩ tới việc làm nhà văn Nga Svetlana Alexievich. Sinh năm 1948, cha người Biérusse, mẹ người Ukraine, Alexievich, trong gần 40 năm, với cây bút và máy ghi âm, đi gặp và ghi lại lời kể, tâm trạng của người Nga sau tại nạn Tchernobyl, sau ngày Nga – Xô Viết sụp đổ, trong cuộc tham chiến của Nga ở Afghanistan (1).

Trong Les Cercueils de zinc (Nhng chiếc quan tài bng km1990), bà ghi lại tâm trạng của những bà mẹ, bà vợ, có chồng con chết ở Afghanistan, để thoả mãn tham vọng của Putin. Những xác chết từ mặt trận được chở về trong những chiếc quan tài bằng kẽm (zinc).

Bà viết: “Cái can đm chiến đu ca ngưi Cng Sn ch là huyn thoi. Chng có anh hùng gì c, ch có nhng ngưi lính tr bng gt, đưa đi làm mi cho đi bác, b khng b, phi tiếp tc vì s”.

Cuốn sách nổi tiếng nhất của Alexievich, “La Fin de lhomme rouge. Le temps du désenchantement (Cái chết ca ngưi đ. Thi gian v mng), được nhiều nhà phê bình coi là cuốn sách hay nhất, quan trọng nhất trong năm 2013), vạch rõ thực chất của người Cộng Sản (người đỏ), cái ảo tưởng xây dựng xã hội đại đồng, sự thực chỉ là một cuộc lừa gạt đẫm máu để nắm quyền.

Sau khi Nga Xô Viết sụp đổ trong 3 ngày, như đã lên nắm chính quyền trong 3 ngày, để viết La fin de lhomme rouge, Svetlana Alexievich đi khắp nước Nga, nghe tâm sự của những người vỡ mộng về ảo tưởng thế giới đại đồng, lạc lõng trong một thế giới mới, xa lạ.

Bà nói, “có l cái thành công duy nht ca ngưi Cng Sn là đã hu hoi nhân tính, đ to nhng ngưi Nga mi, không còn nhân phm”.

Alexievich nói, trong một cuộc phỏng vấn, dụng ý của bà là qua những nhân chứng thực để tạo những tác phẩm văn chương.

Mc đích ca tôi không phi làm điên đu ngưi đc vi nhng chuyn kinh hoàng, nhưng rút ta ý nghĩa t nhng cái kinh hoàng đó. Và giúp con ngưi tiếp tc còn là con ngưi. Làm biến dng con ngưi, đó có l là cái duy nht đã thành công ( Nga Xô Viết). (Mon objectif nest pas dassommer (les lecteurs) par toutes les horreurs que j’écris, mais den extraire du sens. Et de permettre à lhumain de rester humain.Transformer lhomme. Cest peut être la seule chose qui ait marché).

Alexievich đoạt giải Nobel Văn chương năm 2015 cho toàn bộ tác phẩm của bà.

Phan Thuý Hà không có tham vọng đó. Bà chỉ ghi lại lời kể chuyện của những nạn nhân còn sống sót.

Tác giả “Đon Đi Niên Thiếu viết trong lời tựa: “Sáu năm qua, viết sách, tôi đưc gp [ngưi] nhiu tui quê Nghnh. Các ông bà đu tui trên tám mươi, chín mươi. Hcon ca nhng ngưi yêu nưc, tham gia cách mng, b Pháp bt tù đày vào năm 1930-31, ln lên trong nhng năm kháng chiến (…). Vi nhng gì h tri qua, nếu không ghi li thì tiếc quá”.

Gia Đình, Đon đi niên thiếu là những cuốn sách nên dịch ra ngoại ngữ, để những người ngoại quốc, hay thế hệ người Việt trẻ hiểu rõ thực trạng Việt Nam, hơn là những cuốn sách của những người chưa bao giờ đặt chân tới xứ này, hay chưa hề sống trong hoả ngục.

Cũng như những tác phẩm của Alexievich nên dịch ra tiếng Việt, để thức tỉnh những người, ở thế kỷ 21, vẫn còn là những ông già ngồi đan rổ, mơ nước Nga, như trong thơ Tố Hữu.

Cũng hy vọng sẽ có nhiều cuốn sách tương tự, ghi lại chuyện thực, của những người di cư 1954, những nạn nhân tết Mậu Thân, của boat people, hay những ngày miền Nam, trước và sau 1975.

CHUYN CN LÀM

Đã có rất nhiều sách, báo về những chuyện này, nhưng vẫn chưa đủ. Cần một tài liệu đồ sộ ghi lại các nhân chứng.

Tôi nghĩ tới chuyện này, cách đây mấy chục năm, khi viếng thăm một thư viện ở Do Thái, nơi tập trung hàng trăm ngàn sách, băng nhạc, ghi âm lời kể của những nạn nhân, hay gia đình nạn nhân Shoah còn sống sót.

Ngày nay, nhiều người Việt đã thành công ở hải ngoại, dư tài chánh, có dư khả năng làm việc đó, thay vì làm những chuyện tào lao. Thí dụ tài trợ cho những nhóm trẻ đi phỏng vấn, thu thập dữ kiện ở tất cả những nơi người Việt tỵ nạn cư trú.

Đó là chuyện khẩn cấp. Bởi vì nhiều nhân chứng cao niên đang lần lượt ra đi.

Việc làm của Phan Thu Hà, hay những việc làm tương tự, sẽ là những chất liệu quý cho những người sau này muốn viết văn, viết sử hay nghiên cứu về Việt Nam cận đại.

Nếu không, thế hệ sau này sẽ không biết gì về quá khứ. Nếu muốn tìm hiểu lịch sử đất nước chỉ có sách vở của những người muốn viết lại lịch sử, hay những người ngoại quốc, nói chuyện VN dưới lăng kính chính trị hay bác học, không có chất liệu sống.

Không ghi li thì tiếc quá.

_________

Chú thích:

(1) Tên ngưi, tên tác phm, đa danh trong bài này viết theo kiu Pháp.

(2) https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-59896978

(3) Le Livre Noir du Communisme. Ed Robert Laffont, Paris 1997

Những nhân chứng sống sót của một thời thảm khốc (Kỳ 1)

Từ Thức

10-9-2023

Vào năm gim tô, ông ni b bt giam. Ông b treo lên, đu dng xung đt. Sao li dng đu ông xung đt, sau này tôi hi m. M bo, đ cho ông có nut vàng vào trong bng thì nh ra. H dng đu ông như thế t sáng đến trưa, t trưa đến ti. Cho đến lúc không tra kho gì na thì tng vào tù.

Nước Nga bế tắc và bần cùng trong chiến tranh

Kim Văn Chính

10-9-2023

1. Chuyện Bắc Triều Tiên bán vũ khí cho Nga, tưởng đùa, hóa ra là thật

Nga phải mua vũ khí của Bắc Triều Tiên là điều đã phải làm trong cả năm qua rồi, nhưng mới ở quy mô nhỏ.

“Bát phố Hải Phòng” lòi ra bọn bát nháo công an, láo nháo văn nghệ sĩ

Dương Tự Lập

8-9-2023

Nhiều năm trước, có thằng em Lê Chí Nguyện, nhà ở số 8 phố Bích Câu, Hà Nội, đưa cho tôi một mớ tập thơ “Huyền thi” mà tác giả của nó tự in trên giấy rất rẻ tiền, trắng đen, đơn giản, nhỏ bằng nửa lòng bàn tay, bảo:

Anh hùng đại hạ giá

Trần Gia Huấn

4-9-2023

Chiều 23/8/2023, chiếc máy bay dân sự chở Prigozhin bốc khói, rơi tự do theo chiều thẳng đứng, trên bầu trời trong xanh, phía tây bắc Moscow. Cả mười người trên chuyến bay thiệt mạng: tổ lái ba, lính bảo vệ 4, ba người còn lại là Prigozhin và Utkin sáng lập tập đoàn quân sự tư nhân Wagner, Chekalov phụ trách hậu cần – tài chính.

Phe nhóm chính trị một thời ở Lào Cai 

Phạm Vũ Hiệp 

30-8-2023

Thượng tầng chính trị của đảng luôn cho rằng, hoàn toàn không có sự thanh trừng nội bộ, tranh giành quyền lực hay phe nhóm trong đảng. Cái loa khổng lồ của hệ thống tuyên giáo luôn gào thét “những luận điệu phản động, xuyên tạc” đang vu khống cuộc đấu tranh chống tham nhũng gắn liền với công tác xây dựng và chỉnh đốn đảng.

Georgia, cáo trạng cho MAGA

Nhã Duy

27-8-2023

Cuối cùng rồi nước Mỹ và cả thế giới cũng đã thấy được những khuôn mặt của một thời quyền lực trong thế giới MAGA là những phạm nhân. Những tấm ảnh được chụp từ nhà tù quận hạt Fulton, thuộc tiểu bang Georgia, đã đánh dấu một cột mốc lịch sử trong cuộc chiến bảo vệ nền dân chủ và hiến pháp của nước Mỹ cùng hệ thống tư pháp Hoa Kỳ nói riêng, về một giai đoạn đầy thử thách của quốc gia kể từ ngày lập quốc.

Tạ Thiên Long, nhân tố “học tập tấm gương đạo đức” sáng ngời…

Nông Văn Tiềm 

26-8-2023

Đảng Cộng sản luôn phát động phong trào “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” nhằm nâng cao nhận thức về tư tưởng đạo đức, lối sống văn hóa, phong cách, tác phong… cho đảng viên các cấp. Về việc này, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 do TBT Nguyễn Phú Trọng ký. Tuy nhiên, từ lý thuyết đến thực tế là một sự bẽ bàng.

Lớn lên trong dối trá

Trần Gia Huấn

24-8-2023

Vladimir Medinsky họp báo về bộ sách giáo khoa lịch sử mới do ông làm chủ biên

Trước ngày xâm lược Ukraine, Putin đọc bài diễn văn 7000 từ. Putin cằn nhằn về sự sụp đổ của Liên Xô. Putin vật lộn với bóng ma lịch sử. Ukraine ra đời là sự nhầm lẫn chết người của Lenin. Bây giờ, Putin phải sửa sai. Putin sẽ tước bỏ tư cách quốc gia Ukraine. “Tiểu Nga” phải được thống nhất vào Đại Nga. Chưa đủ, Putin cho viết lại sách giáo khoa lịch sử. Vậy, có đôi dòng về bộ sách này.

Sách giáo khoa lịch sử mới cho trung học Nga được dạy ngay từ tháng 9-2023. Những lớp còn lại ở bậc phổ thông sẽ được cải cách vào năm học tới. Nội dung của bộ sách bao hàm giai đoạn từ năm 1945 cho đến nay. Điện Cẩm Linh nhằm vào tuổi 15, 16, 17 để hình thành lên cách tư duy về thế giới, về Nga, về Putin và Chiến dịch Quân sự Đặc biệt.

Văn phong rất xa lạ với lối viết sách giáo khoa. Không tôn trọng các tiêu chuẩn sư phạm. Không hàm chứa ngôn ngữ mang tính học thuật, thiên về cảm tính. Những cụm từ “Malorossiya”, “Little Russia” (Tiểu Nga) xuất hiện nhiều trong văn bản. Lưu ý “Malorossiya”, “Tiểu Nga” là những từ dùng để khinh miệt Ukraine.

Chủ biên bộ sách là Vladimir Medinsky, xuất thân làm quảng cáo, theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan, từng là bộ trưởng văn hóa, trưởng đoàn đàm phán với Ukraine vào những ngày đầu của cuộc chiến. Medinsky ca ngợi tốc độ viết kỷ lục chỉ trong 5 tháng, và đây là văn bản trình bày quan điểm quốc gia.

Giới sử gia Nga phê phán Medinsky, nhưng công chức Nga thì ca ngợi. Medinsky vâng lời, ủng hộ chủ nghĩa xét lại lịch sử. Putin chỉ định Medinsky đứng đầu ủy ban giáo dục lịch sử, và chủ biên bộ sách này.

Lịch sử thế kỷ 20 của Nga, bắt đầu là những cuộc cách mạng kinh hoàng. Chiến thắng của Liên Xô trong Thế Chiến II là sự tổn thất sinh mạng khủng kiếp, được biết tới với tên “Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại”. Putin đã khai thác mỏ vàng ký ức này, gán ghép nó vào cuộc xâm lược Ukraine, rồi phóng đại là một kỳ tích, vinh quang, vĩnh cửu bao phủ lên xã hội Nga.

Nhiều trang giáo khoa lịch sử chỉ trích Đế quốc Mỹ, gây ra cuộc chiến ở Ukraine, trích dẫn lời nói dối của Putin rằng: Nga không gây chiến với ai. Nga luôn là người kết thúc mọi cuộc chiến. Putin kêu gọi: Phải đối đầu với phương Tây; Ukraine là nhà nước của phát xít; Nga là quê hương của những anh hùng.

Trong mỗi trang giáo khoa lịch sử cho tuổi trung học, Nga hiện lên là một quốc gia vĩ đại, dũng mãnh. Tâm hồn Nga thiêng liêng. Khát vọng Nga cao thượng. Người Nga hiền lành. Nga giải phóng loài người. Nga cứu rỗi hàng triệu sinh linh. Nước Nga như Đấng Cứu Thế. Nhưng Nga luôn là nạn nhân của phương Tây. Mỹ âm mưu xóa sổ nước Nga. Mỹ là thủ phạm, là bá quyền, là đế quốc, là thực dân, là bóc lột, là sen đầm, là hèn hạ, đang suy tàn cáo chung.

Trong chương về cuộc chiến ở Ukraine, cụm từ hào nhoáng và hoa mỹ “Chiến dịch Quân sự Đặc biệt” được lặp lại nhiều lần, kèm với những trích dẫn từ các diễn văn của Putin trong hai năm qua, hằn học chống phương Tây, và theo thuyết âm mưu một cách nhiệt thành.

Sách mô tả chiến trường Ukraine: Giống như thế hệ cha anh, người lính Nga đang sát cánh chiến đấu vì sự thực, vì lòng cao thượng. Họ xả thân, đưa đồng đội bị thương ra khỏi làn đạn địch. Họ quả cảm trong những chiến xa đang cháy, chỉ huy đơn vị cho đến hơi thở cuối cùng. Hy sinh cho Đất Mẹ là căn cước của người lính Nga hôm nay, và người lính Soviet trước đây. Chiến tranh là chất keo, hàn gắn, đoàn kết xã hội Nga. Rồi, tác giả gợi lên cảnh bi hùng của hàng chục triệu công dân Soviet ngã xuống trong Chiến tranh Thế giới II.

