Phạm Phan Long, dịch
9-2-2022
Nhà hoạt động năng lượng xanh Ngụy Thị Khanh, người nhận giải thưởng Goldman, là nhà hoạt động mới nhất bị giam giữ vì các cáo buộc liên quan đến thuế.
Tác giả: Marilen Martin
Thục Quyên, phỏng dịch
10-2-2022
Putin và Tập gặp nhau khi khai mạc Thế vận hội ở Bắc Kinh. Sự ủng hộ của Trung Quốc đối với lợi ích của Nga có ý nghĩa gì đối với tình hình ở biên giới Ukraine? Trong bối cảnh căng thẳng giữa họ với Mỹ, Nga và Trung Quốc đang xích lại gần nhau hơn.
Hiếu Bá Linh, lược dịch
2-2-2022
Hôm 30-12-2021, Bild – nhật báo Đức – đưa tin, cựu Phó Thủ tướng Đức Philipp Rösler, 48 tuổi, lần đầu tiên đi thăm trại trẻ mồ côi ở Sóc Trăng, nơi ông đã được nuôi dưỡng 9 tháng đầu đời trước khi được một cặp vợ chồng người Đức nhận làm con nuôi hồi tháng 11 năm 1973.
Tác giả: Willy Wo-Lap Lam
Lê Minh Nguyên dịch
25-1-2022
Sự tranh chấp và ấu đả giữa các bên trong Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) với 95 triệu đảng viên đã trở nên rõ ràng đến mức các cơ quan tuyên truyền của đảng, thường cẩn trọng, thì bây giờ không còn e ngại khi loan tin bẩn thỉu ở nơi công cộng. Một bài báo trên tờ báo chính thống Giám sát và Kỷ luật của Trung Quốc có tựa đề “Đảng đã trở nên mạnh mẽ hơn thông qua huấn luyện cách mạng”, thẳng thừng bày tỏ mức độ đối kháng cao giữa các phe phái khác nhau trong ĐCSTQ.
Tác giả: Nguỵ Kinh Sinh
Lê Minh Nguyên dịch
27-1-2022
Cuộc khủng hoảng ở Ukraine đang diễn ra gay gắt. Sự khác biệt giữa những tuyên bố của Tổng thống Biden và Ngoại trưởng Blinken, và thái độ cứng rắn của Tổng thống Putin đã gây ra nhiều đồn đoán trong dư luận quốc tế.
VETO! và Mạng lưới Người Bảo vệ Nhân quyền
26-1-2022
Ngày 26 tháng 1 năm 2022, ông Julian Pahlke, dân biểu Quốc hội Liên Bang Đức, ra thông báo về việc nhận bảo trợ cho ông Hoàng đức Bình, một người hoạt động bảo vệ nghiệp đoàn và môi sinh ở Việt Nam trong khuôn khổ của chương trình “Dân biểu bảo vệ Dân biểu” của Quốc hội.
Tác giả: Thông tín viên Asia Sentinel
Người dịch: Thân hữu Viet-studies
25-1-2022
Viết thuê, đạo văn tràn lan
Đỗ Kim Thêm tuyển dịch
22-1-2022
Ngày 20/1/2022 đánh dấu một năm kỷ niệm ngày Joe Biden nhậm chức Tổng thống Mỹ. Nhân dịp này, báo chí phương Tây đồng loạt nhìn lại thành quả chấp chính với các quan điểm chung như sau:
Hiếu Bá Linh, tổng hợp
13-1-2022
Theo kế hoạch, một nhà máy của Vinfast tại Mỹ sẽ bắt đầu sản xuất xe hơi điện vào năm 2024. Nhà máy Vinfast ở Đức được lên kế hoạch sẽ bắt đầu sản xuất từ năm 2025. Tính đến nay Phạm Nhật Vượng đã đầu tư 5,4 tỷ đô la Mỹ vào VinFast.
Trúc Lam, chuyển ngữ
5-1-2022
Chào các bạn. Rất vui khi được gặp một số bạn ở đây tại Great Hall và có thể kết nối với tất cả các bạn qua mạng hôm nay.
Tác giả: Marco Wenzel
Vũ Ngọc Chi, chuyển ngữ
5-1-2022
Tiếp theo phần 1: Những năm đầu tiên và phần 2: Quản thúc tại gia
Các cuộc bầu cử Quốc hội được tổ chức vào tháng 11 năm 2015, trong đó Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) cũng tham gia. NLD ghi nhận có một chiến thắng long trời lở đất và từ tháng 2 năm 2016 đã đưa Htin Kyaw, lên làm Tổng thống, một chức vụ mà theo hiến pháp, bà Suu Kyi không thể nắm giữ. Bà Suu Kyi trở thành ngoại trưởng kiêm ủy viên hội đồng nhà nước và là người đứng đầu chính phủ trên thực tế trong một chính phủ mà theo hiến pháp, quân đội nắm 25% số ghế trong quốc hội và ba bộ nội vụ, quốc phòng và biên giới.
Tác giả: Marco Wenzel
Vũ Ngọc Chi, chuyển ngữ
3-1-2022
Tiếp theo Phần 1
Sau Cách mạng Văn hóa và cái chết của Mao Trạch Đông, sau một nhiệm kỳ ngắn ngủi của Hoa Quốc Phong, Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền lãnh đạo Đảng CSTQ. Theo lý thuyết của Đặng, ông ta không quan trọng mèo trắng hay đen, cái chính là nó bắt được chuột, ý thức hệ cộng sản đã lùi bước để ủng hộ chính sách kinh tế thực dụng. Đặng muốn “trước hết để một số ít làm giàu” và tăng cường sự chủ động của tư nhân trong nền kinh tế bằng cách cho phép tư nhân sở hữu tư liệu sản xuất.
Đầu thập niên 1980, giới lãnh đạo Trung Quốc đã thiết lập các liên hệ chính thức với chính quyền ở Miến Điện. Đồng thời, Bắc Kinh cắt các khoản viện trợ trực tiếp cho CPB (Đảng Cộng sản Miến Điện). CPB, hoạt động ngầm từ năm 1949 và chống lại chính quyền trung ương, đã nhận được sự hỗ trợ về tư tưởng, trang thiết bị và vũ khí từ Đảng CSTQ cho đến cuối thập niên 1970. Khoảng một phần tư doanh thu của CPB đến trực tiếp từ Trung Quốc và một nửa tổng doanh thu của nó đến từ thuế quan mà họ thu được từ thương mại biên giới đen với Trung Quốc. Khoản thu nhập này giờ đã bị mất do chính Trung Quốc hiện đã mở cửa khẩu chính thức với Miến Điện và tự đánh thuế. CPB đột nhiên phải tự lực cánh sinh.
Khoảng 80% đồn điền trồng cây thuốc phiện ở đông bắc Miến Điện nằm trong các khu vực do CPB kiểm soát. Cho đến nay, CPB luôn có xu hướng ngăn chặn việc trồng cây thuốc phiện và hỗ trợ việc trồng ngũ cốc thay thế, giờ đây đã tự mình tham gia buôn bán thuốc phiện, một cách phi chính thống để kiếm tiền cho một đảng cộng sản. Giờ đây, họ đòi 20% số thuốc phiện thu hoạch được từ nông dân và cũng đánh thuế việc buôn bán thuốc phiện tại các chợ trong khu vực họ kiểm soát và việc bán thuốc phiện ra bên ngoài. Chẳng bao lâu, hàng tấn thuốc phiện đã chất thành đống trong các kho chứa CPB. Từ đó, nó được đưa, ban đầu chủ yếu là trong các đoàn lữ hành qua địa hình không thể vượt qua, đến các phòng thí nghiệm heroin ở Tam Giác Vàng nằm về phía nam và bán cho họ. Các đoàn lữ hành thường có hàng chục con vật và được canh gác cẩn mật.
Các phòng thí nghiệm heroin lại được điều hành bởi những ông trùm ma túy địa phương, những người đã kinh doanh lâu năm ở Tam Giác Vàng và những người đã đưa các nhà hóa học nước ngoài đến để sản xuất heroin. Heroin từ Tam Giác Vàng được những người nghiện coi là đặc biệt tinh khiết và chất lượng cao. Công đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất heroin IV đặc biệt khắt khe và nếu thực hiện không đúng cách, toàn bộ phòng thí nghiệm sẽ bị nổ tung. Không phải công việc cho các nhà hóa học nghiệp dư.
