“Trở về từ Việt Nam cũng nhức nhối như chính cuộc chiến” – Karl Marlantes, một cựu binh Mỹ mở đầu bộ sử thi truyền hình mới nhất của Ken Burns và Lynn Novick trình chiếu trên kênh PBS. Ở Mỹ, suốt nhiều năm sau chiến tranh, không ai nói về Việt Nam vì nó quá chia rẽ, giống như “sống trong một gia đình với ông bố nghiện rượu.” Cuộc chiến Việt Nam giống như một sang chấn tinh thần mà không ai muốn nhắc đến. Chỉ tới gần đây khi những người lính xưa đã trở thành ông bà thì “thế hệ babyboomers mới bắt đầu tự hỏi: điều gì đã xảy ra?”
“Chưa kết thúc” (unfinished business) không phải là chữ của tôi mà là của đạo diễn phim này. Một số bạn bè bảo tôi bình luận về phim “The Vietnam War” (Ken Burns & Lynn Novik, PBS, Sept 2017). Khó quá vì tôi đã xem hết đâu mà dám bình luận. Ở Việt Nam làm sao xem được PBS. Dù có trong tay trọn bộ 10 tập phim (dài 18 giờ) thì cũng phải mất vài ngày mới xem hết. Vì vậy đành phải xem lướt qua một lượt (fast forward) để có khái niệm, chỉ dừng lại xem đoạn nào cần thiết, như đọc lướt (skim-reading) một cuốn sách quá dầy. Thứ nhất, phim này dài quá, dù có kiên trì xem hết thì cũng dễ bội thực. Thứ hai, mới xem qua một lượt đã có cảm tưởng “Déjà Vu” nên cũng mất hứng thú. Thứ ba, tôi tò mò muốn lắng nghe xem các bên bình luận thế nào (tuy không biết các vị đó đã xem hết chưa). Vì vậy, bài viết này đơn giản chỉ là một số ấn tượng chung ban đầu, chứ không phải bình luận chi tiết.
Cuộc chiến Việt Nam không chỉ là cuộc chiến “ủy nhiệm” của Mỹ. Những lập luận và cách giải thích quen thuộc cùn mòn về cái gọi là “lý thuyết domino” là không đầy đủ khi nói đến bản chất cuộc chiến. Tìm hiểu quá trình can dự Trung Quốc, với sự cầu cạnh chủ động của Bắc Việt, mới có thể có thêm cái nhìn rõ hơn về cuộc xung đột này.
Đối với Đông Nam Á, thập kỷ 70 là những năm tháng xảy ra lắm chuyện. Năm 1964 bùng nổ chiến tranh Việt Nam, không những xảy ra thương vong cực lớn, mà ở đây đã trở thành chiến trường giao tranh giữa hai tập đoàn lớn – Chủ nghĩa cộng sản và Chủ nghĩa tư bản.
Sự thất bại của Mỹ làm thành trò cười cho người đời, đây là một sự thực mà ai cũng thấy. Còn đằng sau sự thành công của Trung Quốc lại ẩn chứa vô số nguy cơ, rất cần phanh phui nó ra, rất cần nghiên cứu.
Trung Quốc luôn luôn lo sợ Việt Nam thống nhất và mạnh lên, họ càng sợ Nam, Bắc Việt Nam bắt tay hợp tác với nhau. Ý kiến khác nhau giữa Trung Quốc và Việt Nam về chiến lược chiến tranh Việt Nam nảy sinh chính từ bối cảnh này.
Hai tin tức đối ngược nhau, một về chuyện nhà văn hải ngoại Phan Nhật Nam từ chối “hòa giải, hòa hợp” với một nhà thơ cộng sản Hữu Thỉnh, và một về chuyện những cựu chiến binh phi công Việt – Mỹ gặp mặt nhau như những người bạn, có lẽ sẽ khiến những ai còn ưu tư về dân tộc phải trăn trở.
Trước tiên tôi phải khẳng định đây là một phim của người Mỹ làm về nước Mỹ và cuộc chiến của người Mỹ ở Việt Nam dành cho khán giả Mỹ và phải gọi tên bộ phim tài liệu 10 tập này chính xác là “The American war in Vietnam”, chứ không phải “The Vietnam war” .