Phần lịch sử Ukraine đã bị đục bỏ. Những tư liệu tham khảo về cội nguồn Kievan Rus, một quốc gia Slavic ở thời Trung cổ đã biến mất và thay vào đó là các cụm từ “Nước Nga cổ” (Old Russian state) hay “Rus phong kiến” (feudal Rus).

Giáo khoa lịch sử bậc trung học Nga viết: Ukraine là một quốc gia theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Ukraine tiêu diệt bất đồng chính kiến, đàn áp đối lập và chống Nga. Chủ nghĩa phát xít sống lại tại những quốc gia Baltic rồi tràn vào Ukraine. Giờ đây Ukraine là một quốc gia tân phát xít. Nếu Ukraine gia nhập NATO, thì đây là sự kết liễu của nền văn minh. Nga không cho phép điều này xảy ra.

Tác giả soạn thảo sách giao khoa lịch sử đã biện minh cho cuộc chiến Ukraine bằng lời Putin: Nga chưa từng khai mào một cuộc chiến nào. Chiến dịch Quân sự Đặc biệt là bảo vệ Donbas, bảo vệ Nga. Mỹ là thủ phạm. Mỹ quyết tâm đánh Nga đến người Ukraine cuối cùng. Kết thúc chương là câu: Người Mỹ bảo chẳng có gì là riêng tư; tất cả chỉ là công việc kinh doanh.

Phần phụ đề có tên “Sự Xuyên tạc Lịch sử” (Falsification of history) viết: Mỹ – Âu tham vọng lập trình lại bộ não của chúng ta bằng cách viết những trang giáo khoa sử ngụy tạo nhằm lừa bịp chúng ta về bản chất xâm lược và thực dân của chúng.

Sách giáo khoa lịch sử khuyên học sinh: Đừng tin vào bọn truyền thông độc lập thổ tả phương Tây. Khi bạn học thông tin gì trên mạng về Ukraine, nên nhớ công nghệ sản xuất tin giả, dàn dựng hình ảnh đang lan tràn toàn cầu. Hãy cảnh giác và tự hỏi. Tại sao họ lại tung tin này? Ai hưởng lợi? Đừng trở thành nạn nhân của những trò thao túng rẻ tiền.

Sách giáo khoa lịch sử giải thích: Những công ty nước ngoài phản đối chiến tranh rút khỏi Nga. Đó là cơ hội tốt cho công ty Nga, cho sinh viên Nga, cho người Nga có thêm công ăn việc làm.

Một giáo viên lịch sử người Nga giấu tên nói: Những đoạn văn như thế này không phải là lịch sử. Lịch sử là quá khứ. Lịch sử giúp ta hiểu căn nguyên của hiện tại, nhưng không mô tả hiện tại; bởi vì, hiện tại chưa kết thúc.

Sau mỗi chương, học sinh phải trả lời những câu hỏi: Tại sao người Nga ủng hộ Chiến dịch Quân sự Đặc biệt? Tại sao Nga phải mở chiến dịch này?

Giai đoạn lịch sử từ 1970 tới 2010 đã được viết lại hoàn toàn, lời lẽ rất chua cay cho tổng bí thư cuối cùng của Liên Xô Mikhail Gorbachev.

Từ 2013, Putin đã đay nghiến bộ sách giáo khoa lịch sử phổ thông Nga là chứa đầy những mâu thuẫn, diễn giải hàm hồ. Putin lệnh phải viết lại, loại bỏ mọi mầm mống đa nguyên trong học thuật. Putin kiên quyết đục bỏ những bóng ma quá khứ theo đúng nghĩa đen, và ghi tên Putin vào từng trang sử như một con người vĩ đại, phi thường, chinh phục, và chiến thắng.

Sử học trở thành nơi tuyên truyền cho quan điểm của Putin: Mỹ đánh Nga cho đến người Ukraine cuối cùng. Mỹ đang thu những món lợi khổng lồ trong cuộc chiến Ukraine.

Lịch sử là một công cụ. Bạn có thể dùng nó vào công việc khác nhau. Trong tay bạn có một chiếc búa. Bạn dùng búa đóng đinh hay để đập đầu người khác. Putin đã sử dụng công cụ lịch sử để tập hợp dân chúng phục vụ cho đường lối ngoại giao hiếu chiến và bành trướng.

Nỗ lực này còn vượt ra ngoài sách giáo khoa như: Lễ hội lịch sử, phim lịch sử, truyền hình lịch sử, kịch nghệ và âm nhạc lịch sử, tranh tượng lịch sử, câu lạc bộ tái tạo lịch sử, tham quan lịch sử. Đã 23 năm cầm quyền, sẽ còn bao năm nữa, Putin nhấn chìm xã hội Nga vào phong trào chống Mỹ, chống phương Tây, và chống Ukraine.

Những lời kêu gọi phải thống nhất nước Nga bằng mọi giá, và “Tiểu Nga” là phần không thể tách rời Đại Nga đang gia tăng đến mức nguy hiểm. Nhiều đoạn trong giáo khoa lịch sử cổ vũ chiến tranh, hận thù và chiếm đóng.

Đừng coi nhẹ bộ sách giáo khoa này chỉ là chén thuốc độc mà Putin cho trẻ em Nga uống. Đừng coi nhẹ những đoạn phim lịch sử chỉ là lời tuyên truyền. Đừng coi nhẹ những bài hát ca ngợi chiến tranh chỉ là tiếng van xin của kẻ ăn mày dĩ vãng. Đừng coi nhẹ những màn duyệt binh, nện gót giầy trên Quảng trường Đỏ, mặt vênh về hướng Putin chỉ là màn khoa trương. Đừng coi nhẹ những huân huy chương lấp lánh phủ đầy ngực áo chỉ là sự khát khao về thời vàng son đã mất.

Nữ khôi nguyên Nobel văn chương 2015, người Belarus, sinh ra lớn lên ở Ukraine thời Soviet, mẹ là người Ukraine, viết văn bằng tiếng Nga, Svetlana Alexievich kể: Một người lính Ukraine yêu cầu một tù binh Nga: Chỉ cần anh phone về cho mẹ nói rõ sự thực về Ukraine. Anh sẽ được tự do. Người tù binh Nga phone cho mẹ, và nói, “Không có một thằng phát xít nào trên đất Ukraine”. Người mẹ Nga gào khóc, “Con đang nói cái gì? Con điên rồi! Ukraine là bọn tân phát xít rất độc ác. Kẻ nào đã nhét vào đầu con những điều dối trá”.

Nữ văn sỹ trên tâm sư: Chúng ta đã đánh giá quá thấp giáo khoa lịch sử, hay câu chuyện truyền hình. Mà phải coi đây là ý thức hệ Nga, tham vọng Nga. Sự thay đổi khủng kiếp của Putin về Ukraine, về Mỹ, về phương Tây, và phần còn lại của thế giới là rất mãnh liệt và nguy hiểm. Cuộc chiến đẫm máu, tàn nhẫn, vô vọng, kinh hoàng còn đang ở phía trước.

Vị giáo viên Nga nói ở trên, thở than: Bộ sách giáo khoa này là hoàn toàn hư cấu (total fiction). Bà thương cho thế hệ trẻ em Nga lớn lên trong dối trá.

Chỉ một năm, những đứa trẻ 17 tuổi không có gì là không đẹp; không có giấc mơ nào là không thơ mộng, sẽ nhập vào đoàn quân chống “tân phát xít” cho Putin – người đã tẩm độc dược vào từng trang sách học trò.

Phe nhóm nào ra tay tàn độc với Phó Thủ tướng Lê Văn Thành? 

Phạm Vũ Hiệp

22-8-2023

Thường khi bị bệnh, các lãnh đạo Đảng và Nhà nước tìm đường sang xứ “tư bản giãy chết” để chữa, còn “thiên đường” với các bệnh viện công mà họ xây dựng chỉ để dành cho dân. Nhiều quan chức bệnh nặng, hiếm khi chữa trị trong nước mà tìm đường sang xứ “giãy chết”.

Chuyện Bí thư tỉnh uỷ Bến Tre có ngàn tỷ ở nhà bank

Thu Hà 

19-8-2023

Uỷ viên Trung ương sở hữu ngàn tỷ đồng? 

Lão võ sư thách đấu với trung tá công an đánh dân ở Bình Phước

Võ sư Bắc Hà

16-8-2023

Chào trung tá Lê Huy Cao, sĩ quan công an “nhân dân” vừa đánh dân bầm dập ở Bình Phước.

Nằm vạ

HĐBA Liên Hiệp quốc

Tác giả: Timothy Snyder

Trần Gia Huấn, chuyển ngữ

4-8-2023

Lời giới thiệu: Đây là bài phát biểu của ông Timothy Snyder ngày 14-3-2023, tại một phiên họp do Nga triệu tập ở Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc, để thảo luận về “Russophobia“. Timothy Snyder là nhà sử học uyên bác người Mỹ tại Đại học Yale. Ông có nhiều tác phẩm lịch sử quan trọng.

Ông Nguyễn Sơn Lộ, cựu Viện trưởng Viện Nghiên cứu Công nghệ và Phát triển, lãnh án 5 năm tù

BTV Tiếng Dân

26-7-2023

Ông Nguyễn Sơn Lộ, cựu Viện trưởng Viện SENA. Nguồn: Báo Thanh Niên

Băn khoăn miền Tây

Mạc Văn Trang

22-7-2023

Tôi chưa có điều kiện đi “du khảo” miền Tây Nam Bộ để tìm hiểu về những vấn đề thực tế xã hội ra sao. Lâu nay chỉ đi lướt qua vài nơi và đọc báo, thông tin trên mạng cũng thấy trăn trở nhiều vấn đề về kinh tế, xã hội ở miền Tây Nam Bộ.

Trần Mộng Tú: Phụ nữ và chiến tranh

Ngô Thế Vinh

10-7-2023

Anh tặng em mùi máu

Trên áo trận sa trường

Máu anh và máu địch

Xin em cùng xót thương

Trần Mộng Tú – Quà Tặng Trong Chiến Tranh, 1969

Hình 1: Thẻ “nhà báo” của Trần Mộng Tú khi làm cho hãng thông tấn AP (Associated Press Sài Gòn; thẻ này do MACV (US Military Assistance Command, Vietnam) cấp, chỉ có giá trị mỗi 3 tháng. Tư liệu Trần Mộng Tú

PHỤ NỮ GIỮA CHIẾN TRANH VIỆT NAM: THỜI ĐIỂM 1969

Tầm nhìn Chiến tranh, Giấc mơ Hòa bình [Visions of War, Dreams of Peace] [1] là nhan đề một tuyển tập thơ của các nhà thơ nữ; nếu là Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, họ đã là những nữ quân nhân như y tá, bác sĩ đã từng chăm sóc các thương bệnh binh; nếu ở những ngành nghề khác, họ đảm trách các dịch vụ không tác chiến như chuyên viên truyền tin, tiếp vận, kiểm soát không lưu, nhân viên Hồng Thập Tự… Nếu là người Việt, họ là những phụ nữ thuộc hai miền Nam hay Bắc, với những trải nghiệm khác nhau, qua những năm tháng chiến tranh. Và như từ bao giờ, cho dù ở đâu, phụ nữ và trẻ em vẫn là thành phần dễ bị tổn thương nhất trong chiến tranh.

Trong tập thơ này, có 34 nhà thơ nữ Hoa Kỳ, và sáu nhà thơ nữ Việt Nam: Xuân Quỳnh (My Son’s Childhood), Hương Tràm (The Vietnamese Mother), Hà Phương (To An Phu, From This Distance I Talk To You), Trần Mộng Tú (The Gift In Wartime, Dream of Peace), Minh Đức Hoài Trinh (Poem Without Name), Nguyễn Ngọc Xuân (My Letter to the Wall).

Hình 2: trái, hình bìa cuốn sách Tầm nhìn Chiến tranh, Giấc mơ Hòa bình [Visions of War, Dreams of Peace] [1] Nxb Warner Books 1991, phải, hình bìa cuốn Miểng Đạn Trong Tim [Shrapnel in The Heart] [2] của Laura Palmer”, Nxb Vintage Books 1987. Tư liệu Ngô Thế Vinh

Lời giới thiệu “Tầm nhìn Chiến tranh, Giấc mơ Hòa bình”: Với những nữ quân nhân Mỹ, họ là những anh hùng không được nhắc tới trong Chiến tranh Việt Nam. Con số hơn 250 ngàn người đã tự nguyện cống hiến. Nếu là y tá, họ chăm sóc thương binh và những người đang hấp hối. Họ là những người chị, những cô gái, những bà mẹ, những người vợ hay mới chỉ là người yêu. Không ai bắt họ phải nhập ngũ. Nhưng họ tự nguyện cống hiến, chấp nhận rủi ro của chiến tranh để chăm sóc những chiến binh. Chưa hết, cho dù thời gian đã qua đi, nhiều người trong số ấy nay chỉ mới bắt đầu hàn gắn những vết thương tâm can của họ. Các bài thơ đã được viết trong và sau chiến tranh, vẽ nên chân dung của những người phụ nữ bình thường khi phải đối đầu với thảm họa; với can trường và lo âu, của hy sinh và mất mát, của lòng trắc ẩn và tiếc nuối. Họ nói về sự sống còn, với hồi tưởng về những vết thương lòng / wounded hearts. Đây là những bài thơ với cảm xúc sâu xa mà bạn khó thể nào quên. Bạn sẽ luôn nhớ mãi những người phụ nữ ấy. [hết trích dẫn] [1]

Từ trong Tuyển tập này, người viết [Ngô Thế Vinh] chọn ra ba bài thơ tiêu biểu, của ba phụ nữ: vùng miền tuy khác nhau nhưng họ có một mẫu số chung, là cùng nói về nỗi đau trong chiến tranh, thời điểm năm 1969, trên ba địa danh của Việt Nam:

(1) Dusty, theo phần tiểu sử là một cô y tá Mỹ chăm sóc một thương binh trẻ mới chết đêm qua nơi vùng Tam Biên (Tri-Border Area) trên Tây nguyên.

(2) Xuân Quỳnh, một văn công trong đoàn múa, một nhà thơ và đứa con nhỏ sống dưới đường hầm trong vùng “tuyến đầu” Vĩnh Linh phía bắc tỉnh Quảng Trị.

(3) Trần Mộng Tú, nhân viên hãng thông tấn AP, sống giữa Sài Gòn trong không khí chiến tranh, mới sau đám cưới, bỗng chốc trở thành góa phụ ở tuổi mới ngoài 20.