Để đơn giản hóa việc vận chuyển gian khổ và nguy hiểm, CPB sớm cho phép các ông trùm ma túy điều hành các phòng thí nghiệm riêng trong khu vực của họ và đòi “tiền bảo vệ” cho việc này. Vì cần khoảng 10 kg thuốc phiện để sản xuất 1 kg heroin, trọng lượng của hàng hóa phải vận chuyển đã giảm xuống. Kinh doanh phát triển mạnh ở biên giới với Trung Quốc, nơi CPB đặt trụ sở chính. Những ngôi làng nhỏ trước đây đã trở thành những thành phố cỡ trung bình với các nhà máy điện và cơ sở hạ tầng của riêng họ. Có những sòng bạc và nhà thổ khổng lồ ở những thành phố này. Từ đó, đạo đức của các cấp lãnh đạo của CPB trở nên xấu đi, và thay vì theo đuổi những ý tưởng của Mao Trạch Đông, họ chuyển sang làm kinh doanh mờ ám. Năm 1989, những người lính cấp dưới của đảng đã nổi loạn và CPB chia thành bốn nhóm nhỏ, nhanh chóng được các dân tộc trong khu vực tiếp thu. Ban lãnh đạo đến Trung Quốc, nơi Đảng CSTQ cho họ lưu vong và một khoản tiền trợ cấp nhỏ với điều kiện họ ngừng tham gia chính trị.
Tuy nhiên, việc trồng và buôn bán thuốc phiện vẫn tiếp tục không suy giảm, và các băng đảng xã hội đen địa phương hiện đã hoàn toàn tiếp quản công việc kinh doanh này. Ngoài ra, những người cộng sản còn để lại những kho vũ khí, đạn dược và xe cộ đủ loại mà họ đã nhận được từ Trung Cộng trong thời gian qua. Các tổ chức xã hội đen Trung Quốc đã tiếp nhận những gì còn lại của CPB chỉ trong vài tháng và trở thành tổ chức ma túy có vũ trang nhất trên thế giới. Chính quyền quân sự hiện đã ký kết các thỏa thuận với những lãnh chúa này, hứa cho phép họ được tự do hoạt động và cho phép họ sử dụng các đường phố của Miến Điện để vận chuyển ma túy nếu họ kiềm chế được phiến quân.
Bằng cách này, chế độ độc tài quân sự ở Rangoon đã loại bỏ các đối thủ của mình ở phía đông bắc, những vùng lãnh thổ mà họ chưa từng kiểm soát, nhưng từ đó họ liên tục bị tấn công quân sự. Và sau khi phe đối lập năm 1988 ở Rangoon bị sát hại hoặc phải ngồi tù, NLD suy yếu và Suu Kyi bị quản thúc tại gia, chính quyền có thể củng cố quyền cai trị của mình đối với miền nam Miến Điện, đồng bằng Irrawaddy và khu vực miền trung và theo đuổi công việc kinh doanh của riêng mình mà họ kiểm soát thông qua các công ty MEHL và MEC của họ. Và từ trước tới ngay cả bây giờ không phải là ít. Hoạt động kinh doanh của quân đội bao gồm khai thác mỏ, công trình dân dụng, công ty vận tải, nhà máy bia, nhà máy sản xuất thuốc lá, ngân hàng riêng, hãng tàu riêng, ngành du lịch, v.v… Không có nhánh kinh tế nào mà quân đội không tham gia thông qua các công ty của chính họ, và không có nhà đầu tư nào từ nước ngoài có thể kinh doanh qua mặt chính quyền.
Hiến pháp mới và lộ trình tiến tới dân chủ
Sau cuộc cách mạng 88, chế độ ở Miến Điện thường xuyên chịu áp lực từ phương Tây để thực hiện các cải cách dân chủ như một điều kiện tiên quyết cho các mối quan hệ thương mại và kinh tế cũng như sự công nhận về mặt chính trị. Chế độ mà Trung Quốc và Nga vẫn là “những người bạn” duy nhất, không muốn giao phó quá nhiều cho một mình Trung Quốc và do đó trở nên dễ bị tống tiền. Chế độ quyết định tạo cho mình một diện mạo dân chủ.
Vào ngày 9 tháng 1 năm 1993, một đại hội quốc gia đã được triệu tập để vạch ra những nét chính của một hiến pháp mới. Ủy ban triệu tập Công ước Quốc gia chủ yếu bao gồm các sĩ quan quân đội và các quan chức chính phủ được chọn lọc kỹ lưỡng. NLD đã bị khai trừ khỏi Quốc hội vào năm 1995. Vào tháng 5 năm 1996, chính quyền bắt giữ hơn 500 nhà hoạt động, chính trị gia và những người ủng hộ NLD. Sau đó, đại hội quốc gia bị đình chỉ tạm thời. Aung Suu Kyi được trả tự do và bị cầm tù trở lại nhiều lần trong 21 năm, từ năm 1989 đến 2010. Bà ấy không bao giờ có thể lãnh đạo Đảng một cách bình thường vào thời điểm đó. Năm 1997, Miến Điện trở thành thành viên của ASEAN, chỉ để được quốc tế công nhận. Myanmar chưa bao giờ có đóng góp cho ASEAN và luôn là vấn đề cho khối này lo lắng.
Năm 2003, chính quyền, vốn ngày càng bị cô lập trên bình diện quốc tế, đã đưa ra “lộ trình bảy bước tiến tới dân chủ”. Đại hội toàn quốc lại được triệu tập, nhưng nhiều lần bị đình chỉ. Một hiến pháp cuối cùng cũng nên được soạn thảo, sau đó, “ngay khi luật pháp và trật tự được khôi phục”, các cuộc bầu cử sẽ được tổ chức và trao quyền cho kẻ chiến thắng, một thông báo đầy gian xảo và mưu mẹo, bởi vì hiến pháp được viết theo cách để bảo đảm quyền tối cao của Quân đội, bất kể ai thắng cử.
Vào tháng 11 năm 2005, chính quyền bắt đầu chuyển trụ sở đến thủ đô mới, Naypyidaw. Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 11 năm 2005, Myanmar được yêu cầu đẩy nhanh quá trình dân chủ hóa và trả tự do cho tất cả các tù nhân chính trị.
Cuộc cách mạng nghệ tây và cơn bão Nargis
Vào ngày 15 tháng 8 năm 2007, chính quyền cắt giảm trợ cấp nhiên liệu trong nước, khiến giá cả tăng gấp 5 lần. Từ tháng 9, đã có các cuộc biểu tình, ban đầu là chống lại việc tăng giá. Các cuộc biểu tình sớm hướng tới chống lại chế độ như vậy. Các cuộc biểu tình lần này do các nhà sư Phật giáo lãnh đạo, do đó có tên là Cách mạng nghệ tây.
Cuối tháng 9, chế độ bắt đầu đàn áp những người biểu tình. Quân đội ập vào các tu viện và bắt giữ các nhà sư. Có hàng trăm vụ bắt giữ và tùy thuộc vào thông tin, có tới 200 người chết. Các nhà lãnh đạo dân sự đối lập cũng bị bắt. Internet đã bị cắt. Vào ngày 29 tháng 9, cuộc cách mạng bị dập tắt. Bà Suu Kyi bị quản thúc tại gia trong suốt thời gian đó, và các nhà lãnh đạo NLD hầu hết đã bị bắt trước đó. Vào cuối năm 2007, một ủy ban mới được thành lập để soạn thảo hiến pháp mới, đã bắt đầu công việc của mình. Một cuộc trưng cầu dân ý về hiến pháp sẽ được tổ chức vào tháng 5 năm 2008 và cuộc bầu cử cuối cùng sẽ diễn ra vào năm 2010.
Ngày 2 tháng 5 năm 2008, xoáy thuận Nargis, một xoáy thuận nhiệt đới, đã đổ vào Myanmar. Tình trạng khẩn cấp được ban bố tại 5 tỉnh với tổng số 24 triệu dân. Toàn bộ đồng bằng Irrawaddy, bao gồm Rangoon, bị ảnh hưởng, toàn bộ khu vực bị ngập lụt, hàng chục ngàn người chết và hàng trăm ngàn người vô gia cư bị tàn phá nhà cửa. Khu vực này đã được tuyên bố là khu vực thiên tai. Thiếu lương thực. Tuy nhiên, chế độ không cho phép bất kỳ người giúp đỡ hoặc cứu trợ từ nước ngoài nào vào nước.
Thay vì hoãn cuộc trưng cầu dân ý về hiến pháp ngày 10 tháng 5, chính quyền để người dân bỏ phiếu trong bối cảnh hỗn loạn sau Nargis. Bất kỳ hành động nào để thất bại cuộc trưng cầu dân ý có thể bị phạt tù lên đến ba năm hoặc phạt tiền nặng. Chế độ kêu gọi trên các phương tiện truyền thông toàn quốc hãy đồng ý với hiến pháp. Với tỷ lệ cử tri đi bầu hơn 99%, hiến pháp này sau đó đã được thông qua với 92,4% số phiếu đồng ý. Hầu như không ai trong khu vực bầu cử có điều kiện đọc tài liệu về hiến pháp này. Tuy nhiên, nếu không đồng ý với hiến pháp, sẽ không có bầu cử, người dân bị đe dọa như vậy, một cơ quan truyền thông cũng được sử dụng ở Thái Lan để thực thi một hiến pháp phi dân chủ do quân đội viết ra.