Được biết ông là PGS-TS hiện là Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, đồng thời là tổng chủ biên bộ sách Lịch sử Việt Nam. Trong 1 bài phỏng vấn với RFA, ông khẳng định: “Chính quyền VNCH được dựng lên từ đô la và vũ khí, đó cũng là quân đội đánh thuê cho ngoại bang“. (Tổng chủ biên bộ sử Việt Nam: gọi “ngụy quân, ngụy quyền” là miệt thị!).
Rõ ràng Việt Nam (CS) không thể chấp thuận lời giải thích đó. Trong khi Pol Pot có Ieng Sary, phó bí thư đảng, Nuon Chea và một số viên chức khác tháp tùng tới Hà Nội vào ngày 12 tháng Sáu, trong một cuộc “viếng thăm anh em” thì Việt Nam (CS) đã chiếm đóng doanh trại quân đội Campuchia trên đảo Wai và cắm cờ trên đảo này. Ngày 14 tháng 6, tờ New York Times trích dẫn một nguồn tin tình báo Mỹ cho hay rằng Việt Nam (CS) đã chiếm đảo này. Tuy nhiên việc phái đoàn Campuchia tới Hà Nội vào thời điểm trớ trêu ấy vẫn còn che dấu mãi đến ba năm sau.
Khi bộ phim tài liệu dài 10 tập “The VietNam War”, mà toán làm phim do đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick bỏ ra cả 10 năm để thực hiện chỉ mới chiếu trailer quảng cáo thì dư luận đã bàn tán, bình luận xôn xao về nhiều mặt. Điều nầy cho thấy người Việt Nam vẫn đang còn băn khuăn tự hỏi về cuộc chiến đã chấm dứt từ 42 năm trước.
Là một trong những người có mặt trong bộ phim tài liệu nhiều tập “ The Vietnam War” về chiến tranh Việt Nam của đạo diễn Ken Burns, nhà văn Nguyên Ngọc, nguyên là một sĩ quan trong quân đội miền Bắc, cho rằng Việt Nam cũng nên làm như Mỹ, tức là phải nhìn lại quá khứ, xét lại một cuộc chiến tranh mà theo ông đã dần dần trở thành một cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn do khác biệt ý thức hệ.
Bộ phim dài 10 tập (18 tiếng đồng hồ) của 2 đạo diễn Mỹ Ken Burns và Lynn Novick đã được trình chiếu rộng rãi trên TV cũng như trên internet.
Nhiều người chăm chú xem, thưởng thức và bình luận. Người khen khá nhiều, cho rằng các tác giả đã dày công sưu tầm, tuyển chọn những đoạn phim, hình ảnh tiêu biểu, quý giá nhất, có được cách nhìn khách quan, đa chiều.
Nhân xem lại bộ phim tài liệu 10 tập “The Vietnam War” của đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick, bắt đầu trình chiếu ngày 17-9-2017 (*)
6-1-1969: Tổng-trưởng giáo dục Lê Minh Trí và vệ-sĩ bị thương nặng, tài-xế thiệt mạng, xe hơi bị cháy trên đường Hai Bà Trưng-Nguyễn Du Sài Gòn: 3 kẻ lạ mặt cỡi Honda ném lựu-đạn rồi tẩu thoát. Tổng-trưởng từ trần tại bệnh-viện Grall sau một cuộc giải-phẫu vô hiệu.
Ngày 17 tháng 9, hệ thống truyền hình PBS (Public Broadcasting System) của Mỹ sẽ trình chiếu tập đầu tiên của bộ phim mười hai tập, mỗi tập dài phút 90 phút, về “Chiến tranh Việt Nam”. Bộ phim đã được thực hiện từ năm 2011. Đây là bộ phim mới nhất và là công trình đầy tham vọng của Ken Burns và Lynn Novick, những người làm phim tài liệu nổi tiếng.