1969 DUSTY CÔ Y TÁ MỸ

GIỮA CUỘC CHIẾN TRÊN CAO NGUYÊN

Bài thơ có nhan đề: “Hello, David”, được ghi là của một cô y tá Mỹ, có tên Dusty phục vụ trong khu cấp cứu nơi một bệnh xá dã chiến vùng Tam Biên (Tri-Border Area) trên Cao nguyên Trung phần Việt Nam. Bài thơ ấy – trong nhiều năm, được đánh giá là hay và cảm động: với nhân vật xưng “tôi”, là một cô y tá – viết cho một chiến binh trẻ tên David bị thương nặng được cô chăm sóc và mới chết đêm qua.

HELLO, DAVID

CHÀO DAVID

Chào David – tên em là Dusty

Hello , David – My name is Dusty

Em là y tá của anh đêm qua

I’m your night nurse…

Em sẽ bên anh

I will stay with you

Em đo sinh hiệu của anh

 mỗi 15 phút

I will check your vitals

every 15 minutes

Em sẽ phải ghi xuống

I will document inevitability

Em sẽ treo thêm bịch máu nữa

I will hang more blood

Và cho anh thuốc giảm đau

and give you something for your pain

Em sẽ bên anh

và vuốt mặt anh

I will stay with you

and I will touch your face

Vâng, chắc chắn rồi,

Yes, of course

Em sẽ viết thư cho mẹ anh

và nói với bà rằng anh can đảm

I will write your mother

and tell her you were brave

Em sẽ viết thư cho mẹ anh

và nói anh thương mẹ biết dường nào

I will write your mother

and tell her how much you love her

Em sẽ viết thư cho mẹ anh

và sẽ nói với bà hãy ôm hôn

đứa em gái tuổi thơ ngỗ nghịch của anh

I will write your mother

and tell her to give your bratty kid sister

a big kiss and hug

Điều gì em sẽ không nói với bà

What I will not tell her

rằng anh đã hôn mê

is that you were wasted

Em sẽ bên anh

và nắm lấy tay anh

I will stay with you

and I will hold your hand

Em sẽ bên anh

và thấy sự sống của anh

thoát khỏi những ngón tay em,

đi vào hồn em

I will stay with you

and watch your life

flow through my fingers

into my soul

Em sẽ bên anh

cho tới khi anh còn bên em

I will stay with you

until you stay with me

Vĩnh biệt, David – tên em là Dusty

Goodbye, David – my name is Dusty

Em là người cuối cùng

anh thấy

I am the last person

you will see

Em là người cuối cùng

anh nắm tay

I am the last person

you will touch

Em là người cuối cùng yêu anh

I am the last person who will love you.

Vĩnh biệt, David – em tên là Dusty,

So long, David – My name is Dusty,

David, ai sẽ cho em thuốc giảm nỗi đau em?

David, who will give me something for my pain?

Dusty, y tá Việt Nam, 1969

(Dusty, Vietnam nurse,1969)

[bản dịch tiếng Việt của Ngô Thế Vinh]

Dusty, sau này còn được biết với một bút danh khác là Dana Shuster, cô rất nổi tiếng, được vinh danh như một nhà thơ nữ viết về chiến tranh, bài thơ “Hello, David” không những hay và cảm động, đã được trích dẫn nơi bìa sách. Với hai bút hiệu khác nhau, chính cô là tác giả của 13 bài thơ hay trong tuyển tập Visions of War, Dreams of Peace, (với tên Dusty: 3 bài, Dana Shuster: 10 bài).[1]

Ký giả Laura Palmer, từng sống và làm việc tại Sài Gòn, Paris, Washington, D.C., từ những năm đầu thập niên 1980s, Palmer để tâm theo dõi các cá nhân đã để lại những kỷ vật nơi Bức Tường Thương Tiếc (Vietnam Veterans Memorial ở Washington, D.C.) Cuốn sách của Palmer có tên là “Miểng đạn trong Tim” (Shrapnel in the Heart) [2] được Vintage Books xuất bản năm 1987, trong đó cô đã ghi lại những cuộc phỏng vấn.

[Có một chi tiết riêng tư rất thú vị của TMT. Khi Laura Palmer sang Việt Nam làm cho AP đã từng là bạn thân của Trần Mộng Tú – sau khi Cung mất. Sang Mỹ, TMT và Laura vẫn liên lạc với nhau. Nhưng rồi bẵng đi một thời gian dài hơn 30 năm, họ mất liên lạc. Và mới đây hai người tìm lại được nhau. TMT đã ngạc nhiên vô cùng khi biết cô ký giả Laura Palmer nay trở thành Mục sư, và hiện đang sống ở Philadelphia].

Có một nhân vật trong sách mà ban đầu, Laura Palmer chỉ biết tên là Dusty, tác giả bài thơ “Hello, David”. Vào dịp ra mắt sách cuốn Shrapnel in the Heart 1987, chính Laura Palmer đã đọc bài thơ “Hello, David” của Dusty trong một chương trình buổi sáng trên đài phát thanh quốc gia [NPR / National Public Radio]; bài thơ gây xúc động cho nhiều cựu chiến binh và gia đình họ. Bài thơ này cũng được chính Phó Tổng thống Mỹ Al Gore đọc sáu năm sau (1993) trong buổi lễ khánh thành Vietnam Women’s Memorial [Tượng đài Tưởng niệm các Phụ nữ đã phục vụ trong chiến tranh Việt Nam].

Hình 3: Hình chụp một phần của tượng đài Vietnam Women’s Memorial tại Washington, D.C. của điêu khắc gia Glenna Goodacre (1939 – 2020) được Phó Tổng thống Al Gore cắt băng khánh thành nhân ngày Cựu Chiến Binh 11/11/1993. Nguồn: Montana Public Radio, © Public Domain

Trong gần 20 năm, ký giả Laura Palmer chỉ được biết Dusty là tác giả bài thơ nổi tiếng “Hello, David”, và được nghe các câu chuyện về hai nhiệm kỳ Dusty phục vụ ở Việt Nam khoảng giữa 1966 – 1968, như trong Tết Mậu Thân 1968, Dusty kể rằng cô đã phải đứng trong phòng mổ suốt 72 giờ khiến hai bàn chân sưng phù tới mức không thể cởi giày ra được trong hai ngày!

Nhưng rồi, vào những năm sau này, cũng chính ký giả Laura Palmer khi tiếp xúc với các nhóm cựu chiến binh khác, họ cho biết là chưa từng được gặp hay làm việc với Dusty trong thời gian chiến tranh Việt Nam. Laura Palmer bị áp lực phải trở lại tìm gặp Dusty và yêu cầu cô ta, nếu có thể cung cấp các chứng từ hay hình ảnh về thời gian cô phục vụ ở Việt Nam. Câu trả lời của Dusty là không thể. [4]

Phát hiện của ký giả Laura Palmer về phần tiểu sử không thật của Dusty đã làm nhiều cựu chiến binh và gia đình họ ngỡ ngàng và cả thất vọng. Họ cảm thấy như bị phản bội khi biết rằng Dusty chưa hề là một nữ y tá trong quân đội Mỹ, và chưa hề có mặt ở Việt Nam chăm sóc thương binh trong chiến tranh. Laura Palmer đã báo ngay cho Vietnam Women’s Memorial Foundation, và lúc đó Debbie Elliot đang phụ trách tổ chức này, đã ra một thông báo:

Và bây giờ cần thêm một “ghi chú cuối trang” (footnote) trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam. Các bạn có thể đã đọc những bài thơ của một phụ nữ tên Dana Shuster nói về kinh nghiệm của cô như một y tá chiến trận / combat nurse ở Việt Nam. Cô ta còn được biết tới với một bút danh khác là Dusty, về một bài thơ nổi tiếng viết về một cô y tá chăm sóc một thương binh đang hấp hối. Nhưng gần đây người ta mới phát hiện ra rằng Dana Shuster chưa từng trong quân ngũ và cũng chưa bao giờ là một y tá”. [4]

Một thân nhân của cựu chiến binh, Karen S. Zacharisa đã phát biểu: “Một người nào đó nói rằng, mình có mặt ở đó cầm tay một người đang hấp hối tên là David là điều không thể tưởng tượng được. Zacharisa nói rằng cô rất đau buồn nhưng bây giờ thì cứ chờ xem điều gì là động lực để Shuster làm như vậy, nhưng cô cũng xác nhận rằng ngay cả bây giờ đọc bài thơ ấy vẫn thực sự gây xúc động. Ký giả Laura Palmer cho biết có nhiều cựu chiến binh cũng nghĩ như vậy”. [4]

Dẫu sao, Dana “Dusty” Shuster cũng đã tạo được mối quan tâm tới những y tá quân đội, và thi ca của Dusty đã giúp mọi người nhận biết được sự hy sinh và cống hiến của những phụ nữ ấy trong chiến tranh Việt Nam. [1]

Ý kiến người viết [Ngô Thế Vinh]: Trong sáng tạo văn học, không nhất thiết bản thân tác giả phải là người thật việc thật giống như nhân vật trong tác phẩm. Với tài năng và sức mạnh của trí tưởng tượng sáng tạo, nhà thơ nhà văn vẫn có thể sáng tác ra những bài thơ, áng văn giá trị, “thật hơn cả sự thật” làm xúc động sâu xa lòng người. “Hello, David” vẫn là một bài thơ hay và cảm động, nhưng điều mà Dana “Dusty” Shuster đã làm thất vọng nhiều ngưởi – trong đó có các cựu chiến binh và gia đình của họ, không phải vì cô đạo văn đạo thơ của ai, nhưng chính là phần cô đã man khai về lý lịch của mình, khi họ biết cô ấy chưa hề là một y tá, và chưa hề có mặt ở Việt Nam trong thời gian chiến tranh. Nếu Dana “Dusty” Shuster hiểu được rằng, vẫn có thể có “những sự thật trong hư cấu văn học”, thì cô đâu cần phải vẽ ra một lý lịch khác như vậy. Chính điều đó đã làm mất đi sự tin cậy của độc giả nơi cô!

1969 XUÂN QUỲNH VÀ CON SƠ SINH NƠI TUYẾN ĐẦU VĨNH LINH, QUẢNG TRỊ

Xuân Quỳnh, sinh năm 1942 tại Hà Đông (cùng nơi sinh với Trần Mộng Tú). Xuân Quỳnh từ năm 13 tuổi đã được tuyển vào Đoàn ca múa nhạc Trung ương. Từ một cô văn công, Xuân Quỳnh đến với thi ca. Năm 20 tuổi (1962), Xuân Quỳnh được cử đi học lớp sáng tác cho các nhà văn trẻ. Từ 1964, giã từ Đoàn ca múa, bắt đầu làm biên tập viên cho tuần báo Văn Nghệ, Xuân Quỳnh nổi tiếng ngay với tập thơ đầu tay có tên “Tơ tằm – Chồi biếc”. Năm 1968, là tập thơ thứ hai “Hoa dọc chiến hào” phản ánh cảm xúc của nhà thơ trước cảnh bom đạn của đất nước.

Xuân Quỳnh có những tác phẩm thơ và truyện viết về trẻ thơ như: Lời ru trên mặt đất (1978), Bầu trời trong quả trứng (1982), và tập truyện Mùa xuân trên cánh đồng (1981), Bến tàu trong thành phố (1984).

Bài “Tuổi Thơ của con” được ghi là sáng tác năm 1969 trong thời gian Xuân Quỳnh đi thực tế ở vùng tuyến đầu Vĩnh Linh, phía bắc tỉnh Quảng Trị. (Bài thơ này sau đó được in trong cuốn Bầu trời trong quả trứng. Nxb Kim Đồng, 1982). Vĩnh Linh sát với vùng phi quân sự DMZ phía bắc vĩ tuyến 17. Vào thời điểm 1969, Vĩnh Linh từng được báo chí Mỹ mệnh danh là “Vùng Trắng – White Zone”, hay còn được gọi là “vùng oanh kích tự do”.

TUỔI THƠ CỦA CON

MY SON’S CHILDHOOD

Tuổi thơ con có những gì

What do you have for your childhood

Có con cười với mắt tre trong hầm

That you still smile in the bomb shelter

Có làn gió sớm vào thăm

There is the morning wind which comes to visit you

Có ông trăng rằm sơ tán cùng con

There is the full moon which follows you

Sông dài, biển rộng, ao tròn

The long river, the immense sea, a round pond

Khói bom đạn giặc, sao hôm cuối trời

The enemies’ bomb smoke, the evening star

Ba tháng lẫy, bẩy tháng ngồi

At three months you turn your head, at seven you crawl

Con chơi với đất con chơi với hầm

You toy with the earth, you play with a bomb shelter

Mong ngày, mong tháng, mong năm

I long for peace everyday, every month for a year

Một năm con vịn vách hầm con đi

For a year, you toddle around the shelter

Trời xanh các ngả ngoài kia

The sky is blue, but way over there

Cỏ xanh quanh những hàng bia trên mồ

The grass is green far away on the ancient tombs

Quả tim như cái đồng hồ

My heart is a pendulum

Nằm trong lồng ngực giục giờ hành quân

Pounding my chest, keeping time for the march

Dế con cũng biết đào hầm

The small cricket knows to dig a shelter

Con cua chả ngủ, canh phòng đạn bom

The crab doesn’t sleep: it, too, fears the bombs

Trong trăng chú cuội tắt đèn

In the moonlight, even the hare hides

Để cho mắt giặc mây đen kéo về

The black clouds hinder the enemy’s sight

Cái hoa cái lá biết đi

Flowers and trees join the march

Theo người qua suối, qua khe, qua làng

Concealing troops crossing streams, valleys, villages

Chiến hào mặt đất dọc ngang

My son, trenches crisscross everywhere

Sẽ dài như những con đường con qua

They’re as long as the roads you’ll someday take

Hầm sâu giờ quý hơn nhà

Our deep shelter is more precious than a house

Súng là tình nghĩa đạn là lương tâm

The gun is close by, the bullets ready

Mẹ nuôi ngọn lửa trong hầm

If I must shoot.

Để khi khôn lớn con cầm lên tay

When you grow up, you’ll hold life in your own hands

Những điều mẹ nghĩ hôm nay

Whatever I think at present

Ghi cho con nhớ những ngày còn thơ

I note down to remind you of your childhood days

Ngày mai tròn vẹn ước mơ

In the future, when our dreams come true,

Yêu thương thêm chuyện ngày xưa nước mình

You’ll love our history all the more.


Xuân Quỳnh
– Vĩnh Linh, 24-11-1969

(bản dịch tiếng Anh của Phan Thanh Hao và Lady Borton)

Xuân Quỳnh được sinh ra và lớn lên trong nền giáo dục “thép đã tôi thế đấy” ở Miền Bắc, với lằn ranh “ta và địch” phải rất rạch ròi. Và trong nền “văn hóa chiến tranh” đó, với bài quốc ca “thề phanh thây uống máu quân thù”, đứa con thơ cũng đã được mẹ dạy “súng là tình nghĩa, đạn là lương tâm”, (bản dịch tiếng Anh với câu: “The gun is close by, the bullets ready”, đã không lột tả được ý nghĩa đích thực tính “chiến đấu máu lửa” của câu thơ này).