Theo hiến pháp, quân đội Miến Điện được dành 25% số ghế trong quốc hội cho các ứng cử viên do tổng chỉ huy quân đội chỉ định. Một sửa đổi hiến pháp chỉ có thể được thông qua với 3/4 đa số, vì vậy quân đội luôn có quyền phủ quyết trong quốc hội khi cần sửa đổi hiến pháp. Ngoài ra, các chức vụ của Bộ trưởng Nội vụ, Bộ trưởng Quốc phòng và Bộ trưởng Bộ Biên phòng tự động thuộc về các thành viên của quân đội. Bằng cách này, quân đội bảo đảm quyền kiểm soát đối với các bộ quan trọng nhất và sự quản lý của nhà nước, bất kể ai là người chiến thắng trong các cuộc bầu cử. Bất chấp mọi lời hứa cải cách, chính quyền quân đội Miến Điện không bao giờ có ý định từ bỏ quyền kiểm soát đất nước.
Là nhân vật có sức lôi cuốn nhất trong phong trào dân chủ, bà Aung Suu Kyi ngay từ đầu đã là một cái gai trước mắt đối với phe quân đội. Để ngăn việc bà, là người đã kết hôn với một người Anh và có hai con trai với ông (chồng bà mất năm 1999), có thể trở thành Tổng thống, hiến pháp quy định rằng không ai có thành viên gia đình nước ngoài được giữ chức vụ này. Do đó, sau chiến thắng trong cuộc bầu cử năm 2015, NLD đã tạo ra chức vụ Ủy viên Quốc vụ đặc biệt cho bà. Tại cơ quan này, sau đó bà vẫn trở thành người đứng đầu chính phủ trên thực tế.
Trong điều kiện này, các cuộc bầu cử đầu tiên kể từ năm 1990 đã diễn ra vào năm 2010. NLD tẩy chay các cuộc bầu cử và bà Suu Kyi vẫn bị quản thúc tại gia. Lệnh quản thúc tại gia chỉ được dỡ bỏ vào tháng 11 năm 2010. Trong các cuộc bầu cử phụ hồi tháng 4 năm 2012, bà Suu Kyi đã tranh cử một ghế trong quốc hội lần đầu tiên.
Phản ứng với những điều mà nước ngoài coi là một quá trình cải cách dân chủ, Nhật Bản và EU đã nối lại viện trợ phát triển và đình chỉ các lệnh trừng phạt của họ, và Ngân hàng Thế giới đã cấp cho Miến Điện một khoản vay viện trợ. Mỹ cũng hủy bỏ các lệnh trừng phạt của mình. Mọi người đều nhiệt tình và cuối cùng đã nhìn thấy Myanmar trên con đường tiến tới dân chủ. Chuyện này quá đẹp, bạn chỉ muốn tin mà cố tình bỏ qua rằng dù muốn vặn vẹo thế nào đi nữa thì quốc hội Myanmar cũng chỉ là quốc hội trên hình thức và quyền lực vẫn thuộc về quân đội, chỉ bị che đậy một cách đáng xấu hổ dưới áo choàng chế độ dân chủ. Vẻ mặt xấu xí thật sự của quân đội đã thể hiện lại với khuôn mặt tàn nhẫn của nó chưa đầy mười năm sau đó, sẽ được nói nhiều hơn trong phần thứ ba.
Suy ngẫm về nhân cách của Daw Aung Suu Kyi và tương lai của Myanmar
Ngay từ đầu, chính sách NLD dựa trên các nguyên tắc bất bạo động như Mahatma Gandhi đã thực hiện ở Ấn Độ. Suu Kyi là một người có phong cách lôi cuốn với sức hút mạnh mẽ và biết cách truyền cảm hứng cho mọi người. Nhưng bà không phải là một nhà lý luận chính trị như Lenin, Mao, Fidel Castro hay Hồ Chí Minh, những người có tư tưởng đã chín mùi, cũng không phải là một nhà cách mạng có lộ trình thay đổi hệ thống ở Miến Điện. Bà ấy chưa bao giờ giải quyết những ý tưởng về tự do và dân chủ của mình về mặt lý thuyết và cũng chưa bao giờ chỉ ra những ý tưởng của bà nên được thực hiện như thế nào. Nó luôn mơ hồ, nhưng mọi thứ nên luôn được thực hiện thông qua phản kháng bất bạo động. Và vì vậy về cơ bản nó chỉ là một giấc mơ mà bà muốn biến thành hiện thực. Theo nghĩa này, bà ấy thậm chí còn phi chính trị hơn Martin Luther King. Đối với họ, dân chủ nên được thực hiện thông qua hòa giải và đối thoại dân tộc, nhưng Tatmadaw rõ ràng không quan tâm đến việc đối thoại với bà ấy.
Bà Suu Kyi luôn mong muốn một thế giới không có bạo lực và từ chối đáp trả bạo lực bằng bạo lực đối lại. Nhưng những ý tưởng theo chủ nghĩa hòa bình đều đẹp và tốt, và khi đối mặt với một đối thủ tàn nhẫn như Tatmadaw được trang bị tận răng, chúng đều vô hiệu. Tatmadaw tự coi mình là tầng lớp ưu tú của xã hội Miến Điện, nếu không có, người Miến Điện sẽ bị diệt vong, và ít nhất những người lính bình thường, những người sống trong một thế giới song song được che chắn khỏi phần còn lại của xã hội, tin vào điều đó. Họ được truyền bá kỹ lưỡng và họ tin rằng họ đang bảo vệ hệ thống vì lợi ích của cả đất nước. Những thuyết phục tốt đều không có hiệu quả, Tatmadaw đánh đập và giết những người trong mắt họ chỉ là những kẻ thù của Miến Điện, những kẻ muốn hủy diệt đất nước. Và họ đang làm tốt cho Miến Điện trong quá trình này.
Suu Kyi luôn sẵn sàng thỏa hiệp, ngay cả sau nhiều năm bị quản thúc tại gia, bà không có ác cảm với quân đội và nói rằng bà luôn được đối xử tốt. Khi được hỏi về thái độ của mình đối với các vị tướng, bà ấy thậm chí còn nói rằng, họ “thật sự khá tốt”. Ngay sau khi đàn áp các cuộc biểu tình vào tháng 9 năm 1988 và cuộc tắm máu tiếp theo bởi Tatmadaw, có những hành động trả thù của người dân đối với những kẻ được cho là thủ phạm. Một số trong nhóm này đã bị người dân địa phương bắt và giết ngay tại chỗ. Sau đó, khi Suu Kyi biết tin dân chúng bắt giữ các lực lượng đàn áp, bà thường xuyên cử người của mình, thường cũng là các nhà sư, đến đó để cứu sống những người Tatmadaw bị bắt. Chính quyền đã cảm ơn bà ấy ngay sau đó bằng việc bắt giữ bà ấy và quản thúc tại gia. Một chút về chủ nghĩa hòa bình và bất bạo động, người đọc nên tự suy nghĩ riêng cho mình.
Suu Kyi là một Phật tử rất sùng đạo. Bà ấy dậy sớm vào buổi sáng, thiền định và đã đặt ra một kỷ luật nghiêm ngặt cho bản thân khi nói đến thời khóa biểu hàng ngày của bà. Bà là một phụ nữ chăm chỉ với những tính cách hơi thần bí. Quyền lãnh đạo của NLD rơi vào tay bà Suu Kyi vì không ai khác có sức hút mạnh mẽ tương tự và vì bà là con gái của cha bà, anh hùng dân tộc Aung San, vẫn là một thần tượng đối với tất cả người dân Miến Điện. NLD luôn là một phong trào hơn là một đảng. Phần lớn được phát triển một cách tự phát hơn là được lên kế hoạch và chuẩn bị về mặt tư tưởng.
Ngay cả khi bị quản thúc tại gia và che chắn trước công chúng, Suu Kyi vẫn là một biểu tượng cho những người theo bà. Bà là một phụ nữ trẻ dũng cảm, dám thách thức chế độ độc tài quân sự. Dũng cảm Suu Kyi luôn có, bạn phải công nhận bà ấy điều đó. Hình ảnh đã lan truyền khắp thế giới khi bà dũng cảm bước tới gần những người lính đang chĩa súng vào bà. Ngoài việc bất bạo động, lòng dũng cảm và lòng tin tưởng là một trong những chủ đề trọng tâm trong cách giảng dạy của bà, mà bà truyền lại cho những người theo mình. Một trong những cuốn sách của bà có tựa đề “Thoát khỏi sợ hãi”. Người phụ nữ trẻ trung, hấp dẫn và can đảm này là hiện thân của một câu chuyện khơi dậy lòng nhiệt thành không chỉ ở Miến Điện mà trên toàn thế giới. Ngoài giải Nobel Hòa bình, Suu Kyi còn nhận được vô số giải thưởng lớn nhỏ khác, từ các tổ chức công đoàn, tổ chức phi chính phủ đến các trường đại học, những giải thưởng này đã trao cho bà bằng tiến sĩ danh dự. Đó là câu chuyện của David đấu với Goliath, chỉ có Goliath là chưa bị đánh bại trong câu chuyện này. Và cũng như thế giới hướng về Aung Suu Kyi một cách nhiệt tình vì bà thể hiện một câu chuyện mà thế giới rất thích, thì cộng đồng thế giới cũng quay lưng lại với bà một cách đột ngột khi người ta tin rằng bà Suu Kyi không phản đối kịch liệt việc đàn áp người Rohingya và rằng bà không còn tương ứng với lý tưởng mà chính họ đã gán cho Suu Kyi.