Tháng 12 năm 1958 có một sự kiện động trời ở Miền Bắc Việt Nam mà những người hồi đó đã có trí khôn (hiện nay, năm 2017, trên 70 tuổi), và có trí nhớ bình thường chắc là không thể quên. Đó là vụ thảm sát ở nhà tù Phú Lợi do Mỹ Diệm gây ra tại Miền Nam, đầu độc chết hàng ngàn tù nhân là người yêu nước. Điều này nhiều báo và đài tuyên truyền trong nhiều ngày. Các nơi tổ chức mít tinh, biểu tình phản đối, lên án. Không khí sục sôi căm thù trong mọi cơ quan, trường học, khu vực dân cư. Tố Hữu viết bài thơ: Thù muôn đời muôn kiếp không tan”, được phổ biến rộng rãi (in trong tập thơ Gió Lộng). Mấy câu đầu như sau:
Khi nghĩ về các sự kiện tiêu biểu của phong trào phản chiến năm 1967, chúng ta nhớ về bài diễn thuyết lên án chiến tranh đầy sức mạnh của Mục sư, TS. Martin Luther King Jr. vào ngày 4 tháng 4, sự kiện hàng ngàn người trả lại thẻ đăng ký quân dịch trong tuần lễ đấu tranh “Ngừng quân dịch” (Stop the Draft), và cuộc diễu hành đến Lầu Năm Góc với số lượng kỷ lục người tuần hành tại thủ đô Washington.
Lời người dịch:Đây là một bài khá dài và nặng nề nhưng rất bổ ích, cho mọi người. Điều thú vị là mình đang dịch sang tiếng Việt một bài viết tiếng Việt được dịch sang tiếng Anh.
Tôi đến Mỹ lần đầu tiên vào mùa hè năm 1998. Lúc đó, tôi được mời tham dự một hội nghị văn chương tại Montana cùng bốn tác giả Việt Nam khác. Chúng tôi khởi hành từ Hà Nội đến Đài Loan và sang Los Angeles. Tôi ngủ suốt hành trình bay xuyên Thái Bình Dương, qua nhiều múi giờ và chỉ bị đánh thức khi máy bay chạm mặt đất. Chúng tôi đi vào một sảnh rất to để kiểm tra hộ chiếu, và đó là lúc tôi cảm thấy giựt mình: bọn Mỹ khắp nơi, bao vây chúng tôi! Tôi không bao giờ quên được cảm giác kì lạ đó. Mọi thứ thật dễ sợ, không thể tin được, và siêu thực với tôi. Tôi, một cựu quân nhân của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, đang ở Hoa Kỳ, và xung quanh toàn là người Mỹ.
Năm 1990, Ken Burns quay bộ phim “Nội chiến” thu hút lượng khán giả kỷ lục cho đài PBS và bắt đầu khôi phục lại sự yêu thích của công chúng về đề tài này. Gần ba thập niên với hơn 20 bộ phim tài liệu sau đó, có lẽ ông ấy là thương hiệu phim lịch sử đáng tin cậy nhất của đất nước, một biểu tượng được người Mỹ yêu thích như môn bóng chày (chủ đề của bộ phim tài liệu gồm 9 phần trong năm 1994 của ông) và món bánh nhân táo (một trong những đề tài ít ỏi truyền thống của Mỹ mà ông không làm).
Trung Quốc được cho là đang nắm trong tay một loại vũ khí đặc biệt, đủ sức “đe dọa” 1/4 dân số thế giới mà không tốn một mũi tên viên đạn.
Sở hữu cao nguyên Tây Tạng cùng hơn 87.000 con đập lớn nhỏ, Trung Quốc đang nắm ưu thế đầu nguồn của 10 con sông lớn cung cấp nước cho gần 2 tỉ người ở các nước phương nam.
Năm ngoái, bộ trưởng bộ quốc phòng Trung Quốc, tướng Thường Vạn Toàn, khẩn nài cả nước phải sẵn sàng cho một cuộc “chiến tranh nhân dân trên biển”. Mục tiêu của cuộc vận động này? Để “bảo vệ chủ quyền” sau phán quyết bất lợi của Tòa Trọng tài Quốc tế về luật biển. Tòa đã ủng hộ ý nghĩa rõ ràng của Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển (UNCLOS), phán quyết rằng tuyên bố của Bắc Kinh về “chủ quyền không thể tranh cãi” chiếm 80 tới 90% diện tích biển Đông là vớ vẩn.
Nói cách khác, một quốc gia mạnh có bờ biển dài, không thể đơn giản giành lấy vùng biển quốc tế hoặc vùng biển thuộc về các quốc gia láng giềng yếu hơn và nói rằng đó là của mình.