Xuân Quỳnh không chết trong chiến tranh, nhưng cùng chồng là nhà viết kịch nổi tiếng Lưu Quang Vũ và con trai đã chết trong một tai nạn giao thông nhiều nghi vấn ở Hải Dương năm 1988. Năm 2016, 28 năm sau Xuân Quỳnh được truy tặng giải thưởng văn học danh giá nhất của Hà Nội: giải thưởng Hồ Chí Minh. Lưu Quang Vũ cũng đã được truy tặng giải này từ năm 2000.

1969 TRẦN MỘNG TÚ NHẬN TIN CHỒNG TỬ TRẬN GIỮA MỘT SÀI GÒN TRONG KHÍ HẬU CHIẾN TRANH

Trần Mộng Tú sinh năm 1943 tại Hà Đông, kém Xuân Quỳnh một tuổi. TMT đã có một thời con gái hoa mộng với tình yêu đầu đời như mọi thiếu nữ khác. Sau Lễ Phục Sinh một tuần, ngày 12/4/1969, là một đám cưới, Cung tử trận ngày 30/7/1969 – chỉ ba tháng sau – là đám tang chồng. TMT trở thành góa phụ ở tuổi mới ngoài 20. Bài thơ Quà Tặng Trong Chiến Tranh được TMT sáng tác trong nước vào thời điểm rất đau thương này, từ những xúc động trước cái chết của người yêu đầu đời và là chồng mới cưới của cô.

Hình 4: Trần Mộng Tú và Thái Hoàng Cung trong ngày đám cưới (ngày 12 tháng 4 năm 1969). Kiên Giang – Rạch Giá là địa danh định mệnh, nơi chuẩn úy – nhà giáo Thái Hoàng Cung, chồng mới cưới của Trần Mộng Tú tử trận ba tháng sau trong một cuộc hành quân (tháng 7 năm 1969), thời điểm TMT làm bài thơ này. Tư liệu TMT

Năm 1990, lần đầu tiên hai bài thơ viết về chiến tranh của Trần Mộng Tú (The Gift in Wartime / Quà Tặng trong Chiến Tranh và Dream of Peace / Giấc Mơ Hòa Bình) được chọn đăng trong tuyển tập thơ: “Visions of War, Dreams of Peace” [1] (Tầm nhìn Chiến tranh, Giấc mơ Hòa bình). Đó là cũng là lần đầu tiên thơ Trần Mộng Tú xuất hiện trên văn đàn thế giới. Quà Tặng trong Chiến Tranh là bài thơ được chọn cho bài viết này.

QUÀ TẶNG TRONG CHIẾN TRANH

THE GIFT IN WARTIME

Em tặng anh hoa hồng

I offer you roses

Chôn trong lòng huyệt mới

Buried in your new grave

Em tặng anh áo cưới

I offer you my wedding gown

Phủ trên nấm mồ xanh

To cover your tomb still green with grass

Anh tặng em bội tinh

You give me medals

Kèm với ngôi sao bạc

Together with silver stars

Chiếc hoa mai màu vàng

And the yellow pips on your badge

Chưa đeo còn sáng bóng

Unused and still shining

Em tặng anh tuổi ngọc

I offer you my youth

Của những ngày yêu nhau

The days we still in love

Đã chết ngay từ lúc

My youth died away

Em nhận được tin sầu

When they told me the bad news

Anh tặng em mùi máu

You give me the smell of blood

Trên áo trận sa trường

From your war dress

Máu anh và máu địch

Your blood and your enemy’s

Xin em cùng xót thương

So that I may be moved

Em tặng anh mây vương

I offer you clouds

Mắt em ngày tháng hạ

That linger on my eyes on summer days

Em tặng anh đông giá

I offer you cold winters

Giữa tuổi xuân cuộc đời

Amid my springtime of life

Anh tặng môi không cười

You give me your lips with no smile

Anh tặng tay không nắm

You give me your ams without tenderness

Anh tặng mắt không nhìn

You give me your eyes with no sight

Một hình hài bất động

And your motionless body
 Anh muôn vàn tạ lỗi

Seriously, I apologize to you

 Xin hẹn em kiếp sau

 I promise to meet you in our next life

 Mảnh đạn này em giữ

 I will hold this shrapnel as a token

Làm di vật tìm nhau.

By which we will recognize each other.

Sài Gòn Tháng 7/ 1969

Trần Mộng Tú

Bản dịch tiếng Anh của Vann Phan

Bài thơ tiếng Việt của TMT nguyên là một cuộc đối thoại giữa hai người, “thi sĩ và tử sĩ”, nhưng qua bản dịch cùa Vann Phan, có chỗ đã biến thành một độc thoại – với ngôi thứ nhất!

Điều khá ngạc nhiên là trong bài thơ “Quà Tặng Trong Chiến Tranh”, người ta không nghe thấy tiếng khóc gào thét của nỗi đau mất mát từ người góa phụ trẻ Trần Mộng Tú, khi người yêu đầu đời, người chồng mới cưới của cô bị tử trận. Khi ấy và cả những năm về sau này, người ta cũng không thể tìm thấy lửa hận thù “ta và địch” trong thơ TMT, mà chỉ có nỗi thổn thức xót thương chung cho tang tóc của cả đôi bên trong chiến tranh:

Anh tặng em mùi máu

Trên áo trận sa trường

Máu anh và máu địch

Xin em cùng xót thương

Phạm Xuân Đài trong bài điểm sách Thơ tuyển 1969-2009 của TMT, trên Diễn Đàn Thế Kỷ (12/8/2010) đã viết: “Bản lãnh của TMT là nuốt đắng cay vào trong để kết tinh thành những giọt nước mắt như ngọc rơi xuống trang thơ.”

Không, TMT có khóc chứ, chỉ có điều cô không khóc ngay khi đi đón và chạm tay vào cỗ quan tài đã bốc mùi, nhưng là những năm về sau này, của những đêm dài không ngủ với những giọt nước mắt rỉ rả và rất âm thầm:

Tôi trôi mãi rồi cũng phải giạt vào một chỗ. Bảy năm sau [1976] tôi lấy chồng, sanh con, tôi sống bình thường như tất cả mọi người đàn bà khác trên một đất nước không có chiến tranh. Tôi cũng vui, cũng buồn với những thăng trầm của đời sống. Ở đời sống hàng ngày, tôi quên dần cái bất hạnh của tôi mấy mươi năm về trước. Nhưng tôi nhớ rất rõ ràng là cái bất hạnh đó nó có hiện diện trong kiếp người của mình. Thỉnh thoảng Cung vẫn về trong giấc mơ, dù suốt ngày hôm trước tôi không hề nghĩ đến. Cung về như còn sống hay về như đã chết thì khi tỉnh dậy, nước mắt tôi vẫn lặng lẽ trào ra trên gối. Tôi cố gắng không làm dao động người nằm bên cạnh đang ngon giấc. Buổi sáng, thức dậy, tôi thay áo gối, rồi lại thản nhiên bước vào đời sống trước mặt: Giặt giũ cho chồng, cơm bánh cho con. [5]

Rồi cũng có một trận khóc rất thảm thiết – nhưng phải mãi tới 23 năm sau, khi TMT lần đầu tiên về Việt Nam, tới thăm Nhà thờ Tân Định, nơi còn giữ hũ tro cốt của người chồng năm nào:

Tôi đi len lỏi giữa những dãy kệ, đọc từng cái tên, đi đến vần “T” là họ của Cung. Tôi nhìn thấy một cái hộc nhỏ, không có hình chỉ có ghi họ, tên, ngày sinh, ngày mất. Tôi đứng lặng người, run rẩy chạm những ngón tay mình lên mặt chữ. Cái cảm giác chạm tay vào đầu áo quan của năm 1969 bỗng hiện ra dưới những ngón tay tôi. Một tiếng nấc đưa lên thanh quản, vỡ òa ra, tôi khóc như chưa bao giờ được khóc. Nước mắt của bao nhiêu năm tụ lại một ngày, nước mắt của những ngày đi đón xác ở Kiên Giang khô lại bây giờ nứt ra như một mạch ngầm của suối bật lên trên mặt đất nứt nẻ. Tôi khuỵu chân ngồi xuống giữa lối đi của hai hàng kệ, khóc như chưa bao giờ được khóc. Chung quanh tôi vắng lặng. Tôi trầm mình vào nước mắt, vào bất hạnh, vào nỗi cô độc của mình. Cái hộc nhỏ đựng tro than bên trên đầu tôi vẫn thản nhiên, im lìm nhìn như trước khi tôi đến. [5]

Với ba bài thơ trích dẫn, từ ba chiến tuyến, đã như một Dẫn Nhập khá dài cho một bài viết về nhà thơ Trần Mộng Tú.

***

TRẦN MỘNG TÚ

Sinh quán Hà Đông, Bắc Việt. Lớn lên ở Hà Nội, rồi Hải Phòng, năm 1954 di cư vào Nam. Từ 1968 tới 1975 làm nhân viên hãng thông tấn The Associated Press Sài Gòn. Di tản sang Mỹ tháng Tư năm 1975. Ở hải ngoại, Trần Mộng Tú cộng tác với các tạp chí văn học và trang mạng ở Mỹ và các nước khác. Trần Mộng Tú hiện sống với gia đình ở một vùng ngoại ô yên tĩnh bên ngoài Seattle, tiểu bang Washington, Tây Bắc Hoa Kỳ. Bước qua tuổi “cổ lai hy”, TMT vẫn làm thơ, viết văn, và mỗi cuối tuần cùng chồng tới nhà thờ làm công tác thiện nguyện.

TMT VỚI MỘT TIỂU SỬ THƠ

Người Đàn Bà Thi Sĩ Việt Nam:

Tôi người đàn bà thi sĩ Việt Nam

Bỏ lại trên quê hương

Một mối tình

Một mối tình được gắn huy chương

Huy chương anh dũng bội tinh…

Tôi người đàn bà thi sĩ Việt Nam

Đang sống trên đất Mỹ

Chồng tôi người bản xứ

Chúng tôi có ba con chưa đến tuổi thành niên

Đời sống êm đềm

Trong một thành phố nhỏ…

Tmt

TÁC PHẨM TMT ĐÃ XUẤT BẢN:

Hình 5: hình bìa một số tác phẩm tiếng Việt của Trần Mộng Tú đã xuất bản, từ trái: Vườn Măng Cụt (2009), Thơ Tuyển Bốn Mươi Năm (1969-2009), Để Em Làm Gió (1996), Mưa Sài Gòn Mưa Seattle (2006), Câu Chuyện của Lá Phong (1994), Ngọn Nến Muộn Màng (2005), Thơ Trần Mộng Tú (1990), Cô Rơm và Những Truyện Ngắn (1999), Lịch Trần Mộng Tú Xuân Ất Mùi 2015. [nguồn: Blog’s TMT]

Tiếng Việt:

(1) Thơ Trần Mộng Tú (Tập Thơ-1990) Nxb Người Việt. (2) Câu Chuyện Của Lá Phong (Tập Truyện Ngắn-1994) Nxb Người Việt. (3) Để Em Làm Gió (Tập Thơ-1996) Nxb Thế Kỷ 21. (4) Cô Rơm và Những Truyện Ngắn (Tập Truyện Ngắn-1999) Nxb Văn Nghệ. (5) Ngọn Nến Muộn Màng (Tập Thơ-2005) Nxb Thư Hương. (6) Mưa Sài Gòn Mưa Seattle (Tập Truyện- 2006) Nxb Văn Mới. (7) Vườn Măng Cụt (Tập Truyện Ngắn và Tản Văn – 2009 Nxb Văn Mới). (8) Thơ Tuyển Bốn Mươi Năm (Thơ 1969-2009- Tác Giả Xuất Bản). (9) Blog: tranmongtu.blogspot.com

Tiếng Anh:

(1) Visions of War, Dreams of Peace, Writings of Women in the Vietnam War. Warner Books 1991. (2) American Literature Textbook, Glencoe / McGraw-Hill, A Division of McGraw-Hill Companies, 2000. (3) An Anthology of Vietnamese Poems: From the Eleventh through the Twentiedth Centuries. Yale University Press, New Haven and London, 2001. (4) The Defiant Muse (The Vietnamese Feminist Poems), The Feminist Press and The Women’s Publishing House Hanoi, Vietnam 2007.

Các bài thơ được phổ nhạc:

1/ Dòng Sông Đứng Lại (nhạc Phạm Anh Dũng). 2/ Tháng Mười Hoa Cúc (nhạc Phạm Anh Dũng). 3/ Quà Tặng Chiến Tranh (nhạc Phạm Anh Dũng). 4/ Tháng Mười Hoa Cúc (nhạc Hoàng Quốc Bảo). 5/ Quán Lạ (nhạc Hoàng Quốc Bảo). 6/ Giọt Tình Sầu (nhạc Nam Lộc). 7/ Gọi Anh Mùa Xuân (nhạc Anh Bằng). 8/ Nhân Chứng (nhạc Vũ Tiến Dũng). 9/ Chia Tay (nhạc Nhật Ngân).10/ Kiếp Sau (nhạc Nhật Ngân). 11/ Thanh Xuân (nhạc Nguyễn Tuấn).12/ Mùa Thu Paris (nhạc Nguyễn Minh Châu).13/ Dòng Sông Đứng Lại (nhạc Lê Thanh Cảnh). 14/ Ngọn Nến Muộn Màng (nhạc Lê Thanh Cảnh).15/ Tháng Tư Nhuộm Tóc (nhạc Lê Thanh Cảnh). 16/ Quà Tặng Trong Chiến Tranh (nhạc Nguyễn Ngọc Tiến).

Hình 6: trái, hình bìa cuốn Mưa Sài Gòn, Mưa Seattle, Tạp Văn của Trần Mộng Tú, Nxb Văn Mới 2006; phải, hình bìa Thơ Tuyển Bốn Mươi Năm (1969-2009) của Trần Mộng Tú, Tác giả xuất bản 2009. Đến nay, đã hơn nửa thế kỷ – hay chính xác hơn 54 năm sau (1969-2023), bắt đầu bước vào tuổi 80, Trần Mộng Tú vẫn làm thơ, vẫn với sức sáng tác phong phú và sung mãn. Có thể nói, Trần Mộng Tú như một hiện tượng rất hiếm hoi: bà là một nhà thơ không có tuổi tác.