Tuy nhiên, Suu Kyi cũng là một người thuộc dân tộc Bamar và vấn đề hòa nhập dân tộc thiểu số chưa bao giờ là một vấn đề gần gũi với trái tim bà. Đối với bà, Myanmar được coi là một quốc gia, các dân tộc thiểu số nên phục tùng lợi ích của quốc gia, nhưng quốc gia đó sẽ như thế nào, đất nước tương lai sẽ được xây dựng dựa trên những tầng lớp nào, liệu nó nên trở thành một Myanmar tư bản chủ nghĩa hay một nước xã hội chủ nghĩa. hoặc một cái gì đó ở giữa, “Con đường thứ ba”, chẳng hạn, luôn là một bí ẩn. Câu hỏi này đến câu hỏi khác, một chương trình đảng sẽ phải làm rõ điều đó. Và điều này giải thích lập trường của bà ấy về câu hỏi Rohingya, một vấn đề mà bà ấy làm mất uy tín của bản thân trên trường quốc tế, nhưng lại đại diện cho một quan điểm khá phổ biến ở Myanmar, ngoại trừ những người bị ảnh hưởng.
Sau khi NLD lãnh đạo chính phủ vào năm 2016, người ta nhanh chóng thấy rõ rằng các nhà lãnh đạo của nó có cùng quan điểm với những người tiền nhiệm của họ khi đề cập đến các vấn đề liên quan đến người dân bản địa Myanmar. Hòa bình và thịnh vượng cho tất cả mọi người chỉ có thể đạt được ở Myanmar nếu quyền của các dân tộc bản địa đã cư trú ở đó trong nhiều thế kỷ và những người không thể bị cai trị ngay cả bởi quyền lực thuộc địa Anh thời đó và phần lớn vẫn giữ được quyền tự trị của họ, cũng nên được ghi trong hiến pháp liên bang mới. Các nhóm bản địa thường hầu như không có bất kỳ giấy chứng nhận quyền sở hữu nào cho đất đai của họ; các thửa đất đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Họ cũng có các nhà lãnh đạo, chính phủ, chính quyền và quân đội của riêng họ.
Khi biên giới quốc gia được vạch ra, bổng dưng chỉ một ngày sau, chúng thuộc về Miến Điện, nhưng chúng không có mối liên hệ nào với chính quyền trung ương của Bamar và hầu như vẫn chưa có được điều đó cho đến ngày nay. Cũng không thể chấp nhận được việc một chính phủ do Bamar lãnh đạo, nhưng cho đến nay, quy định mà không có sự tham vấn, phải tuân theo luật nào, sống như thế nào, phải nộp thuế cho ai, nói ngôn ngữ nào và hơn thế nữa, ai sở hữu đất mà họ đã sống qua nhiều thế hệ. Việc công nhận các quyền về đất đai theo tập quán của người bản địa phải trở thành một phần không thể thiếu của một nước cộng hòa liên bang mới, chưa được thành lập của Myanmar mà không có Tatmadaw.
Chính phủ mới, trên thực tế giống như chính phủ của đảng đối lập, đang nỗ lực hướng tới một nước cộng hòa liên bang sau khi nội chiến kết thúc, đã nhận ra điều này và bắt đầu các cuộc đàm phán với những người thiểu số để giải quyết vấn đề. Bởi vì sự hỗ trợ của các nhóm dân tộc thiểu số và quân đội của họ để lật đổ chính quyền quân sự hiện tại cũng phụ thuộc vào đó. Chỉ khi các nhóm dân tộc bị loại trừ trước đây cảm thấy rằng, cuộc sống của họ sẽ là một cuộc sống tốt hơn trong một quốc gia tương lai, họ mới sẵn sàng đưa binh lính của mình phục vụ cho chính phủ NUG (National Unity Government) để đánh bại Tatmadaw. Nhưng nếu sau này mọi thứ vẫn giữ nguyên như vậy, thì tại sao họ phải chiến đấu ngày hôm nay?
(Còn tiếp)
Tác giả: Jeffrey D. Sachs
Đỗ Kim Thêm dịch
15-12-2021
Lời người dịch: Không như Jeffrey D. Sach đơn giản hoá về sự kềm chế của các phe trong bài viết sau đây, bối cảnh của Ukraine trở nên sôi động hơn khi Tổng Thống Nga Vladimir Putin hôm thứ Năm, 23/12, kêu gọi phương Tây đáp ứng “ngay lập tức” yêu cầu của Nga về bảo đảm an ninh và ngăn chặn Khối Phòng Thủ Bắc Đại Tây Dương (NATO) thu nhận Ukraine làm thành viên. Putin gay gắt nêu lên việc “chính Mỹ mới là kẻ đặt hỏa tiễn sát biên giới đất nước chúng tôi”.
Tác giả: Willy Wo-Lap Lam
Lê Minh Nguyên, dịch
14-12-2021
Trước thềm “Hội nghị thượng đỉnh về dân chủ” của Hoa Kỳ do Tổng thống Joe Biden chủ trì vào hai ngày 9-10 tháng 12, đảng Cộng sản Trung Quốc (CSTQ) đã tìm mọi cách để thuyết phục thế giới rằng “nền dân chủ có tiến trình toàn diện” của TQ là ưu việt hơn các lý tưởng dân chủ được Hoa Kỳ và các đối tác ủng hộ.
Hiếu Bá Linh chuyển ngữ
17-12-2021
Lời người dịch: Tổ chức Phóng viên Không Biên giới (RSF) kêu gọi cộng đồng quốc tế áp đặt các biện pháp trừng phạt nhắm vào các chính trị gia Việt Nam, những người chịu trách nhiệm về bản án không thể chấp nhận được, kết tội Phạm Đoan Trang. Sau đây là bản dịch:
Tác giả: David Brown
Song Phan, dịch
8-12-2021
Nhà cầm quyền Việt Nam sắp xét xử cô Phạm Đoan Trang vào ngày 14 tháng 12 chỉ vì cô luôn đòi hỏi họ tôn trọng quyền tự do công dân được quy định trong hiến pháp Việt Nam.
Kurtulus Bastimar, luật sư nhân quyền
10-12-2021
Tác phẩm “GIÃ TỪ TỰ DO” có tên tiếng Anh là “A FAREWELL TO FREEDOM” là một cuốn tiểu thuyết của tác giả trẻ Kurtuluş Baştimar người Thổ Nhĩ Kỳ. Tác phẩm này đã được báo Book Culture Art Times (BCA Times) của Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ trao giải thưởng “Bút vàng Văn chương” vào năm 2018. Đây là một giải thưởng danh giá được trao cho các tác phẩm văn học xuất sắc, và thúc đẩy quyền tự do ngôn luận.
“Giã từ tự do” có bản gốc được viết bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, sau đó được dịch sang tiếng Anh, và nay Nhà xuất bản Tự Do hân hạnh được tác giả trao bản quyền để chuyển ngữ sang tiếng Việt. Đây là một món quà quý giá mà tác giả ưu ái dành tặng cho người dân Việt Nam, tặng cho những người đã, và đang cống hiến công sức của mình trong cuộc tranh đấu bảo vệ quyền tự do ngôn luận, thông qua Nhà xuất bản Tự Do.
Đề cập đến lý do tặng cuốn sách này cho người Việt Nam, tác giả Kurtulus viết:
“Trong câu chuyện này, bạn đọc Việt Nam sẽ bắt gặp một cuộc chiến chống lại quyền phát biểu ý kiến, quyền biểu hiện, và sự thiếu hiểu biết về sự tồn tại của một xã hội. Theo tôi, người Việt Nam đang phải đối mặt với sự cấm đoán tương tự về quyền có ý kiến, và quyền tự do ngôn luận. Do đó, tôi dành tặng ấn bản tiếng Việt của “Giã từ Tự do” cho Nhà xuất bản của tôi: Nhà xuất bản Tự do cùng với toàn thể thành viên của nó, và tất nhiên cũng là cho tất cả người dân Việt Nam.”
***
“Giã từ dự do” là câu chuyện kể về những người Kurd bị xua đuổi, bị trục xuất khỏi ngôi làng của họ. Họ bị tấn công, bị tra tấn và bị lưu đày khỏi quê hương. Những ngôi nhà, những ngôi làng mà người Kurd sinh sống đều bị thiêu rụi. Văn hóa và ngôn ngữ giao tiếp của người dân bị cấm sử dụng một cách triệt để trong cả khu vực công cộng lẫn riêng tư. Đã từng có nhiều người Kurd bị bắt, bị tra tấn, bị bỏ tù chỉ vì họ nói, hát, viết, xuất bản… bằng tiếng Kurd. Các đảng chính trị đại diện cho quyền lợi của người Kurd bị cấm đoán.