Dễ tưởng tượng một cuộc đối đầu thậm chí nghiêm trọng hơn ở biển Đông. Một vụ va chạm không chủ ý khác sẽ thành đủ tệ hại, nhưng nếu như một tình huống tương tự như vụ [Nga] bắn rơi máy bay KAL 007 [năm 1982] xảy ra; với một máy bay chiến đấu Trung Quốc thực sự nổ súng vào một máy bay Mỹ, tình hình có thể trở nên tồi tệ rất nhanh. Và nếu như một phi công Mỹ bắn vào máy bay của Trung Quốc, phản ứng của công chúng Trung Quốc có thể trở nên quá mức để cho Bắc Kinh có thể xử lý hợp lý.
“Chúng ta không thể thay đổi được quá khứ, nhưng chúng ta có thể sắp xếp lại tương lai” “We cannot change the past, but we can reshape the future” (Dalai Lama)
Chiến tranh Việt Nam đã đi vào lịch sử lâu rồi. Đã 42 năm kể từ khi cuộc chiến đó chấm dứt, nhưng người ta vẫn còn tranh luận về Chiến Tranh Việt Nam (hay còn gọi là cuộc “Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai”). Tại sao “bóng ma Việt Nam” đến giờ vẫn còn ám ảnh người Mỹ và người Việt, nhất là thế hệ những người đã trực tiếp dính líu vào Việt Nam, dù là quân nhân hay dân sự và nhà báo. Tại sao người ta vẫn tiếp tục viết sách và làm phim về Việt Nam? Phải chăng vì Chiến tranh Việt Nam có quá nhiều nghịch lý và ngộ nhận?
Chiến trường Quân khu 2, gồm 6 tỉnh phía Tây Bắc của tổ quốc, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước luôn đóng một vai trò trọng yếu.
Trong các cuộc xâm lăng lớn từ phương bắc, quân Trung Quốc cất quân sang đánh Việt Nam chủ yếu 2 hướng: Đường bộ vào cửa ải Nam quan Lạng Sơn, đường thủy hướng Vân Đồn-Quảng Ninh-Hải Phòng; Chỉ một lần lịch sử chép lại đó triều nhà Minh cử tướng Mộng Thạnh từ Vân Nam vào mạnh Lào Cai để vào giải cứu cho Vương Thông bị nguy khốn ở Đông Đô. Đội quân này đã nhanh chóng rút về nước sau khi nhận được tin Liễu Thăng bị chém đầu ở ải Nam quan.
Trong khi đó thì lần xuất quân đầu tiên của đại quân Đại Việt dưới sự chỉ huy của Thái úy Lý Thường Kiệt đánh sang đất Trung Quốc, để bóp chết âm mưu xâm lược lại được xuất hành từ Lũng Cú, Hà Giang.
“Một dân tộc tìm cách tránh chiến tranhbằng cái giá của sự nhục nhã, thì cuối cùng sẽnhận lấy cả sự nhục nhã và chiến tranh” (Winston Churchill).
Nhân nhượng Trung Quốc hay chiến tranh tại Biển Đông? Đó là cách nhìn bàn cờ Biển Đông bằng lăng kính trắng đen của một số học giả và chính khách phương Tây (và phương Đông). Về cơ bản, họ cho rằng đường lối cứng rắn đối với Trung Quốc là “diều hâu”, sẽ dẫn đến chiến tranh, vì vậy phải nhân nhượng Trung Quốc. Đó là quan điểm nhầm lẫn của một số học giả như Hugh White (Lowy Institute) hay Lyle Goldstein (Naval War College).
Mặc dù có những khoản đầu tư quốc phòng đáng kể nhưng một số bộ phận bị xao lãng của Quân đội Việt Nam lại dễ bị Trung Quốc tấn công.