Trần Mộng Tú làm thơ, viết truyện ngắn, tùy bút, làm báo. Sự nghiệp văn học của Trần Mộng Tú chủ yếu là thơ. Thơ của Trần Mộng Tú gồm nhiều thể loại: thơ tình, thơ thời sự, với tình yêu thương sâu sắc trước các thảm kịch như chiến tranh Trung Đông, khủng bố 911 ở Mỹ (Trả lại tôi), 39 thùng nhân chết trên con đường kiếm sống (Tôi không thở được), thảm họa môi sinh Formosa với hàng loạt cá chết (Gửi người em Vũng Áng)…

Văn chương của Trần Mộng Tú thanh thoát. Ở đó không hề có bóng dáng của thù hận; và với thể loại nào cũng thấm đẫm những tình cảm đôn hậu, yêu thương, rất Trần Mộng Tú.

TÌM LẠI THỜI GIAN ĐÃ MẤT 1968 TMT VÀ CƠ DUYÊN VỚI AP SAIGON

Sau khi thi đậu tú tài 2, Trần Mộng Tú vẫn đi học thêm Anh văn ở mấy lớp dạy tư. Khi Ba Tú về hưu, Tú muốn đi làm thêm phụ giúp gia đình. TMT có một thời gian ngắn đi làm trong PX Ambassador. PX này dành riêng cho sĩ quan cao cấp và nhân viên ở Tòa Đại Sứ. Tuy Ba là công chức, làm ở sở Địa Chánh, tiếng là ông Tham, ông Phán nhưng lương hưu cũng chẳng có nhiều.

TMT có khiếu về ngôn ngữ, nói và nghe tiếng Anh tốt nhưng không biết nhiều về báo chí. Khi đó, nhân có một người anh họ tên Đinh văn Ngọc, vừa đang học Luật vừa làm cho AP, bị động viên năm 1968. Anh ấy nói: Em vào đây học tiếng Anh nhanh hơn ở trường, cứ thử đi.” Rồi anh ấy mang cô em vào giới thiệu. Lúc đó Tú cũng liều, đâu biết là cả AP bao nhiêu năm nay toàn đàn ông không có phụ nữ nào cả. Tú nghĩ chắc lúc đó ông Bureau Chef muốn có một cô vào làm như cần một bông hoa trang trí cho văn phòng”. Làm ở AP, Tú đã học được rất nhiều. Lương lại cao hơn những việc khác. Việc làm có phẩm chất, hơn nữa sau giờ trưa, ông Bureau Chef AP còn cho Tú 2 giờ đi học thêm tiếng Anh.

Văn Phòng AP trong Passage Eden trên lầu 4, phòng 420-422. Nơi còn có các văn phòng của đài truyền hình NBC, của tuần báo nổi tiếng US World and News Report. TMT có rất nhiều kỷ niệm với Passage Eden, với tiệm kem Givral – nơi góc đường Tự Do và Lê Lợi. Nơi mỗi lần Thái Hoàng Cung, người yêu đến đón, buổi trưa về nhà anh ăn cơm, thỉnh thoảng hai người vào ăn kem hay mua bánh mang về. Tuy chưa cưới nhau, nhưng TMT đã được mẹ Cung – một nhà giáo nổi tiếng nghiêm khắc, khi ấy bà đang làm Giám thị Đại học xá nữ Thanh Quan trên đường Trần Quý Cáp. Bà rất thương cô con dâu tương lai và đã coi TMT như một đứa con trong gia đình.

1968 TÌNH YÊU ĐẦU ĐỜI ĐẸP NHƯ MƠ

Do hai gia đình có hai bà mẹ thân nhau, TMT và Thái Hoàng Cung có dịp quen nhau từ hồi trung học. Cung là con thứ hai trong một gia đình ba anh em trai. Ba Cung nguyên là nhà giáo dạy tiếng Pháp, mở một trường học ở Nam Định, ông bị Việt Minh bắt và thủ tiêu trong thời gian cuộc kháng chiến chống Pháp. Lúc đó mẹ Cung cũng là nhà giáo, còn rất trẻ đã sớm góa bụa, bà đem ba đứa con về Hà Nội, đứa lớn nhất lúc đó chỉ mới 10 tuổi, bà vừa đi dạy học vừa bươn chải nuôi nấng ba con. Vì không biết ngày chồng chết, bà lấy ngày ông bị Việt Minh bắt đi làm ngày giỗ. Rồi tới năm 1954, sau Hiệp định Genève, bà lại dẫn ba con di cư vào Nam.

Cung học xong năm cuối trường Jean-Jacques Rousseau, sau tú tài 2, Cung chọn thi vào trường Đại học Sư phạm, tốt nghiệp ban Pháp văn, được bổ nhiệm đi làm giáo sư dạy tiếng Pháp trong một trường trung học nhỏ ở miền Tây, nhưng chưa được một năm thì có lệnh tổng động viên sau trận Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968.

Sau khi học xong khóa sĩ quan trừ bị Thủ Đức, trước khi ra đơn vị, Cung xin gia đình cha mẹ TMT cho làm hôn thú, vì sợ sau này sẽ khó khăn khi ở quân đội. Trên giấy tờ, TMT có chồng từ tháng 6-1968.

 NỖI KHẮC KHOẢI CỦA MỘT CHINH PHỤ –  1968 BUỔI TRƯA SÀI GÒN

Mùa mưa đang về giữa Sài Gòn

con đường Tự Do vỡ òa bong bóng

em đi dưới trời mưa

Em nhớ anh

em khóc

 

Những chiếc taxi nằm im

Sài Gòn trong mưa

Sài Gòn buổi trưa

Sài Gòn như nỗi chết

Sao anh còn trẻ thế

Sao em còn trẻ thế

Sao tình yêu hai ta còn trẻ thế

lại lăn vào

một cuộc chiến già nua

Bây giờ một người lính mới

cầm cây súng cũ xì

ở tận chi khu Trà Bồng

một địa danh nghe mà

ngơ ngác

Bây giờ một người con gái

cầm trái tim mình bằng cả hai tay

đi dưới cơn mưa

đầy bong bóng nước

 

Ôi Sài Gòn buổi trưa

Em nhớ anh

Em nhớ anh

em khóc.

Trần Mộng Tú – 1968

 1969 BẢN TIN TRONG NGÀY

Em đi trong thành phố

mùa đông đến sau lưng em

gió thổi trên nóc nhà thờ Đức Bà

em se mình trong chiếc xích lô

Bản tin em lấy về sáng nay ở Nha Báo Chí

số chết của ta và địch

chia đôi rất công bình

Ở tòa báo em làm

những người phóng viên

đang thu xếp ngày mai ra Đà Nẵng

không có ai đi Kiên Giang*

làm sao em gửi được cho anh

một nụ hôn vào chiếc bao thư

làm sao em gửi được cho anh

những giọt nước mắt sáng nay của em

vào trong bao thuốc lá

Em se mình trong tòa báo

hoang mang

cúi xuống một bản tin mới ra

Trưa nay

Ta chết nhiều hơn địch

Em gọi trong lồng ngực đáng thương của mình

Ôi anh!

Ôi anh!

Ôi anh!

Buổi chiều

em trở về

chiếc xích lô vẫn còn đầy gió.

Trần Mộng TúTháng 3-1969

1969 TANG TÓC BA THÁNG SAU NGÀY CƯỚI

Buổi tối của một ngày đầu tháng 8 năm 1969, khi tôi – TMT – đang ngồi xem những tấm ảnh màu đám cưới gửi từ Mỹ về, sắp xếp để làm một cuốn album, thì nghe tiếng chuông cửa. Tôi ra mở cửa, hết sức ngạc nhiên khi thấy Carl và anh Huân là hai người ở Sở trước mặt. Anh Huân làm phòng tối, phụ trách về rửa phim, in hình và Carl vừa là phóng viên vừa là nhiếp ảnh viên. Cả hai người này chẳng bao giờ đến nhà tôi vào giờ này, càng chắc chắn là không phải gọi tôi đi làm. Tôi lúc đó làm thư ký cho hãng thông tấn The Associated Press, công việc của tôi là lo tất cả những việc linh tinh cho hãng: từ phát lương cho nhân viên, giữ sổ chi thu, mua bán hình ảnh, thư ký cho ông chánh văn phòng, đi nghe họp báo bỏ túi, v.v... Những việc này không bao giờ phải làm cuối tuần, cũng như không bao giờ làm ca đêm.

Cả hai người bước vào buồng khách, cả hai nhìn tôi, rồi cả hai nhìn nhau, không ai muốn là mình nói trước. Tôi linh tính có điều không tốt, nhưng không hiểu chuyện gì. Cuối cùng Carl nói: “Sở nhận được điện thoại từ Rạch Giá gọi về chiều nay, nói là Cung, chồng của cô đã tử trận.” Tôi đứng ngẩn người, nhìn lại cả hai, không nói được tiếng nào, Carl nói tiếp: “Suốt từ chiều, chúng tôi liên lạc được với Rạch Giá (Kiên Giang), xác định tin rõ ràng, có gọi điện thoại nói chuyện với bà giám thị của Đại học xá Trần Quý Cáp, mẹ Cung, cụ cũng nhận được tin rồi.” Tôi ngồi xuống hai gót chân mình, không nghe được gì tiếp, ngoài tiếng xôn xao của cha, mẹ và gia đình.

Chúng tôi mới cưới nhau sau lễ Phục Sinh vào tháng Tư, Cung tử trận 30 tháng 7 năm 1969. Cung không phải là quân nhân chính gốc, anh tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm, ban Pháp Văn và đã đi dạy được một năm, anh bị gọi trong chương trình Tổng Động Viên. Khi nhận giấy báo phải nhập ngũ, anh đến xin cha mẹ tôi cho làm hôn thú, vì sợ sau này sẽ khó khăn khi ở quân đội. Trên giấy tờ, tôi có chồng từ tháng 6-1968. Lúc làm đám hỏi chú rể tương lai không có mặt (đang đóng ở chi khu Trà Bồng), chỉ có mẹ chồng mang trầu cau sang. Nghĩ cũng tủi thân, nhưng thời chiến mà, làm sao được. Sau đám cưới, Cung về đơn vị, tôi vẫn ở nhà với cha mẹ, đợi Cung được biệt phái về dạy học lại, (Bộ Giáo Dục hứa sẽ cho các giáo chức được về vào tháng 10/1969) rồi sẽ ra ở riêng.

Chiếc máy bay vận tải Mỹ đáp xuống phi trường Bình Thủy, Cần Thơ. Người phi công phụ quay xuống nói với anh trai của Cung và tôi, đang ngồi cạnh chiếc quan tài.

“Chúng tôi rất tiếc là phải thả hai người và quan tài xuống đây, vì đây là máy bay quân đội Mỹ chở dầu, chúng tôi chỉ đi tới Cần Thơ chứ không về đến Sài Gòn.”
Đuôi máy bay mở ra, một chiếc forklift tiến đến trục quan tài ra khỏi máy bay để giữa lòng phi đạo. Anh chồng tôi dặn:
“Em đứng đây, anh vào gặp ông xếp của phi trường này may ra được giúp đỡ.”

Buổi trưa tháng Tám, mặt trời tóe những chùm nắng rát bỏng, chói chang trên sân bay, cái sân bay rộng lớn chổng chơ một chiếc áo quan có phủ xộc xệch lá quốc kỳ, mấy giọt nến đóng thành mảng khô cứng trắng đục trên màu vàng của lá cờ, một vài chiếc lá quăn queo sót lại của vòng hoa chiều qua còn dính ở đó. Tôi tự thấy mình bé nhỏ, mỏng manh trong chiếc áo dài màu xanh nhạt, áo nhàu nát, tóc bơ phờ, mặt ngơ ngác đứng nhìn chung quanh mình. Cái sân bay trông sao mông mênh thế mà cái áo quan thì bé tí, tôi đứng bên cạnh trông lại càng bé hơn. Sân bay không một bóng người, vài ba chiếc máy bay quân sự đậu rải rác bên cạnh những phuy dầu chưa kịp xếp vào kho. Hình như đã có mùi hôi bốc ra từ áo quan, tôi đứng lui ra một tí nữa, xoa tay lên ngực, thấy mình nghẹn thở, ngực nặng và đau buốt, đau thấu xuống tận bụng, tôi muốn ngất đi.

Hai ngày, một đêm ở Kiên Giang đã làm tôi đuối sức. Tôi có làm gì đâu. Tôi chỉ không ăn, không ngủ, không khóc, không cả vệ sinh. Chắc trong người tôi không còn nước. Bà mẹ chồng một bên, ông anh chồng một bên, họ đổ sữa ông Thọ cho tôi. Bà mẹ chồng tôi thật giỏi, bà có kinh nghiệm với chiến tranh, kinh nghiệm với chết chóc, nên đi đón xác con mà bà còn nhớ đem theo hộp sữa ông Thọ cho cô con dâu tiểu thư, cô con dâu còn mới như vuông lụa chưa thêu.

“Con uống đi. Con mà gục xuống đây nữa thì mẹ biết nói làm sao với cha mẹ con.”
Tôi không uống được, cái mùi tử khí trưa nay của mấy chục cái xác xếp chất lớp trước cửa nhà xác vẫn ràn rụa trong thân thể tôi. Nó phủ chụp từ đỉnh đầu xuống hai bàn chân, khi tôi len lỏi bước qua những xác lính bên ngoài để vào bên trong chỗ người ta để xác sĩ quan. Tôi đã phải bước qua từng cái túi có bọc thây người ở trong, có cái thòi hai bàn chân còn nguyên đôi giày saut ra một đầu, có cái thì lòi ra ở đầu kia một đỉnh tóc bết đất, có cái thòi nguyên một khuôn mặt tái mét vàng khè có mấy con ruồi đậu trên đôi mắt chưa khép kín hẳn. Tôi đi theo bàn tay dắt của người anh chồng, xúc động và kinh hoàng đã làm tôi không còn cảm giác nữa. Không biết tôi có giẫm phải ai không. Tôi cố gắng không giẫm lên những người đàn ông nằm đây. Vào được đến bên trong thì tôi có nhìn thấy gì đâu. Tôi chỉ nghe tiếng bật khóc của mẹ chồng, tiếng anh chồng bảo: “Đúng là Cung rồi”.

Hình 7: Một góc của phi trường Bình Thủy, Cần Thơ 1969, nơi chiếc quan tài của Thiếu úy Thái Hoàng Cung được chiếc máy bay vận tải của Quân đội Mỹ thả xuống.