Người Kurd đã từng có những hoạt động chính trị bao gồm cả các hoạt động ôn hòa vì các quyền dân sự cơ bản, cũng như các cuộc nổi dậy vũ trang, và chiến tranh du kích, với đòi hỏi về các quyền tự quyết, và một nhà nước độc lập của riêng người Kurd. Nhưng cho đến nay, ước mơ tự trị, tự quyết này vẫn luôn bị dập tắt.
Nhân vật chính của “Giã từ dự do” – Ahmet – đưa độc giả đến một thế giới vô định. Đọc “Giã từ tự do”, độc giả Việt Nam sẽ chứng kiến cuộc chiến của người Kurd để giành lại quyền thể hiện bản thân bằng tiếng mẹ đẻ, một cuộc chiến để tồn tại với bản sắc, văn hóa và ngôn ngữ của riêng họ. Theo chân Ahmet, độc giả có thể cảm nhận được, thấy được, hiểu được những nét đặc sắc trong văn hóa của người Kurd và ý chí vươn lên của họ. Nhưng, đau buồn thay, mọi nỗ lực của họ đều bị những thế lực hắc ám chà đạp. Những thế lực này có thể là những phe phái cầm quyền tàn bạo, cũng có thể là đám xã hội đen bẩn thỉu. Thân phận người dân thật nhỏ bé và mong manh dưới những gót giày thô bạo. Nhưng, cho dù bị chà đạp, ý thức mãnh liệt để nói lên sự thật và bảo vệ bản sắc cội nguồn vẫn không bao giờ bị dập tắt.
Nhận xét về “Giã từ tự do”, nhà văn người Cuba Zoé Valdés – một người chạy trốn chế độ cộng sản và là bạn thân của tác giả – đã viết:
“Có những tác phẩm của một số tác giả làm bạn cảm nhận đến đổ bệnh. Khi tôi đọc Albert Camus tôi đã bị ốm nặng, sốt cao, tôi không thể đọc được vì tôi đã khóc rất nhiều trước vẻ đẹp của ngôn ngữ, và nội dung của tác phẩm. Điều tương tự đã xảy ra khi tôi đọc cuốn tiểu thuyết này. Tôi đã khóc, tôi bị bệnh. Nó đã xảy ra bởi vì đúng vào thời điểm mà người dân Cuba, đặc biệt là thanh niên, trẻ em, thanh thiếu niên, tràn ngập các đường phố trên đảo Cuba từ đầu này đến đầu kia trên đất nước tôi, và hô vang đòi tự do.
Giữa nỗi đau này cho đất nước, tôi đã đọc được “A Farewell to freedom.” Những gì cuốn sách tuyệt vời này dạy là sẽ không có tự do khi không có hy vọng, và khi chúng ta mất hy vọng, con đường dẫn đến tự do sẽ trở nên xa xôi và ảm đạm hơn rất nhiều.”
Đồng cảm với nhà văn Zoé Valdés, độc giả Việt Nam cũng sẽ tìm thấy trong tác phẩm này những vấn đề tương tự với hoàn cảnh Việt Nam. Những thảm cảnh của dân oan bị tấn công, bị xua đuổi ra khỏi ngôi nhà, ngôi làng của họ cùng với nó là tình trạng chiếm dụng đất công của những kẻ có quyền có thế… Tình trạng nghèo khổ bất công của tầng lớp lao động, nạn thất học và lao động sớm của trẻ em nghèo; tình trạng bất bình đẳng giữa các thành phần xã hội; tình trạng quá tải trong các bệnh viện diễn ra tràn lan… Quyền tự do xuất bản, tự do ngôn luận bị cấm đoán; những diễn đàn độc lập bị tấn công, nhà xuất bản độc lập bị săn lùng… Những nhà văn, nhà thơ, nhà báo bị cầm tù, bị đày đọa chỉ vì họ dám viết ra những điều họ nghĩ, họ thấy, họ cảm nhận. Từ những Lê Đạt, Trần Dần, Phùng Quán, Phan Khôi của thập niên 1950, những Vũ Thư Hiên, Hoàng Cầm của thập niên 1970 – 1980, cho đến những Phạm Thành, Phạm Chí Dũng, Phạm Đoan Trang của ngày hôm nay… hay những shipper bị bắt, bị đánh chỉ vì chuyển giao những cuốn sách đến tay bạn đọc, một Nguyễn Bảo Tiên bị khởi tố chỉ vì đi gửi sách… những thế hệ người Việt vẫn tiếp nối nhau ngẩng cao đầu để nói lên sự thật, cho dù có bị đày đọa vì sự thật đó.
Dù là ở hai quốc gia xa xôi, dù là hai dân tộc chưa có nhiều hiểu biết lẫn nhau, nhưng những nhà văn cam đảm như Ahmet hay Phùng Quán đều có chung một ý chí kiên cường:
“Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu”
(Phùng Quán – Lời mẹ dặn)
Tác giả Kurtuluş Baştimar là một luật sư nhân quyền, và là một nhà văn trẻ sinh năm 1993 tại Kars, một tỉnh phía Đông của Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 2014, anh chuyển đến sống ở khu tự trị Crimea, và tại đây, cảm nhận về cuộc sống lưu đày của người dân Krym, anh đã viết tác phẩm đầu tay: “Education, War and Exile.”
Năm 2015, anh chuyển đến Hà Lan học Luật châu Âu tại Đại học Maastricht, và tốt nghiệp vào năm 2018. Trong những năm học Đại học, anh tập trung vào quyền con người. Vì thế, tất cả các tiểu thuyết, và truyện ngắn của anh đều xoay quanh các quyền cơ bản, và tự do.
Nhận xét về người bạn của mình, nhà văn Zoé Valdés viết:
“Đã có nhiều luật sư mong muốn được trở thành nhà văn lớn, và một số người đã đạt được thành công nhất định. Kurtulus Bastimar là một trong những người như vậy. Đây là trường hợp người bạn của tôi, người mà cuộc đấu tranh cho nhân quyền đã giao phó nhiệm vụ cho anh ấy. Cuộc đấu tranh đó đã đưa cả hai chúng tôi vào con đường này, cùng sống, và cùng hy vọng. Các bài viết, và tác phẩm của anh ấy đã đưa tôi đến gần anh một cách sâu sắc qua khát vọng tự do, và tình yêu con người nồng nhiệt.”
Ngoài việc viết sách, tác giả Kurtuluş Baştimar còn là một luật sư nhân quyền quốc tế. Anh sớm đã có những cống hiến cho công việc bảo vệ quyền con người ở nhiều nơi trên thế giới. Sứ mệnh của anh không chỉ dừng lại trong phạm vi đất nước Thổ Nhĩ Kỳ. Đối với anh, một khi đã là luật sư nhân quyền, anh phải đấu tranh để bảo vệ cho bất kỳ ai bị xâm phạm về các quyền cơ bản trên khắp thế giới. Chính điều này đã thôi thúc và khiến anh trở thành một luật sư nhân quyền cho những nhà hoạt động, những tù nhân chính trị – những người đang đối mặt với sự lạm quyền ở Cuba, Iran, Pakistan, Việt Nam và nhiều quốc gia khác nữa. Anh đã và đang theo dõi sát sao những trường hợp này và bảo vệ họ tại các phiên họp của “Nhóm làm việc về việc bắt giữ tuỳ tiện của Liên Hiệp Quốc”.
Những nỗ lực cùng với sự nhiệt tình của anh nhằm tác động lên các quyết định của Nhóm này. Hiện nay, anh cũng đang là luật sư nhân quyền quốc tế bảo trợ cho một số tù nhân lương tâm Việt Nam bị chính quyền đàn áp vì quyền tự do ngôn luận, tự do biểu đạt và tự do xuất bản.
Trần Quốc Việt dịch
10-12-2021
Địa vị của Nicolae Ceausescu đã trở nên đặc biệt rõ ràng khi quân đội của năm nước thuộc Khối Warsaw vượt qua biên giới Tiệp Khắc vào tháng 8 năm 1968. Ông bắt đầu tránh xa Liên Xô và cũng bắt đầu kiên quyết yêu cầu phải tôn trọng độc lập và chủ quyền của Romania. Yêu cầu vốn căn bản này, được lặp đi lặp lại mỗi dịp và thậm chí hoàn toàn chẳng vì lý do gì cả, nhưng nó trở thành một câu thần chú mà tạo ra hai mối lợi về sau. Phương Tây khích lệ “địa vị đặc biệt” của Romania bằng những khoản cho vay, chút ít đầu tư, quy chế tối huệ quốc, v.v…
Tác giả: Maximilian Kalkhof
Hiếu Bá Linh, biên dịch
6-12-2021
Thỏa thuận liên minh Đỏ-Vàng-Xanh (liên minh 3 đảng SPD – FDP – Đảng Xanh cầm quyền nước Đức) công khai nêu ra các xung đột với Trung Quốc. Tân Chính phủ liên bang Đức rời bỏ đường lối của Angela Merkel: Im lặng đối với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tân Bộ trưởng Ngoại giao Annalena Baerbock đã tuyên bố một đường lối cứng rắn hơn – Bắc Kinh phản ứng lập tức.