Trong hai thập kỷ qua, Hà Nội đã tập trung nguồn lực hạn chế của mình để tăng cường một số khả năng không quân và hải quân, nhưng những thứ khác trong thiết bị quân sự của Việt Nam đang đi tới chỗ lỗi thời do thiếu đổi mới. Mặc dù không có một định nghĩa phổ quát, tính lỗi thời quân sự có thể được xem xét từ hai cách nhìn: tuyệt đối và tương đối. Cách nhìn đầu liên hệ tới sự sẵn sàng hoạt động, và cách sau là việc so sánh các khả năng giữa một nước và kẻ địch tiềm năng của nó. Trong trường hợp của Việt Nam, cách nhìn tương đối quan trọng hơn do việc Trung Quốc hiện đại hóa quân sự toàn diện. Trong khi các máy bay chiến đấu, tàu ngầm, và tàu khu trục mới của Hà Nội không kém hơn các loại tương ứng của Trung Quốc thì các khả năng khác của Việt Nam sẽ là những điểm yếu cho Bắc Kinh khai thác. Tàu quét mìn, xe thiết giáp và pháo binh là ba ví dụ chính.
Một bài viết trên báo Tuổi Trẻ, ngày 27/6/2017, có tựa đề: “Phía đường băng, còn đó các anh nằm…“, đưa tin về việc Kiến trúc sư Nguyễn Xuân Thắng phát hiện “thông tin nghi vấn có nhiều hơn một ngôi mộ tập thể trong sân bay Tân Sơn Nhất khoảng 10 năm trước“.
Bài báo có đăng hai bức ảnh đã bị cắt, dán, chỉnh sửa, đục bỏ hai chữ “lầm đường” trong câu: “Nơi đây an nghỉ những chiến sĩ lầm đường đêm mồng 1 Tết Mậu Thân. Linh thiêng xin các bạn hãy giúp cho xứ Việt Nam thân yêu của chúng ta mau thái bình”.
Ngày 18- 6 Thượng tướng Phạm Trường Long – Phó chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc, cùng đoàn đại biểu quân sự cấp cao Trung Quốc đã sang thăm chính thức Việt Nam. Trong chương trình, Phạm Trường Long sẽ tham dự sự kiện Giao lưu Quốc phòng cấp cao biên giới Việt – Trung lần thứ 4 tổ chức tại Lai Châu và Vân Nam vào ngày 20-6. Cuộc giao lưu dự kiến được quân đội hai nước chuẩn bị ròng rã suốt 6 tháng đã đột ngột bị hủy bỏ khi khách, bất ngờ đạp lên mọi quy tắc ngoại giao và sự tôn trọng tối thiểu với chủ nhà, đùng đùng dẫn đoàn về Trung Quốc vào chiều tối 18/6, hủy ngang toàn bộ chuyến thăm và làm việc.
Thông báo truyền miệng “Đà Lạt được giải phóng rồi. Các đồng chí khẩn trương về tiếp thu”. Mọi người vui mừng, chia nhóm, hối hả thu gom đồ đạt rồi lên đường ngay. Bà Hoài là một trong số người mừng vui nhất. Vui vì được trở lại Đà Lạt, nơi mà bà từng hoạt động nhưng bị lộ phải thoát ly. Bà sẽ gặp lại nhiều đồng chí còn bám trụ. Bà cũng sẽ gặp lại đứa con gái yêu thương, cùng thoát ly với bà 5, 6 năm trước, nhưng hoạt động khác vùng, sau đó bỏ trốn về lại thành. Bà sẽ được biết sự thật, chắc chắn không như tin đồn nhảm mà bà chỉ nghe loáng thoáng được đôi điều úp mở. Nhưng vui nhất là sẽ gặp lại chồng, người mà suốt 20 năm chiến tranh bà vẫn một lòng thương nhớ. Bà nhớ như in ngày ông tập kết ra Bắc, hai vợ chồng đã bịn rịn, đến nghẹn lời, không thể nói được câu nào nhưng trong tất cả là một hứa hẹn đợi chờ, cho dù bất cứ hoàn cảnh nào. Lúc tiễn đưa bà chứng tỏ được sự mạnh mẽ của một cán bộ gương mẩu trước mắt mọi người nhưng về đêm nước mắt ướt đẫm áo gối. Bây giờ gặp lại, bà sẽ hãnh diện không những vì chung thủy mà còn về hai đứa con gái, dù phải sống dưới chế độ đồi trụy Mỹ Ngụy, nhưng chúng không hư hỏng mà còn giác ngộ cách mạng, trực tiếp tham gia.