Người phi công phụ quay xuống nói với anh trai của Cung và tôi, đang ngồi cạnh chiếc quan tài. “Chúng tôi rất tiếc là phải thả hai người và quan tài xuống đây, vì đây là máy bay quân đội Mỹ chở dầu, chúng tôi chỉ đi tới Cần Thơ chứ không về đến Sài Gòn.” [5]

Tôi thấy hình như tôi được bế lên, được đặt ngồi xuống một cái bậc thềm, gió ở sông thổi vào mặt tôi, giúp tôi tỉnh lại, tôi mở mắt ra, nhìn xuống. Tôi thấy một dòng nước đục chảy lờ đờ bên dưới. Thì ra nhà xác của bệnh viện Kiên Giang nằm sát cạnh bờ sông. Tôi không dám nhìn vào những người đàn bà đang đi lật từng cái poncho quấn thây người để tìm chồng, tìm con họ trước cửa nhà xác. Tôi thấy tôi còn may mắn hơn họ.

Người ta đem xác Cung về trại gia binh tiểu khu để làm lễ. Tôi được bày đứng cạnh áo quan cho ông Phó Tỉnh Trưởng đọc diễn văn, trong khi ông đọc thì tôi đứng nhìn mấy cây nến chảy, nhìn vòng hoa đã bắt đầu héo, có cả chén cơm đã khô và quả trứng luộc có mấy con ruồi bay lên bay xuống, tàn nhang rơi phủ đầy trên đó. Ông Phó Tỉnh đọc diễn văn xong, hấp tấp ra về. Chắc ông hơi thất vọng vì không thấy tôi khóc để có dịp nói lời an ủi. Mấy người vợ lính trong trại gia binh, chạy sang thăm hỏi, mấy đứa nhỏ con lính chạy loanh quanh áo quan với mấy con chó gầy trơ xương, trụi cả lông, cái áo chúng mặc ngắn cũn, bụng ỏng ra ngoài, mũi thò lò cũng chẳng chùi. Chúng tròn mắt nhìn mấy người Sài Gòn, mặt mũi có vẻ khang khác với nhng người trong trại lính này. Có người cũng từ xa đến chưa tìm ra xác chồng, xác con đến hỏi han bà mẹ chồng tôi với con mắt nặng trĩu và gương mặt thất thần.

Tôi đứng đó lơ mơ nghe lao xao những tiếng nói chồng lên nhau, mỗi người kể một cách, giống như ở nhà tôi mỗi khi đi xem một cuốn phim về, chị em tôi vẫn thường tranh nhau nói như thế. Hình như họ nói về trận đánh ngay ở xã Vĩnh Thanh Vân. Xã này, tôi không biết ở đâu nhưng chắc là rất gần. Họ nói đánh ba bốn hôm rồi, và vẫn còn đánh nên xác không kéo ra hết được, phải ngồi chờ thôi. Cứ ngồi chờ thế nào cũng gặp, họ bảo nhau:

“Không thấy người thì thấy xác. Thế nào cũng gặp mà!”

Người anh chồng thì thỉnh thoảng lại biến mất, không biết đi đâu, chắc là đi tìm cách đưa mọi người về nhà. Tôi thấy trong những người đi nhận xác chỉ có ba người trong gia đình này ít khóc nhất. Bà mẹ chồng tôi thì vừa mếu máo vừa lo xin nước sôi pha sữa cho con dâu uống. Con bé này vốn đã gầy, hai hôm rồi nó chẳng ăn, chẳng nói gì làm bà phát hoảng, giá nó cứ khóc sướt mướt như mấy người vợ lính đang khóc ngoài kia thì bà lại đỡ lo. Không biết còn kẹt ở đây đến bao giờ? Bằng vốn liếng tiếng Pháp bà nói chuyện với một ông sĩ quan Mỹ cho bà quá giang máy bay quân sự về Sài Gòn, rồi bà sẽ thuê máy bay dân sự xuống đây đón mấy đứa con. Bà giỏi lắm. Mấy chục năm trước, còn trẻ măng mà bà đã một mình thuê đò ở Nam Định đi tìm chồng. Chồng bà đang đêm được Việt Minh đập cửa mời đi, rồi cả tháng không thấy về. Ông được mời vì lúc đó ông có một ngôi trường nhỏ dạy học tiếng Pháp ở Nam Định. Bà đi đò, đi bộ cả bao nhiêu cây số, đến tận chỗ không ai dám bén mảng đến hỏi tin tức chồng. Họ bảo về đi, bắn chết rồi. Bà lại thuê đò về, tính ngày đi của chồng dùng làm ngày giỗ vì bà không biết ông bị xử bắn vào hôm nào. Mấy hôm sau bà bỏ nhà ở Nam Định, dắt ba thằng bé, đứa lớn nhất chưa quá 10 tuổi tìm đường ra Hà Nội. Đi làm, nuôi con ăn học. Rồi lại dắt con di cư vào Nam. Ai làm được gì thì bà cũng làm được như vậy. Bà cũng khóc chứ. Nhưng nước mắt thì vốn chóng khô vì nó không chảy hết ra một lúc, nó chảy rỉ rả ít một. Chảy suốt một đời. Cô con dâu bà mới cưới được có ba tháng, còn trẻ lắm, lại chưa có con, đi đón xác chồng lại có mẹ chồng, anh chồng bên cạnh. So với bà, cô còn may mắn chán.

Mà đúng thật, bà mẹ chồng tháo vát của tôi số khổ hơn con dâu. Bà xin lên được máy bay về trước các con một hôm thì cũng bị thả xuống phi trường Bình Thủy đêm hôm đó, máy bay không về đến Sài Gòn. Một cơn mưa tháng Tám bất chợt ập xuống làm bà ướt sũng, thất thểu tìm một nhà thờ vào xin ngủ qua đêm, bà không cần khóc nữa, trời đất khóc hộ bà rồi. Sáng hôm sau bà đi xe đò về Sài Gòn. Trong khi đó thì các con của bà: con sống, con chết cũng bị thả xuống chỗ mẹ ngày hôm qua, nhưng không phải buổi tối mưa sũng nước mà một buổi trưa đầy nắng.

Cuối cùng thì cũng đưa được quan tài về Sài Gòn. Khi xuống đến phi trường Tân Sơn Nhất thì cả người và cảnh trông thật bắt mắt. Nếu có cần quay một cảnh phim cho chiến tranh thì hay quá. Cái quan tài cũng không cần phải trang trí cho ra vẻ tang thương hơn nữa. Lá cờ phủ trên nó nhàu nát, xộc xệch, cô đơn, đã đủ vẻ tang thương. Hai nhân vật thất thểu xác xơ đứng cạnh không cần phải hóa trang hay diễn xuất, họ đi đứng như người mất hồn, ngơ ngác, thất lạc, rơi ra từng mảnh như những người lính vừa bại trận trở về. Cứ dựng máy quay phim lên, quay họ như thế vào phim cũng tuyệt lắm rồi.

Sau này tôi nghĩ lại vẫn tự hỏi. Tại sao lúc đó mà mình tỉnh khô như vậy, sao mình không phát rồ, phát điên, không đập đầu vào tường? Cả trăm câu hỏi cứ chạy lung tung trong đầu tôi bao nhiêu năm trời.

Một chiếc xe nhà binh đón chở áo quan từ phi trường đến nhà xác bệnh viện Grall. Đã bảo bà mẹ chồng tôi là người tháo vát mà! Bà còn xin được miếng đất chôn Cung trong Mạc Đĩnh Chi để bà thăm viếng cho tiện, chứ lên tận Nghĩa Trang Quân Đội thì làm sao bà có thể đi thăm thường xuyên được.
Họ cho Cung đi qua nhà, dừng lại cho Cung nhìn chỗ mình đã sống, đã lớn lên một lần chót. Chẳng biết ai là người nghĩ ra cái tục không được chết ở nhà thì phải ghé qua nhà trước khi ra đi hẳn mà hay thế! Tôi thấy những người lân cận và một vài người họ hàng đã đứng chờ sẵn trước cửa nhà. H
nhìn tôi, nhìn quan tài như xem phim chiếu chậm, họ quen quá rồi cái cảnh này những năm gần đây. Tôi còn trẻ quá, họ nghĩ. Thế nào rồi cũng quên đi, cũng lại lấy chồng, chỉ tội cho bà mẹ anh ta. [5] [Bình Thủy, 1969]

1970 TMT TRỞ LẠI SỐNG VỚI BÌNH THƯỜNG MỚI

Cho dù có chồng chất đau đớn và tang thương đến thế nào, cuộc “chiến tranh già nua” ấy – chữ của TMT, vẫn cứ lạnh lùng tiếp diễn, với vô số đạn bom vô tri của cả đôi bên. Mỗi ngày Sài Gòn, và cả trên khắp nẻo đường đất nước, vẫn có thêm bao nhiêu vành khăn tang mới và rồi họ vẫn cứ phải sống.

Sau khi Cung mất, TMT trở lại đi làm cho AP, vẫn được cả hãng quý mến, họ mừng đám cưới rồi sau đó lo đám tang cho chồng TMT, chỉ cách nhau có 3 tháng. Vì mẹ TMT và mẹ Cung thân nhau nên liên hệ hai gia đình không có gì thay đổi từ ngày Cung mất. Trong suốt 7 năm còn ở Việt Nam, mỗi trưa đi làm ra TMT đều về nhà ăn cơm với Mẹ Cung, nếu không phải ngày đi học thì ra nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi thăm mộ chồng, sau đó mới trở lại Sở làm.

Trở lại với Văn phòng AP ở Sài Gòn. Cứ 2 năm office thay một ông Bureau Chef mới. Ông nào cũng quý mến và bảo vệ người con gái duy nhất kém may mắn của AP. Tuy không phải là nhà báo, TMT đôi lần cũng được đi du lịch nước ngoài, sang Mỹ, rồi sang Nhật với danh nghĩa ký giả AP ở thời điểm 1971- 1972. Hồi đó ra nước ngoài rất khó. TMT đi rồi lại về, không hề nghĩ chuyện ở lại Mỹ. Ba Tú thương con gái, cứ dặn đi dặn lại: “Con đi chơi rồi về chứ đừng ở lại một mình xứ người.

Hình 8: Trần Mộng Tú (2a) Tokyo 1971, (2b) New York 1972. Tư liệu TMT

Hàng ngày tiếp xúc với các ký giả, phóng viên nhiếp ảnh từ các nơi tới, từ Mỹ sang. Họ đến rồi đi, Tú chưa hề nghĩ mình sẽ lập gia đình với một người nước ngoài. Ngay cả sau khi người chồng mới cưới của TMT tử trận, TMT cũng dửng dưng với những ký giả muốn làm thân.

Tuy không phải ký giả nhưng đôi khi TMT cũng phải chạy tới mấy nơi có họp báo để lấy tài liệu, ghi notes nếu các ký giả ra chiến trường hết. Có lúc Office vắng tanh cả tuần liền, chỉ còn Tú và ông Chánh Văn Phòng, TMT phải lo mọi việc từ mua hình, chạy đi lấy bản tin đến họp báo bỏ túi. Mấy photo stringer [chụp hình nghiệp dư] Việt Nam thì thích gặp Tú lúc tới bán hình vì bao giờ Tú cũng trả thêm cho họ, thay vì 20 US$ cho một tấm hình, Tú trả cho họ 25 US$ – trong đó có nhà báo Nguyễn Tú A, mà Tú còn nhớ.

Từ một cô học trò mới xong Trung Học, TMT rơi ngay vào môi trường báo chí của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. TMT học được nhiều giữa chiến tranh và đời sống. TMT nghĩ cũng nhờ đó mà Tú trưởng thành trong cách viết về chiến tranh sau này. Thỉnh thoảng TMT cũng sang văn phòng Tuần báo Times bên khách sạn Continental để đưa hay lấy một tài liệu gì đó, gặp nhà báo Phạm Xuân Ẩn. Mẫu người khắc khổ, ít nói nhưng Tú nhớ mỗi lần gặp, Phạm Xuân Ẩn tuy không cười nói vồn vã, nhưng thường nhìn Tú bằng ánh mắt hiền từ, không thấy giống điệp viên 007 chút nào.

TMT học việc rất nhanh. Chỉ khó khăn lúc đầu, thỉnh thoảng khi có biểu tình dưới phố, ngay trước tòa nhà Quốc Hội, mấy ký giả Mỹ lôi Tú xuống nhờ dịch mấy biểu ngữ, Tú lúng túng vô cùng vì không biết danh từ chuyên môn tiếng Anh về Đả Đảo, Hoan Hô. Dần dần làm lâu, nghề dạy nghề, cũng thông thạo. Bây giờ thì quên nhiều lắm rồi. Thỉnh thoảng, tòa soạn AP trống trơn, các ký giả ra chiến trường hết, nếu có “Họp Báo Chớp Nhoáng” bên MACV hay bên Bộ Dân Vận Chiêu Hồi, Chánh Văn Phòng cử TMT đi, Tú cũng biết ghi lại để mang về office cho ông.

BẦY CHIM BỎ XỨ * (Tên một tổ khúc của nhạc sĩ Phạm Duy)

NHỮNG NGÀY ĐẦU DI TẢN – TMT VÀ FRANK

Hơn ai hết, giới truyền thông báo chí Mỹ đã biết rất rõ số phận những ngày tháng Tư cuối cùng của Sài Gòn; và chuyến bay đầu tiên di tản nhân viên của hãng Thông tấn AP là vào ngày 21/4/1975.

Nhóm Việt Nam được di tản sớm gồm có: Trần Mộng Tú và ba mẹ, cùng với Nick Út, và gia đình Đặng Văn Phước. Khi tới Mỹ, họ được đưa ngay vào khu tạm trú ở Camp Pendleton – là một trại lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ gần San Diego. Do TMT có một người bạn tên John Parkson, trước làm cho NBC Sài Gòn, có văn phòng ngay cạnh AP, anh ấy mang theo người vợ Nhật vào trại thăm, thấy TMT có cha mẹ già nên muốn bảo lãnh cho ra ngay. TMT và ba mẹ ra trại ngày thứ Sáu 13/6/75, và ở nhà người bạn đó, nơi thành phố Encino, California. Mới được hai tuần lễ, thì có một ngân hàng Nhật tên Sumitomo Mitsui trên đường Figueroa, Los Angeles có opening cần mướn một thâu ngân viên / bank teller, TMT nộp đơn tới phỏng vấn, cùng với hai cô người Mỹ khác, may mắn sao họ nhận TMT, có lẽ thấy Tú là người Á Đông, lại thông thạo Anh Ngữ.

Cũng người bạn NBC ấy đã thuê cho gia đình TMT một apartment gần World Trade Center trên đường Figueroa nơi có ngân hàng Mitsui. TMT có thể từ nhà đi bộ tới chỗ làm việc vì lúc đó làm gì có xe, và cũng chưa đi học lái xe. Có việc thì mừng lắm, đi làm ngay nhưng TMT không biết là cô có thể hưởng trợ cấp và đi học miễn phí. Nếu biết, Tú chắc sẽ đi học một nghề gì đó.