***
Khi kết thúc nhiệm kỳ, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã trao tặng bà Angela Merkel một danh hiệu thể hiện rõ tầm quan trọng của bà Thủ tướng Đức đối với nhận thức về Trung Quốc trên thế giới. Trong cuộc gọi điện video vào tháng 10, ông Tập Cận Bình đã gọi người đứng đầu chính phủ Đức sắp mãn nhiệm là “người bạn cũ của nhân dân Trung Quốc”.
Ở Bắc Kinh, đó không phải là một từ ngữ thông thường, mà là một danh hiệu vinh dự. Cho đến nay, chỉ có 600 người được vinh danh với danh hiệu này, như một nhà báo Trung Quốc cho biết.
Như thế (với danh hiệu này), Merkel đứng chung hàng với các nhà cách mạng xã hội chủ nghĩa và sau này là các nhà độc tài Fidel Castro, Robert Mugabe và Hugo Chávez, nhưng cũng đứng chung hàng với cựu Tổng thống Mỹ Richard Nixon và người sáng lập Microsoft Bill Gates.
Danh hiệu vinh dự này cho thấy những gì mà bà Thủ tướng Đức đã làm lợi cho Bắc Kinh. Trong bối cảnh quan hệ Mỹ – Trung Quốc xấu đi thảm hại, bà Merkel là một mỏ neo cho sự ổn định của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Bắc Kinh không phải lo sợ bị bà chỉ trích trên công luận. Điều đó bây giờ đang thay đổi.
Tuy nhiên, với sự ra đi của Angela Merkel, câu hỏi về mối quan hệ của Đức với Trung Quốc lại nảy sinh. Hai tác nhân sẽ định hình chính sách của chính phủ liên minh Đỏ-Vàng-Xanh đối với Trung Quốc ở mức độ trọng yếu: Thứ nhất là tân Thủ tướng Olaf Scholz (63 tuổi, thuộc đảng SPD) và thứ hai, tân Bộ trưởng Ngoại giao Annalena Baerbock (40 tuổi, thuộc Đảng Xanh).
Nhân vật thứ hai có lập trường đối với Cộng hòa Nhân dân cứng rắn hơn nhiều so với người đứng đầu chính phủ tương lai. Gần đây nhất, trong một cuộc phỏng vấn với nhật báo Đức “taz”, thậm chí bà không loại trừ việc tẩy chay Thế vận hội mùa đông ở Trung Quốc. “Có nhiều cách khác nhau để ứng phó với các chính phủ, điều này chắc chắn sẽ được thảo luận trong những tuần tới“, nhà lãnh đạo Đảng Xanh nói.
Bắc Kinh phản ứng lập tức: Đại sứ quán Trung Quốc tại Berlin cảnh báo về một cuộc đối đầu giữa hai nước. “Điều mà chúng ta cần là những người xây cầu (nối liền) thay vì những người xây tường (ngăn cách)”, một nữ phát ngôn viên của Đại sứ quán viết trong một tuyên bố.
Thỏa thuận liên minh giữa SPD, Đảng Xanh và FDP cung cấp các dấu hiệu đầu tiên cho thấy mối quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sẽ như thế nào trong tương lai. Thỏa thuận liên minh gồm 177 trang đề cập đến Trung Quốc mười hai lần (Nga sáu lần). Sau một vài đề cập rải rác trong các chương, hai đoạn riêng biệt được dành riêng cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trong chương “Trách nhiệm của Đức đối với Châu Âu và Thế giới”.
Một ngôn ngữ khác với ngôn ngữ của bà Merkel
Điều đáng ngạc nhiên đầu tiên và quan trọng nhất là ngôn ngữ. Nó rõ ràng và ít uyển ngữ (mỹ từ) hơn ngôn ngữ của bà Merkel. Điều đáng chú ý là trong thỏa hiệp, liên minh Đỏ-Vàng-Xanh công khai nói đến bốn điểm xung đột với Trung Quốc. Đó là: Yêu sách của Bắc Kinh ở Biển Đông
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tuyên bố chủ quyền khoảng 90% diện tích biển giữa Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Indonesia và Malaysia. Các thẩm phán tại Tòa án Trọng tài Thường trực ở La Hay đã bác bỏ các tuyên bố của Trung Quốc vào năm 2016. Nhưng Bắc Kinh làm ngơ phán quyết này. Liên minh Đỏ-Vàng-Xanh muốn giải quyết các tranh chấp lãnh thổ “trên cơ sở luật biển quốc tế”, đây là một cú đâm bên hông vào việc Bắc Kinh không sẵn lòng công nhận phán quyết trọng tài ở La Hay.
Sự độc lập của Đài Loan
Bắc Kinh coi hòn đảo này là một phần lãnh thổ của mình. Nhưng trên thực tế, Đài Loan là một quốc gia độc lập chưa bao giờ nằm dưới sự kiểm soát của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Liên minh Đỏ-Vàng-Xanh yêu cầu “sự thay đổi hiện trạng ở eo biển Đài Loan chỉ có thể được thực hiện một cách hòa bình và theo thỏa thuận của hai bên“.
Vi phạm nhân quyền ở Tân Cương
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã thiết lập một hệ thống trại giam và lao động cưỡng bức ở tỉnh phía tây bắc nhằm đàn áp một cách có hệ thống người thiểu số Duy Ngô Nhĩ theo đạo Hồi. Liên minh Đỏ-Vàng-Xanh muốn “đưa ra làm chủ đề” những vi phạm nhân quyền này.
Tình hình ở Hồng Kông
Năm ngoái, Bắc Kinh đã đưa ra “luật an ninh quốc gia” ở Đặc khu hành chính để chống lại những người ủng hộ dân chủ trong quốc hội và xã hội dân sự. Luật này vi phạm nguyên tắc tự trị “một quốc gia, hai hệ thống” của Hồng Kông. Liên minh Đỏ-Vàng-Xanh quan tâm đến việc làm cho nguyên tắc đó “được phục hồi”.
Mặc dù liên minh Đỏ-Vàng-Xanh cứng rắn đối với Trung Quốc hơn nhiều so với Thủ tướng Merkel, nhưng ở Bắc Kinh cho đến nay thỏa thuận liên minh vẫn không gây ra nhiều điều hơn là một vết nứt. Phạm vi cho những thay đổi bước ngoặt trong quan hệ Đức – Trung Quốc là giới hạn, tờ “Thời báo Hoàn cầu”, cơ quan ngôn luận quốc tế của những người cộng sản Trung Quốc, viết trong một bài xã luận như thế. Sẽ không có gì nhiều hơn là những cuộc đấu khẩu nhỏ trong liên minh Đỏ-Vàng-Xanh.
Ý chính bài viết: Không quốc gia nào trên thế giới – và chắc chắn không phải là Đức – có thể đủ khả năng để làm phiền Trung Quốc hùng mạnh. Nhưng nếu tình hình trở nên khó khăn, tờ báo hô hào chủ nghĩa dân tộc này viết thêm, Trung Quốc sẽ “để đạn bay trong chốc lát”.
Về cơ bản, ngôn ngữ kiên quyết đối với Trung Quốc là tốt, Mareike Ohlberg, nữ chuyên gia về Trung Quốc tại Quỹ Marshall của Đức ở Berlin, nói về thỏa thuận liên minh. Nhiều điểm khá mơ hồ, nhưng thỏa thuận liên minh đưa ra những điểm khởi đầu cho những kế hoạch cụ thể hơn.
Tuy nhiên, chuyên gia chỉ trích đề xuất về vấn đề Hồng Kông. Bà nói: “ ‘Một quốc gia, hai hệ thống’ rất tiếc là hầu như đã chết và cực kỳ khó có thể phục hồi nguyên tắc này. Ở đây, có lẽ sẽ có ý nghĩa hơn nếu đưa ra những biện pháp trừng phạt cụ thể đối với ‘luật an ninh quốc gia’.”
Andreas Fulda, giáo sư tại Đại học Nottingham, cũng đánh giá tương tự. Từ sự tan rã của xã hội dân sự Hồng Kông, tân chính phủ liên bang Đức rốt cuộc phải rút ra được kết luận đúng đắn. “Để ít nhất là làm cho việc trang bị vũ khí khổng lồ của Trung Quốc trở nên khó khăn hơn, các biện pháp kiểm soát xuất khẩu vũ khí của Đức phải được thắt chặt“, chuyên gia Trung Quốc yêu cầu. “Công nghệ lưỡng dụng của Đức không được tiếp tục sử dụng để hiện đại hóa quân đội Trung Quốc“.
Hiếu Bá Linh, biên dịch
4-12-2021
Tân Bộ trưởng Ngoại giao Đức Annalena Baerbock lên tiếng tán thành một đường lối cứng rắn hơn đối với Trung Quốc và sẽ đề cập rõ ràng về những thảm trạng ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đại sứ quán Trung Quốc tại Berlin phê phán bà Baerbock không nhìn các mối quan hệ giữa hai nước một cách “tổng thể”.
Đỗ Kim Thêm dịch
Phỏng vấn độc quyền của Max Hofmann, Trưởng ban Tin tức DW thực hiện
Tác giả: Ngụy Kinh Sinh
Dịch giả: Lê Minh Nguyên
23-11-2021
Hội nghị TƯ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã đưa ra một nghị quyết rất kỳ lạ; cái gọi là nghị quyết lịch sử đảng bắt chước các triều đại trước (Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình) nhưng lại không giống. Theo cách thức của hai “Nghị quyết lịch sử” ĐCSTQ của các triều đại trước, lẽ ra nghị quyết sau phải phủ nhận các nghị quyết trước rồi tạo ra lãnh đạo cốt lõi và lộ trình mới cho tương lai. Đó là phương pháp truyền thống mà ĐCSTQ sử dụng để viết lại lịch sử đảng hầu tạo dựng hình ảnh vĩ đại cho bản thân. Đây là ý định của Tập Cận Bình khi áp dụng hình thức viết sử đảng này.
Đáng tiếc, Tập Cận Bình không có được khí thế như hai “Nghị quyết lịch sử” đầu tiên của ĐCSTQ, cũng không có uy tín như hai lãnh tụ cốt lõi đầu tiên, chưa kể là cần có một lộ trình mới mà có thể được toàn ĐCSTQ đồng thuận. Vì vậy, ngay cả khi trước phiên họp Trung ương 6 của Khóa 19 ĐCSTQ, đã có sự phản kháng mạnh mẽ với hơn 500 ý kiến được đưa ra và những thay đổi cơ bản đã được thực hiện.
Mặc dù với sự trợ giúp của trợ lý Lật Chiến Thư (Li Zhanshu) người đã gầm lên như sấm, ông Tập vẫn không thể trấn áp được phe đối lập. Ngay cả khi Tập Cận Bình giao cho chính mình làm trưởng nhóm biên soạn, ông ấy cũng không thể bắt mọi người đồng ý những gì mà ông ấy muốn đưa vào nghị quyết.
Tất cả những thất bại này chứng minh rằng, cái gọi là sự quan sát của các phương tiện truyền thông nước ngoài nói rằng ông Tập đang kiểm soát mọi thứ, chỉ là một luồng dư luận được hướng dẫn bởi sự tuyên truyền với tầng suất cao của ĐCSTQ đưa ra thế giới bên ngoài, chứ không phải tình hình thực tế trong cái hộp đen.
Trước Hội nghị TƯ 6 của Ban Chấp hành Trung ương, cuộc đấu đá nội bộ trong ĐCSTQ đã được giấu trong hộp đen và không được biết đến với thế giới bên ngoài. Chỉ là các phương tiện truyền thông bên ngoài bị lừa dối bởi sự tuyên truyền của ĐCSTQ ra thế giới nên mới tung hô cho Tập Cận Bình. Từ một số báo cáo sau TƯ 6, người ta được biết rằng nội dung tranh luận rất gay gắt, vượt xa khỏi thói quen thông thường của sự ù lì, và cuối cùng dẫn đến thất bại ý định của Tập Cận Bình. Điều này đã đẩy cuộc đấu tranh nội bộ ĐCSTQ lên một cao trào mới.
Trước phiên họp TƯ 6 và sau khi nghị quyết mà về cơ bản đã được hoàn thiện, manh mối của cuộc đấu đá nội bộ bắt đầu được phơi bày. Bởi vì Truơng Cao Lệ (Zhang Gaoli), người có lập trường cứng rắn và có sức khỏe tốt duy nhất trong phe Giang Trạch Dân, đã mạnh mẽ nhất lên tiếng phản đối việc phủ nhận đường lối của Đặng Tiểu Bình và Giang Trạch Dân, và tình nhân của ông ta trong nhiều năm đã phàn nàn về ông ta trên mạng xã hội. Xuất phát từ một tranh chấp tình yêu rất cá nhân, và tòa án có thể đã dễ dàng giải quyết, nhưng truyền thông đã thổi phồng với màu sắc chính trị.
Sau đó, khi các tổ chức và các phương tiện truyền thông quốc tế đưa tin ồn ào, nó đã trở thành một vụ xì căng đan quốc tế lớn làm xấu mặt nhà nước ĐCSTQ và ảnh hưởng đến Thế vận hội Olympic 2022. Có thể nói, Tập Cận Bình đã nâng một tảng đá nhưng tảng đá lại đập vào chân ông ta. Ông ta không biết phải trả lời như thế nào, tiến thoái lưỡng nan. Điều này thậm chí còn khiến những phát ngôn nhân của đội chiến lang ĐCSTQ sửng sốt, và thậm chí còn bắt đầu nói những điều vô nghĩa. Dư luận quốc tế, kết hợp vụ án nhà báo công dân (bà Zhang Zhan làm tin về Covid và bị bắt giam), vụ mất tích của Chủ tịch Interpol Mạnh Hoành Vĩ (Meng Hongwei) v.v… khiến Ủy ban Trung ương ĐCSTQ trở nên rối ren.
Trước khi vụ án của cô Bành Súy (Peng Shuai) tố cáo Trương Cao Lệ bị chìm xuống, và thậm chí trước khi vụ án được đưa đơn, giờ đây chúng ta lại đọc được về đứa con ngoài giá thú của Tập Cận Bình. Điều này cũng giống như khi họ thổi phồng về vụ án sinh con ngoài giá thú của Vương Kỳ Sơn (Wang Qishan) và vụ án tham nhũng nghìn tỷ đô la, dẫn đến việc Vương phải từ chức. Liệu làn sóng xì căng đan này có dẫn đến việc Tổng Bí thư ĐCSTQ Tập từ chức hay không? Thật khó để nói. Nói tóm lại, bầu không khí hiện tại rất bất lợi cho ông Tập.
Lý do đằng sau việc Vương Kỳ Sơn từ chức vài năm trước là do Vương muốn nắm quyền lãnh đạo, bằng cách dựa vào việc chống tham nhũng để xây dựng uy tín của mình và hiện thực hóa những lý tưởng chưa hoàn thành của Chu Dung Cơ (Zhu Rongji). Hậu quả là, với sự kết hợp giữa những kẻ có quyền lực và đứng sau hậu trường, cùng sự kết hợp bên trong và những quốc gia bên ngoài đã đánh Vương tơi tả, cho đến khi ông ta phải buồn bã từ chức, chỉ còn giữ chức phó chủ tịch nước không có quyền lực. Người Trung Quốc thường gọi đó là “Nghiệp báo kiếp này”.
Lần này, bầu không khí mà Chủ tịch Tập đang phải đối mặt thậm chí còn tồi tệ hơn. Ông ta đã xúc phạm toàn bộ giới có ưu thế trong ĐCSTQ, trong chính phủ, quân đội, giới học giả và giới kinh doanh, nhưng cùng lúc không mang lại nhiều lợi ích cho người dân Trung Quốc bình thường. Tập đã phủ nhận đường lối cải cách của Đặng và Giang và chào hàng đường lối độc tài của Mao Trạch Đông. Rõ ràng, điều này khó cho cả Đảng CS và cả nước chấp nhận. Vì vậy, trong ván cờ quyết liệt trước Phiên họp TƯ 6, người ta đã kỳ vọng vào chiến thắng của phe chống Tập.
Vì ông Tập muốn làm sống lại hệ thống hoàng đế truyền thống (quân chủ), nên về mặt logic, ông phải chấp nhận cái gọi là mô hình Trung Quốc của Đặng Tiểu Bình (tư bản triều đình) đây là mô hình truyền thống của nền chính trị chuyên quyền quản lý nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, chế độ độc tài độc đảng của ĐCSTQ là mô hình của chế độ nông nô (phong kiến) và nó không thể kết hợp với mô hình truyền thống tiên tiến hơn (của tư bản triều đình). Vì không có tính chính đáng của sự kế thừa và hệ tư tưởng Nho giáo phù hợp, cái gọi là mô hình Đặng Tiểu Bình đã không kế thừa tính chính đáng, ngoài việc kế thừa một siêu tham nhũng.
Đây là một mô hình nghịch lý. Làm thế nào để giải quyết mâu thuẫn cố hữu này? Các học giả và chuyên gia không có câu trả lời. Với trí tuệ ở cấp lãnh đạo lữ đoàn (chỉ huy chừng 3,000 đến 5,000 quân) ông Tập tin rằng con đường chuyên quyền cực đoan và độc tài cá nhân mà Mao Trạch Đông đi, cuối cùng là con đường phù hợp với đặc điểm Trung Quốc và có thể khiến người dân thường phải tuân theo.