Trừ Nick Út vì có giải Pulitzer (1973) với tấm ảnh “Em bé Napalm” được giữ lại làm phóng viên ảnh cho AP. Đặng Văn Phước, phóng viên nhiếp ảnh khác cũng được giữ lại nhưng anh Phước bị gửi sang Hồng Kông, do vất vả quá, nên xin thôi AP và trở lại Mỹ.

Các nhân viên khác thì AP cho nghỉ việc, mỗi người được AP cấp cho một số tiền là 3.000 USD, rồi tự túc sau đó. [Theo chuyên gia ngân hàng Võ Tá Hân, thì số tiền đó khá lớn, nếu tính theo thời giá bây giờ là khoảng hơn 16.000 USD].

TMT vẫn tin rằng mọi việc do Trời sắp đặt cả. Khi ấy, trong building có một chàng trai Mỹ tên Frank – có cha gốc người Anh và mẹ gốc Ái Nhĩ Lan, cũng mới dọn vào trước đó một tháng. Anh ấy vừa từ Orange County lên, và mới vào làm công chức. Hai người thỉnh thoảng gặp nhau ở khu Mail Box trong chung cư. TMT hỏi han đường xá, Frank tận tình chỉ dẫn, thấy Tú có cha mẹ già và nhà chưa có xe nên anh nhận đưa cha mẹ Tú đi nhà thờ cuối tuần, anh cũng là người theo đạo Thiên Chúa.

Rồi hai người, TMT và Frank nên duyên vợ chồng. Tháng 9/1976 – 7 năm sau ngày Cung mất, Frank và Tú chính thức lập gia đình, sau này TMT mới biết Frank nhỏ hơn 5 tuổi.

Lúc lập gia đình TMT gần như hai bàn tay trắng nhưng có được việc làm. Hai vợ chồng thuê apartment để ở. Khi sanh con đầu lòng, mẹ chồng cho tiền down mua căn nhà đầu tiên, hàng tháng chỉ trả ít, không phải cố gắng. Frank là người sống rất giản dị và chăm làm, anh nói Tú ở nhà trông con, một mình anh đi làm là đủ. TMT vẫn nhớ câu anh nói: Nếu em không muốn con em đưa em vào nhà dưỡng lão thì cũng không gửi con vào nhà trẻ. TMT ở nhà đến khi cháu út 11 tuổi Tú mới đi làm trở lại. Công việc mới sau này là thông dịch viên hữu thệ, khó thi vào nhưng TMT đã vượt qua, và làm công việc ấy trong lãnh vực y tế cho đến lúc nghỉ hưu.

Frank tốt nghiệp Đại học Công Giáo Loyola Chicago, có cử nhân toán, ban đầu đi làm công chức trong lãnh vực kế toán, nhưng than công việc chán quá! TMT bàn với chồng: anh nên đi học về computer, Tú nghĩ sẽ thích hợp hơn với anh. Lúc đó là thập niên 1980, môn học này tương đối rất mới. Frank nghe lời vợ, xin thôi đi làm. TMT bán nhà, trả hết tiền gốc, còn được bao nhiêu, hai vợ chồng dùng nửa số tiền đó down mua một căn nhà khác nhỏ hơn, số tiền còn lại cho Frank đi học. Frank học 6 tháng về Computer Programmer xong, có việc ngay, lương khá. Tú nói chưa được, anh phải vừa đi làm, vừa đi học thêm sao cho tương đương với trình độ 4 năm. Frank nghe, đi làm ra, đến UCLA học thêm, hết khóa này đến khóa khác.

Vẫn với bản năng đảm đang của người phụ nữ Việt Nam, chỉ biết lo cho chồng cho con. Tối nào sau khi dỗ cho con ngủ, TMT cũng đợi chồng tới 11 giờ khuya, tới khi chồng về cùng ăn bữa tối, mới đi ngủ. Frank sẵn giỏi toán, vào ngành điện toán như cá gặp nước. Đi làm ở đâu cũng thành công, và là nhân viên chính của hãng.

Đến bây giờ Frank vẫn nói: nhờ vợ mới có công việc thích hợp. Cũng để thấy, phụ nữ Việt Nam biết lo cho chồng con và xoay sở trên đất người như thế nào.

Khi TMT bị đẩy ra khỏi nước, cả gia đình Cung cũng ra đi, chỉ có Cung là người ở lại. Cung cũng chẳng khác gì những người còn sống, cũng bị chiếm đoạt tài sản, cũng bị đuổi nhà. Ngôi mộ Cung trên miếng đất đã được Mẹ mua cho trong nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi cũng bị dời đi. Người anh họ còn ở lại, tìm cho anh một nơi cư ngụ mới trong nhà thờ Tân Định.

SEATTLE ĐẤT LÀNH CHIM ĐẬU 1988

Sau 13 năm sống ở California. Năm 1988, Trần Mộng Tú ở tuổi 45, đã cùng gia đình dọn về sống ở Seattle, tiểu bang Washington. Nơi có không khí trong lành và cuộc sống bình yên hơn Los Angeles. Cùng với năm tháng êm đềm trôi qua, ba đứa con đều đều tới tuổi trưởng thành: hai trai, một gái và các cháu nội ngoại và rồi ra ở riêng.

Frank không chỉ là người chồng mà còn là một người bạn. Frank quý mọi người và không kỳ thị. Anh tôn trọng những người bạn Việt Nam của TMT. Tới mức có một người bạn văn của TMT phải khen: Frank hiền như một ông thánh. TMT thì không nghĩ như vậy, vì ông thánh ấy cũng có lúc “biển động, núi gầm” nhưng do cả hai quan tâm tới nhau, tương kính như tân, và họ biết nhường nhịn, biết trân quý những ngày êm ả.

Về sở thích văn chương của TMT, Frank tuy không chia sẻ được trong việc sáng tác, nhưng khuyến khích và hỗ trợ vợ tối đa. Căn nhà rộng, hai vợ chồng mỗi người một phòng. Frank có master bedroom làm office luôn. TMT có một phòng và một office. Vẫn dư một phòng nên TMT làm thành phòng đọc sách kiểu Nhật. Chiếu trúc, gối trúc mang từ VN về.

Ở cửa phòng viết của TMT, Frank treo một dòng chữ viết tay ‘Quiet! Poet at work’ khi Tú ở trong đó, để các con không làm phiền mẹ.”

TMT tin vào số phận, nghĩ rằng Thượng Đế đã viết cho mỗi người một kịch bản, mình cứ thế mà theo mà đóng vai trò đã định sẵn, thế thôi. Tôi cám ơn Thượng Đế đã tạo ra tôi là một người biết yêu chữ nghĩa, nhất là yêu Thơ.

Hình 9: Trần Mộng Tú nơi thư phòng. Trên cánh cửa bên ngoài phòng làm việc của TMT có dán mảnh giấy với mấy chữ viết tay của Frank, chồng Chị: “Quiet! Poet at work”, sao cho đám con nhỏ không làm phiền mẹ. Hơn 40 năm sau ngày cưới, nay đã là ông bà nội ngoại, nhưng họ vẫn giữ được lễ “tương kính như tân”. Nguồn: Blog’s TMT

NHÀ THỜ TÂN ĐỊNH SÀI GÒN 23 NĂM SAU [11-1998]
… “Lần đầu tiên về thăm lại Việt Nam năm 1998, sau 23 năm, tôi đi tìm Cung ở nhà thờ Tân Định. Tôi đi len lỏi giữa những dãy kệ, đọc từng cái tên, đi đến vần “T” là họ của Cung. Tôi nhìn thấy một cái hộc nhỏ, không có hình chỉ có ghi họ, tên, ngày sinh, ngày mất. Tôi đứng lặng người, run rẩy chạm những ngón tay mình lên mặt chữ. Cái cảm giác chạm tay vào đầu áo quan của năm 1969 bỗng hiện ra dưới những ngón tay tôi. Một tiếng nấc đưa lên thanh quản, vỡ òa ra, tôi khóc như chưa bao giờ được khóc. Nước mắt của bao nhiêu năm tụ lại một ngày, nước mắt của những ngày đi đón xác ở Kiên Giang khô lại bây giờ nứt ra như một mạch ngầm của suối bật lên trên mặt đất nứt nẻ. Tôi khuỵu chân ngồi xuống giữa lối đi của hai hàng kệ, khóc như chưa bao giờ được khóc.

Chung quanh tôi vắng lặng. Tôi trầm mình vào nước mắt, vào bất hạnh, vào nỗi cô độc của mình. Cái hộc nhỏ đựng tro than bên trên đầu tôi vẫn thản nhiên, im lìm nhìn như trước khi tôi đến. [Bình Thủy tháng 8-1969, Tân Định, tháng 11-1998] [5]

THƠ TMT TRONG SÁCH GIÁO KHOA MỸ NĂM 2000

Có ba sự kiện đáng nhớ năm 2000 trong sự nghiệp văn học của TMT:

(1) Từ năm 2000, có một giai đoạn Trần Mộng Tú viết truyện nhi đồng cho báo Los Angeles Times;

(2) Có thơ Anh ngữ trong sách giáo khoa Mỹ cho chương trình trung học (American Literature – Glencoe – 1999).

(3) Chủ Bút Nguyệt San Phụ Nữ Gia Đình Người Việt ở California. (2002 – 2005).

Hình 10: Trần Mộng Tú viết truyện ngắn nhi đồng tiếng Anh mỗi cuối tuần trên báo Los Angeles Times từ năm 2000. Nguồn: L.A. Times archives

Trong bộ sách giáo khoa Glencoe Literature, trước khi giới thiệu bài thơ “Quà Tặng Trong Chiến Tranh, qua mục “Gặp Trần Mộng Tú”, tác giả bài thơ được giới thiệu như sau: Trần Mộng Tú người có trải nghiệm trực tiếp với chiến tranh, đã phát biểu: “Chiến tranh là điều khủng khiếp”. TMT sinh ở Hà Đông, Bắc Việt Nam. Cô và gia đình di cư vào Nam năm 1954. Do cuộc chiến tranh Đông Dương, Pháp đã bị lực lượng cộng sản đẩy ra khỏi Việt Nam. Rồi Miền Nam Việt Nam cũng không yên ổn được bao lâu, và một cuộc nội chiến nổ ra giữa cộng sản và người quốc gia không cộng sản. Tới thập niên 1960s, khi Hoa Kỳ can thiệp trực tiếp vào cuộc Chiến tranh Việt Nam, thì TMT làm việc cho hãng thông tấn AP ở Sài Gòn. Khi Hoa Kỳ rút quân ra khỏi Việt Nam năm 1975 (thực sự Hoa Kỳ đã rút quân ra khỏi Việt Nam từ 1972, ghi chú của người viết), AP đã di tản nhân viên Việt Nam của họ do sợ bị cộng sản trả thù, TMT và gia đình cùng với nhiều ngàn người Việt khác đã tỵ nạn sang Hoa Kỳ. Từ bậc tiểu học, TMT đã mơ trở thành nhà văn, nhưng thơ văn của TMT chỉ thực sự được xuất bản tại Hoa Kỳ. Hiện nay TMT làm thơ, viết truyện ngắn cho các nhà xuất bản văn học tiếng Việt tại Hoa Kỳ và hải ngoại. TMT sinh năm 1943.[3]

Phần tiểu sử Trần Mộng Tú trong cuốn sách Giáo khoa Glencoe (2000), phải nói là thiếu sót, chỉ ghi cô làm cho hãng Thông tấn AP và làm thơ, nhưng đã không nói tới một sự kiện quan trọng ảnh hưởng trên suốt cuộc đời TMT, là cô trở thành quả phụ ở tuổi mới ngoài 20, khi người chồng mới cưới của cô đã tử trận chỉ 3 tháng sau ngày cưới.

Một chi tiết nữa khá quan trọng, là bài thơ Quà Tặng Trong Chiến Tranh bản gốc tiếng Việt là cuộc đối thoại đau xót giữa hai người: cô gái trẻ TMT và người chồng mới cưới vừa tử trận, nhưng bản dịch bài thơ sang tiếng Anh có đoạn lại trở thành cuộc độc thoại của “ngôi thứ nhất”. Sự sơ sót ấy vẫn lặp lại trong hai cuốn sách giáo khoa Mỹ xuất bản cách nhau 9 năm, [Visions of War 1991, và Glencoe Literature 2000].

Một bản dịch “Quà Tặng Trong Chiến Tranh” của Đặng Vũ Vương đúng với tinh thần nguyên bản tiếng Việt nhưng là 57 năm sau (1969 – 2023):

QUÀ TẶNG TRONG CHIẾN TRANH

GIFTS IN WARTIME

Em tặng anh hoa hồng

my gift to you a rose

Chôn trong lòng huyệt mới

to bury it inside the newly dug grave

Em tặng anh áo cưới

my gift to you my wedding dress

Phủ trên nấm mồ xanh

to drape it over the new green tomb

Anh tặng em bội tinh

you gave me the silver star

Kèm với ngôi sao bạc

that came along with the military medal

Chiếc hoa mai màu vàng

and the insignia of yellow apricot flowers

Chưa đeo còn sáng bóng

that are still shiny for being never worn

Em tặng anh tuổi ngọc

I gave you the jade-quality time

Của những ngày yêu nhau

Of the days of us loving each other

Đã chết ngay từ lúc

that died right away at the moment

Em nhận được tin sầu

when I received the dreadful news

Anh tặng em mùi máu

You gave me the smell of blood

Trên áo trận sa trường

still lingering on your battle dress

 Máu anh và máu địch

your blood and the enemy’s blood

Xin em cùng xót thương

and asked me to have pity on both

Em tặng anh mây vương

I gave you the hanging clouds

Mắt em ngày tháng hạ

the eyes of mine of summer days

Em tặng anh đông giá

I gave you the wintry freeze

Giữa tuổi xuân cuộc đời

In the middle of the spring of life

Anh tặng môi không cười

you gave me non smiling lips

Anh tặng tay không nắm

you gave me unclenched hands

Anh tặng mắt không nhìn

you gave me non seeing eyes

Một hình hài bất động

A totally non-moving form
 Anh muôn vàn tạ lỗi

I beg you I beg you to pardon me

 Xin hẹn em kiếp sau

with the hope of a next life ‘s reunion

 Mảnh đạn này em giữ

This shrapnel is for you to keep

Làm di vật tìm nhau.

as a token for us to find each other

Sài Gòn Tháng 7/ 1969

Trần Mộng Tú

Đặng Vũ Vương – Translated 4/16/2023

Hình 11: Từ trái, (1) bìa cuốn Sách Giáo khoa Văn Học Mỹ, (2) trang đầu của tác phẩm với thủ bút của nhà thơ Trần Mộng Tú tặng người viết, 3) trang tiểu sử, giới thiệu nhà thơ Trần Mộng Tú; (4) trang thơ tiếng Anh “Quà Tặng Chiến Tranh” với hai tấm hình tìm thấy được trên xác của một tử sĩ Bắc quân. American Literature Textbook, Glencoe/ McGraw-Hill, A Division of McGraw-Hill Companies, 2000. Tư liệu Ngô Thế Vinh

Bài thơ “Quà Tặng Trong Chiến Tranh”, dịch sang Anh văn đã được chọn vào sách giáo khoa Mỹ (American Literature – Nxb Glencoe /McGraw-Hill) vào năm 1999, để cho các học sinh Trung Học có dịp so sánh với bài diễn văn The Gettysburg Address của Tổng Thống Abraham Lincoln đã làm nhiều người xúc động và tự hào.