Thật không may, người Trung Quốc ngày nay không phải là những người cuối đầu tuân phục như thời kỳ tiền Thanh, và giới có ưu thế hiện nay cũng không phải là tín đồ của Tân Nho giáo (thuộc triều đại nhà Tống và nhà Minh). Nên tất cả chúng ta hãy ngồi thưởng thức dưa hấu và tiếp tục xem tuồng diễn đang đến hồi gay cấn.
Lê Minh Nguyên dịch
20-11-2021
Sau Phiên họp Trung uơng 6 Khoá 19 của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), truyền thông nước ngoài nhận xét chung rằng, Tập Cận Bình đã giành được thắng lợi lớn và hoàn thành việc kiểm soát toàn diện hơn, do đó không có gì lo ngại về giấc mơ hoàng đế của ông sẽ thành hiện thực tại Đại hội lần thứ 20 vào năm tới v.v… Giống như những dự đoán (của ông Ngụy) trước đây, điều đó chứng tỏ rằng những nhà bình luận này đã liên tục viết nguệch ngoạc các vấn đề của Trung Quốc và chỉ nghiên cứu bề nổi của nó mà không tìm hiểu sâu.
Tác giả: Willy Wo-Lap Lam
Lê Minh Nguyên, dịch
12-11-2021
Từ ngữ “lãnh đạo suốt đời” không có xuất hiện trong thông cáo tóm tắt Nghị quyết về Lịch sử đảng được thông qua tại Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) Khóa 19 tổ chức tại Bắc Kinh từ ngày 8 đến ngày 11 tháng 11. Tuy nhiên, không còn nghi ngờ gì về việc Chủ tịch Tập Cận Bình đã giành được sự chấp thuận của Ủy ban Trung ương để tại vị thêm một nhiệm kỳ, nếu không muốn nói là hai nhiệm kỳ 5-năm nữa.
Tác giả: Margaret A. Kilgore
Trần Quốc Việt dịch
10-4-1970
Sài Gòn (UPI) – Đệ nhất Phu nhân Việt Nam Cộng Hòa, bà Nguyễn Văn Thiệu nói bà thỉnh thoảng lo sợ bọn khủng bố Việt Cộng hay những kẻ chống đối chính phủ sẽ đặt bom ở dinh Độc lập. Nhưng bà bình thản chấp nhận điều này.
Bà nói trong cuộc phỏng vấn: “Vâng, tôi cũng nghĩ nhiều chuyện có thể xảy ra và thỉnh thoảng tôi đọc báo nói bọn khủng bố định đặt bom, nhưng tôi không thể lúc nào cũng phải sống trong sợ hãi. Tôi tin, nếu mình sống tốt thì Chúa luôn che chở mình”.
Bà Thiệu là người Công giáo ngoan đạo và chồng bà lúc lấy bà cũng đổi đạo từ Phật giáo sang Công giáo. Bà nói, bà ít khi dùng đến tầng hầm an ninh ở dinh Độc Lập. Bà nói: “Chúng tôi trữ thực phẩm ở dưới tầng hầm an ninh cho những người lính bảo vệ chúng tôi. Nhưng tôi không thích nó vì nó kín mít quá”.
Những bao cát chất đống bên ngoài cửa sổ phòng khách của dinh nhìn ra sân chính trong dinh thự bằng bê tông rộng lớn, hiện đại ở trung tâm Sài Gòn…
Bà Thiệu, tên Mai Anh, là phụ nữ 40 tuổi, đẹp, khiêm nhường, thuộc tầng lớp thượng lưu tại Mỹ Tho ở đồng bằng sông Cửu Long, phía nam Sài Gòn. Nói tiếng Anh qua người thông dịch, và hay cười, bà thú thật rằng, bà không thích chuyện chính trị cho lắm, hay cuộc sống tù túng ở trong dinh vốn được canh gác nghiêm ngặt này.
Bà nói: “Tôi khác với bà Nhu, tôi không khuyên nhà tôi về việc chính trị hay chỉ cho ông cách điều hành chính quyền. Mối quan tâm của nhà tôi là chính trị còn mối quan tâm của tôi là phúc lợi xã hội. Tôi có thể giúp nhà tôi nhiều nhất như vậy thôi”.
Bà nhắc đến bà Ngô Đình Nhu, người em dâu quyền thế nhưng gây ra nhiều tranh cãi dưới chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm, là người đã bị lật đổ và bị sát hại vào năm 1963.
Phúc lợi xã hội
Đệ nhất Phu nhân tự hào là chủ tịch Hội Phụ nữ Việt Nam Phụng sự Xã hội và tự hào bà đã giúp quyên góp tiền bạc để xây Bệnh viện Trưng Vương, chuyên giúp đỡ trẻ em tàn tật. Bà cũng dành rất nhiều thời gian đi thăm các thương binh hay giúp đỡ các quả phụ của những người lính tử trận.
Bà nói: “Tôi đã làm các công tác xã hội từ lâu trước khi nhà tôi trở thành tổng thống. Chắc bà biết, tôi đã là vợ của quân nhân Việt Nam cho nên tôi luôn luôn thấy cần thiết giúp đỡ mọi người”.
Bà thường xuyên diễn thuyết để vận động gây quỹ, “nhưng tôi vẫn không bao giờ hết sợ hãi khi tôi nói trước công chúng”. Bà nói, mỗi tháng bà nhận hàng trăm lá thư từ những người xin tiền bạc hay xin chính quyền giúp đỡ.
Với sự trợ giúp của thư ký, bà đích thân phúc đáp phần lớn thư từ và thường xuyên gởi tiền riêng của bà giúp đỡ họ.
***
Gia đình ông Thiệu có hai con, Anh, 16 tuổi, đang theo học trường dòng tại Thụy sĩ và Lộc, 8 tuổi, đang theo học tại Đài Loan và sống với người anh của tổng thống.
Bà giải thích: “Tốt hơn chúng nên học ở ngoại quốc. Nếu chúng sống với cha mẹ ở dinh thì chúng sẽ bị hư vì nuông chiều”.
Theo tất cả những lời kể lại thì điều thú vị ở cuộc hôn nhân của ông bà Thiệu là điều hiếm xảy ra ở Châu Á: Cuộc hôn nhân của họ không vì môn đăng hộ đối, mà vì tình yêu.
Tấm hình về một cô gái xinh đẹp mà một đồng nghiệp của ông mang theo trong người đã khiến ông Thiệu lúc ấy là một sĩ quan trẻ đem lòng say mê. Ông tìm cách gặp bà, yêu bà rồi lập gia đình với bà vào năm 1951.
Bà Thiệu là người thích nấu ăn. Bà có một căn bếp nhỏ xây kế bên khu nhà ở của gia đình là nơi bà có thể tha hồ nấu ăn mà không phải dùng đến các phòng bếp thường dùng ở trong dinh.
Bà cảm thông với nỗi khổ của những người nội trợ Việt Nam mỗi khi họ đi chợ trước cảnh vật giá tăng lên do lạm phát, nhưng bà chỉ nói “chồng tôi cố gắng hết sức để làm được gì đấy về giá cả, nhưng xem ra cũng khó”.
Khi được hỏi, liệu sẽ bãi bỏ lệnh cấm khiêu vũ ở Sài Gòn vì tình hình chiến sự có vẻ đang dịu đi, bà đáp: “Khi hoà bình được vãn hồi, thì chúng tôi sẽ khiêu vũ trở lại”.
***
Bà Thiệu đang mong đợi chuyến thăm viếng Nhật cùng với Tổng thống vào giữa tháng 8 khi Ngày Việt Nam được tổ chức ở hội chợ thế giới EXPO’70. Bà nói, bà dự định đặt may vài chiếc áo dài cho chuyến đi này… Bà thích áo dài với cổ đứng cao và tay áo dài, hơn là thích âu phục.
Vì bà đích thân giải quyết phần lớn thư từ của bà, đồng thời tham gia vào nhiều công tác xã hội, cho nên ngày nào bà cũng bận.
Bà nói, “tôi thường dùng cơm trưa vào giữa chiều, còn Tổng thống và tôi dùng cơm tối vào lúc nửa đêm”. Bà thường đi với ông Thiệu thăm viếng binh sĩ, hoặc khi ông đi diễn thuyết chính trị.
Dinh Độc Lập ít khi tiếp đãi khách, mặc dù bà cũng đón tiếp những nhóm nhỏ khách thăm viếng quốc gia, vào những dịp như thế bà thường được phu nhân của các bộ trưởng giúp đỡ.
Bà thích nấu những món ăn thuần túy Việt Nam hay những món ăn Đông phương khác.
Giống như bao người vợ khác, bà cảm thấy bị tổn thương trước bao chỉ trích công khai về chồng bà.
Bà nói: “Phản ứng ban đầu của tôi là muốn đáp trả, nhưng nhà tôi bảo tôi rằng chỉ trích cũng là một phần của chính trị, cho nên tôi phải làm quen với nó thôi”.
Nguồn: https://readingroom.vietnam.ttu.edu/images.php?img=/images/236/2361212117.pdf