TMT thì xúc động vì bài Thơ đó viết vào năm 1969, như một tờ vàng mã đã hóa trên phần mộ ở đất nước Việt ba mươi năm về trước, bây giờ ở trên đất Mỹ bài thơ được mang ra như một mảnh băng quấn lại một vết thương đã thành sẹo. Vết sẹo, thoảng có khi nào cúi xuống nhìn cũng chợt ửng đỏ. [6]

Một giai thoại về bà cô Trần Mộng Tú: có một câu chuyện hy hữu về cuốn sách, Jessy là tên một đứa cháu gọi Frank — chồng TMT bằng bác, năm đó Jessy học lớp 11 ở Houston, Texas. Khi cháu được học bài thơ “A Gift in Wartime” cháu giơ tay nói: Đó là bài Thơ của Cô tôi / My aunt. Nhưng không ai tin vì Jessy là thằng bé Mỹ đặc, tóc vàng mắt xanh. Tháng sau, cháu Jessy tới Seattle đòi chụp một tấm hình với Aunty Tú, rồi mang về lớp để làm bằng chứng, lúc đó thì tụi bạn Jessy mới thực sự tin.

Hình 12: Trần Mộng Tú 1994. Photo by Lê Phúc

2003 LOS ANGELES: THE ETHNIC PULITZERS

Năm 2003, Trần Mộng Tú được The New California Media (NCM) trao giải thưởng báo chí cho bài “Bình Luận”: Một chốn Bình an [A Safe Place], đã được đăng trên trên nguyệt san Phụ Nữ Gia Đình. Giải thưởng đặc biệt này còn có tên gọi là “The Ethnic Pulitzers”.

Tổ chức NCM đã viết về TMT như sau: “Trần Mộng Tú đã được biết tới trong thế giới truyền thông từ 1965 [*từ 1968, ghi chú / hiệu đính của người viết] như một thư ký của hãng thông tấn AP Sài Gòn. Khi chiến tranh chấm dứt năm 1975, Trần Mộng Tú đã thoát ra khỏi Việt Nam như một người tỵ nạn. Với lòng yêu văn chương Việt Nam cùng với những cảm xúc của tình cảnh lưu vong đã biến cô thành một nhà văn. Cùng với công việc của một chủ bút, Trần Mộng Tú còn phụ trách mục bình luận trên tờ báo tiếng Việt, đúng như tên gọi quan tâm tới các vấn đề “Phụ nữ và Gia đình”. Trần Mộng Tú đã viết và xuất bản một tập thơ và một cuốn truyện ngắn. Bài bình luận được thắng giải của Trần Mộng Tú viết về đứa con gái của bà lên New York làm việc thiện nguyện cho hội Hồng Thập Tự ngay sau biến cố 9/11/2001. Bỗng chốc, bà cảm thấy nước Mỹ nơi bà chọn đi tỵ nạn sau cuộc chiến tranh xâu xé ở Việt Nam, không còn là một chốn bình an như bà vẫn nghĩ. Với lòng hãnh diện và cả với những nỗi lo âu cho đứa con của mình trên xứ sở đang dung thân, đã thúc đẩy bà viết bài báo này.Trần Mộng Tú phát biểu: “Mặc dầu đó là mối lo của một bà mẹ Việt Nam, nhưng cũng là mối lo của tất cả các bà mẹ khác.”

Hình 13: Năm 2003, Trần Mộng Tú được The New California Media (NCM) trao giải thưởng báo chí cho bài “Bình Luận”: Một chốn Bình an / A Safe Place, đã được đăng trên tờ nguyệt san Phụ Nữ Gia Đình. Giải thưởng đặc biệt này còn có tên gọi là “The Ethnic Pulitzers”. Nguồn: tư liệu TMT

Hình 14: hình chụp 2002 tại tòa soạn nhật báo Người Việt, từ trái Minh Phú, Đỗ Quý Toàn, Trần Mộng Tú, Bùi Bích Hà, Hoàng Vĩnh, Phạm Phú Minh. Cũng là thời gian Trần Mộng Tú đang làm chủ bút Nguyệt San Phụ Nữ Gia Đình Người Việt ở California, cùng với nhà văn Bùi Bích Hà làm Chủ nhiệm (20022005). Tư liệu NT Ngọc Dung

Hình 15: Bìa Tuyển tập Thơ Song ngữ Nàng Thơ Ngạo Mạn / The Defiant Muse, do The Feminist Press at the City University of New York xuất bản 2007, có duy nhất một bài thơ Trần Mộng Tú “Con Mèo Cô đơn – The Lonely Cat”.

HỘI NGỘ AP 36 NĂM SAU: SAIGON 1975 – LITTLE SAIGON 2011

Năm 2011, tại hải ngoại, lần đầu tiên có một buổi hội ngộ các cựu nhân viên Văn Phòng Associated Press Saigon tại tòa báo Người Việt, Little Saigon, California.

Hình 16: Năm 2011, tại hải ngoại có một buổi họp mặt các cựu nhân viên Văn Phòng Associated Press Saigon tại tòa báo Người Việt, Little Saigon, California. Từ trái: Neal Ulevich ( AP), Terry Wolkerstofer (nhà báo tự do), Carl Robinson (AP ), Trn Mng Tú (AP) và Frank (chồng TMT), Phương Dung Robinson (vợ Carl), Đặng Văn Phước, áo khoác đen (phóng viên nhiếp ảnh AP), Murray Fromsen (nhà báo tự do), Linda Deutch (nhà báo tự do), Valerie Komor (nhà báo tự do), Nick Út (phóng viên nhiếp ảnh AP), Edie Lederer (nhà báo tự do), Dick Pyle (Trưởng phòng Thông Tấn AP) và vợ; người ngồi phía trước cầm tấm hình là Lư Xây (chuyên viên phòng tối rửa hình của AP). Tư liệu và ghi chú của Trần Mộng Tú

2016 ĐỐT HÌNH ĐÁM CƯỚI VÀ ĐÁM TANG

Tôi nghĩ mình đã bước vào tuổi cuối đời rồi, lúc đó TMT đã bước qua tuổi 70, không biết “Cuốn theo chiều gió” lúc nào. Không nỡ để lại lúng túng cho mấy đứa con. Chúng đốt thì sợ Mẹ buồn, giữ thì không biết để đâu. Thôi thì mình tránh cho ai được cảnh lúng túng đau lòng thì nên tránh. Mình quen với đau lòng rồi. Bây giờ tôi còn giữ lại một chút tàn tro.

Hình đám cưới và đám tang gần 100 tấm. Đã đốt hết một nửa ở nhà. Còn một nửa mang xuống Cali đốt tiếp. Lúc đốt cũng đau lòng lắm, nước mắt nước mũi giàn giụa.

Hình 17: Đốt hình đám cưới, đốt hình đám tang ngày 31/10/2016, trong giàn giụa nước mắt, rũ bỏ kỷ niệm, trả về với “tro than” trong sân nhà Chị Bùi Bích Hà. Tư liệu TMT.

TMT không sao nhớ được đã viết xuống bao nhiêu bài thơ. Vì trong cả 15 năm đầu ở hải ngoại, chưa có computer nên toàn viết tay, lúc nào TMT cũng làm thơ được. Đang lái xe, ngưng lại ở góc đường hay kẹt xe ở xa lộ cũng viết được những câu thơ chợt đến. Hồi đó đã có lần tông vào cột telephone rồi. Một lần tông vào cái xe truck đằng trước vì lúi húi viết trên volant. Bây giờ thỉnh thoảng dọn lại tủ sách, hoặc giữa đống sách vở chung quanh nhà, gặp một bài thơ, không biết viết từ bao giờ.

Nhiều người nhắc tới Bình Thủy 1969gọi đó là truyện ngắnnhưng thực sự đó là một “tự truyện” của TMT; được nhà văn Phùng Nguyễn đánh giá đó là một “Hồi Ký về Chiến Tranh hay nhất. [6]

2009 CÔ GÁI TRONG HÌNH CÓ PHẢI TÔI KHÔNG?

Có người gửi tôi tấm hình trên mạng

cô gái Sài Gòn áo trắng khăn tang

đi trong Sài Gòn bốn mươi năm cũ

cô gái trong hình có phải tôi không?

Ô hay tại sao tự nhiên tôi nhận

Sài Gòn cả trăm cô gái giống tôi

cả ngàn khăn tang trên đầu góa phụ

góa phụ còn hồng một vệt son môi

Ô hay tại sao tự nhiên tôi chối

Sài Gòn ngày ấy trắng toát khăn tang

những cô trẻ lắm mắt đầm đìa lệ

theo tay ai dắt đi vào nghĩa trang

Sài Gòn bây giờ khói nhang đã tắt

góa phụ ngây thơ tóc đã phai xanh

nhìn lại tấm hình nhận ra cô gái

khẽ gọi tên cô Trần Thị Chiến Tranh.

Tmt 30/ 04/ 2009

VẪN VỚI MỘT CHỮ NẾU

Nếu mùa Xuân có thật

Em sẽ quên tất cả những mùa khác

Nếu anh sống sót trở về

Em sẽ quên như chưa hề có chiến tranh.

_ tmt

2023 NHƯNG RỒI VẪN CỨ MÃI MỘT BÀI THƠ THÁNG 4 Ở ĐÂY

Hôm qua

ở đây là ngày đầu mùa xuân

tờ lịch rơi xuống một nụ đào

Tháng Ba sắp hết

Tháng Tư như lệ sắp trào

 

Tháng Ba ở quê tôi năm đó

thành phố nào thảng thốt

con đường nào chảy máu

bãi biển nào oan khiên

Một người lính vừa tự kết liễu đời mình

 

Giày trận có linh hồn

nón trận có khối óc

áo nhà binh có gói một trái tim

tất cả phủ trên anh

thành một bài “Truy Điệu”

 

Tháng Ba

người giẫm đạp lên nhau

chiếc thuyền lao ra biển

tiếng kêu thất thanh

tiếng khóc như cánh chim bay lạc

 

Tháng Ba

con chạy về tìm Mẹ

Con đi đi

Mẹ già rồi ở lại

 

Tháng Ba

Chồng chạy về tìm vợ

Em đi đi

Các con đi đi

Anh là lính

Anh ở lại

 

Thế là Mẹ mất con

Không biết mất nơi nào

Thế là vợ mất chồng

Không biết mất ở đâu

 

Tháng Tư

cả nước mất nhau

mất tất cả

không còn gì

 

Vật ngoài thân

thời gian tìm lại được

Nhưng mảnh vỡ trong tim

đã rơi dần từng mảnh

ngay bước đầu tiên

trên con đường di tản

không bao giờ tìm lại được

 

Người di tản

của bất cứ quốc gia nào

trái tim cũng mất dần từng mảnh

nên khi chết

họ chết với một trái tim không nguyên vẹn

có người chết

với lồng ngực rỗng

họ mất nguyên cả trái tim

 

Tháng Ba ở đây vào Xuân

tháng Tư đầy hoa đào nở

mỗi đóa hoa như một giọt nước mắt hồng

rơi xuống trái tim tôi.

 

– tmt

(Vào Xuân 3-20-2023)

THƠ VÀ CHỮ TMT: MỘT SUỐI NGUỒN TƯƠI TRẺ

Kể từ bài thơ đầu tiên, cho tới nay Trần Mộng Tú đã có hơn nửa thế kỷ làm thơ, viết văn, viết báo. Bước qua tuổi “cổ lai hy”, chưa có dấu hiệu gì là TMT chậm lại. Vẫn có đó một TMT như một suối nguồn tươi trẻ, luôn luôn mới mẻ, và tưởng như là bất tận.

thể nói cái hay của thơ của TMT là sự giản dị, không bị gò bó trong nguyên tắc hay một thể thơ nào, thơ của TMT chỉ như “chuyện kể” hoặc ngắn như một “bản tin” và chất thơ là ngay nơi mỗi con chữ. Không chỉ làm thơ, nhưng TMT còn viết văn – văn của Chị như một thể thơ xuôi – prose.

Ngày nào mà Trần Mộng Tú còn thở, còn hiện diện trên thế gian này, vẫn còn những trái ngọt hay cả với những trái đắng từ “thực phẩm trần gian – les nourritures terrestres [tên một tác phẩm thơ xuôi của André Gide, 1897], và Trần Mộng Tú vẫn còn làm thơ, thơ và chữ chính là hơi thở cuộc sống của Trần Mộng Tú.

Để có thể viết đầy đủ về cuộc đời rất đặc biệt của nhà thơ Trần Mộng Tú, thật sự phải cần tới một cuốn sách. Cũng nhân đây gợi ý với các bạn trẻ trong và ngoài nước, đang chuẩn bị cho một luận án văn học, Trần Mộng Tú – đi ra từ chiến tranh, nhưng lại là “biểu tượng của một nền văn hóa hòa bình”, và chân dung TMT sẽ là một đề tài hấp dẫn và phong phú để các bạn trẻ khám phá dấn thân vào.

NGÔ THẾ VINH

Little Saigon, Fourth of July 2023

__________

Tham Khảo:

1/ Visions of War, Dreams of Peace. Writing of Women in the Vietnam War. Warner Books, New York 1991

2/ Shrapnel in The Heart. Letters and Remembrances from the Vietnam Veterans Memorial. Laura Palmer. Vintage Books, New York 1987.

3/ American Literature Textbook, Glencoe/ McGraw-Hill, A Division of McGraw-Hill Companies, 2000

4/ NPR* Celebrated Military Nurse, Poet Revealed as a Fraud _ September 30, 2006 https://www.npr.org/2006/09/30/6173681/celebrated-military-nurse-poet-revealed-as-a-fraud

5/ Bình Thủy 1969. Hồi ức Trần Mộng Tú. Mưa Sài Gòn Mưa Seattle. Nxb Văn Mới, California (2006).

6/ Ba câu hỏi cho Trần Mộng Tú. Phùng Nguyễn. Da Màu 27/09/2016: https://damau.org/44226/ba-cau-hoi-cho-tran-mong-tu