Kỷ niệm 50 năm ngày ký kết Hiệp định Paris (27-1-1973 — 27-1-2023

Đỗ Kim Thêm

26-1-2023

Ảnh chụp tại buổi lễ ký kết Hiệp Định Paris. Nguồn: RFA

Nội dung Hiệp định

Hiệp định về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết ngày 27 tháng 1 năm 1973 tại Paris, gồm có 9 chương và 23 điều khoản. Nội dung mà Chính phủ Hoa Kỳ, Chính phủ VNDCCH, Chính phủ VNCH và Chính phủ CMLTMNVN đồng thuận không phải là thoả hiệp giữa hai phe thắng và thua, mà nhằm quy định việc ngưng mọi cuộc giao tranh, Hoa Kỳ rút quân trong vòng 60 ngày ra khỏi Việt Nam, QĐNDVN được ở lại miền Nam; bù lại, Hà Nội trao trả các tù binh Hoa Kỳ, VNCH và MTGPMN cùng hoạt động trên lãnh thổ của mình.

Theo dự kiến, sau đó, miền Bắc và miền Nam bàn bạc và thoả thuận việc Việt Nam thống nhất, từng bước sẽ được thực hiện trên cơ sở không bên nào cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào và không có sự can thiệp của nước ngoài.

Ngay sau khi ký kết Hiệp định Paris, bất cứ một người dân Việt bình thường nào cũng nhận ra là Bắc Việt chiếm trọn mọi ưu thế và thành công trong việc lừa đảo được Henry Kissinger.

Nhìn chung, Bắc Việt và MTGPMN ba thắng lợi chính: Một là, toàn bộ binh sĩ Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam; hai là, công nhận sự hiện diện của 140.000 quân chính quy QĐNDVN ở miền Nam và chính phủ “ma” MTGPMN; ba là, quy chế khu phi quân sự sẽ không được luật quốc tế công nhận và không ai sẽ can thiệp khi vi phạm.

Dù kiểm soát trên 50% dân chúng và 75% lãnh thổ, nhưng VNCH thất bại nặng nề, vì không có tiếng nói chính thức trong hội nghị. Hai mục tiêu duy trì binh sĩ Hoa Kỳ để tiếp tục hỗ trợ QLVNCH và trục xuất binh sĩ QĐNDVN ra khỏi miền Nam đều không có kết quả.

Trong một mật ước với Hà Nội, Tổng thống Richard Nixon hứa sẽ viện trợ tái thiết cho miền Bắc và sẽ không hành quân trên lãnh thổ Lào và Campuchia.

Hoa Kỳ tự cho mình thắng lợi khi mang binh sĩ hồi hương, một lối thoát trong danh dự mà Tổng thống Kennedy và Johnson không đạt được. Tổng thống Nixon buộc Hà Nội phải từ bỏ yêu sách là một chính phủ liên hiệp không có chính quyền Tổng thống Thiệu tham gia và công nhận chính phủ VNCH là một thực thể chính trị để đối thoại.

Tổng thống Nixon ý thức về khó khăn của việc thực hiện Hiệp định vì QĐNDVN còn đóng tại miền Nam và việc tiếp tục ném bom miền Bắc trong tương lai là khó khả thi.

Khi cải thiện bang giao Nga-Hoa, Tổng thống Nixon mở rộng được các ưu thế dành cho Hoa kỳ, nên các áp lực quốc tế và quốc nội trong cách giải quyết vấn đề Việt Nam giảm đi đáng kể; dù vậy, ông vẫn còn nhiều lo âu về mật ước với Tổng Thống Thiệu.

Riêng Kissinger, vốn dĩ không dành thiện cảm cho VNCH và quan tâm đến tương lai của miền Nam, nên cảm thấy nhẹ nhàng hơn. Ông tiên đoán sẽ có một khoảng cách thích hợp cho việc đình chiến và sự sụp đổ của miền Nam. Khi được hỏi, miền Nam sẽ còn sống được bao lâu sau ngày ngưng bắn, ông trả lời: “Nếu may mắn, chế độ Sài Gòn chỉ sống sót được trong vòng một năm rưi.” 

Dù tiên đoán Hà Nội không tôn trọng Hiệp định và miền N am sụp đổ, tại sao Kissinger không chuẩn bị các biện pháp khác nhằm ngăn chặn các hậu quả tàn khốc này? Đây là câu hỏi mà mọi người Việt miền Nam đặt ra, nhưng không được Kissinger trả lời.

Do sự im lặng này mà hầu hết người miền Nam nguyền rủa Kissinger đã phản bội VNCH và xem nhẹ các giá trị sống còn của miền Nam, vô đạo đức không thể tha thứ, khi đem Hiệp định Paris làm một món quà triều cống cho Trung Quốc.

Kissinger luôn né tránh biện minh trách nhiệm đạo đức cá nhân và những sai lầm trong Hiệp định. Ông tiếp tục đổ trách nhiệm cho chính quyền và dân chúng miền Nam là những người có quyền tự do tự định đoạt số phận của mình. Về trách nhiệm của phía Mỹ, ông dẫn chứng là Nixon bị buộc phải từ chức sau vụ Watergate và Quốc hội còn không muốn tiếp tục viện trợ cho VNCH.

Giải Nobel Hoà bình cho Hiệp định Paris

Ngay trong thời điểm ký kết cũng như về sau, công luận quốc tế luôn nghi ngờ thiện chí hiếu hoà nghiêm chỉnh của Bắc Việt và giá trị thi hành của Hiệp định. Gần đây, Uỷ ban Nobel Hoà bình đã tiết lộ nhiều chi tiết mới trong việc quyết định trao giải cho Kissinger và Lê Đức Thọ, hai nhà đàm phán Mỹ và Hà Nội.

Hai ngày sau khi ký kết hiệp định Paris, John Sanness, học giả, thành viên người Na Uy của Ủy ban đã đề cử Kissinger và Lê Đức Thọ được nhận giải. Lập luận chính của Sanness là: “… điều tích cực là các cuộc đàm phán đã dẫn đến một thỏa thuận sẽ chấm dứt xung đột vũ trang giữa Bắc Việt Nam và Hoa Kỳ, … trong thời gian tới người ta mới hiểu rõ (loại) ý nghĩa mà các hiệp định sẽ có trong thực tế”. Ông Sanness qua đời năm 1984.

Quyết định trao giải đã bị hai trong số năm thành viên của Ủy ban phản đối và từ chức. Hiện nay, tất cả thành viên này đã qua đời.

Khi nhìn lại việc quyết định trao giải trong toàn cảnh, ông Stein Toennesson, giáo sư tại Viện Nghiên cứu Hòa bình Oslo, đã nhận xét là Ủy ban cũng đã nhận thức được hiệp định: “không có khả năng được giữ vững, … ngạc nhiên hơn lúc đó ủy ban có thể đưa ra một quyết định tồi tệ như vậy…. vì đã đưa Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam… mà không có bất kỳ giải pháp hòa bình nào ở Nam Việt Nam.”

Việc Lê Đức Thọ nhận giải có chi tiết khác: “… vì Uỷ ban không thể trao cho một mình Kissinger… sau đó họ bổ sung thêm Lê Đức Thọ, người mà họ biết rất ít.”

Khi được tin đề cử nhận giải, ông Thọ có gởi điện văn từ chối với nội dung: “Khi hiệp định Paris về Việt Nam được tôn trọng, không còn tiếng súng và hòa bình thực sự được thiết lập ở miền Nam Việt Nam, tôi sẽ xem xét việc nhận giải thưởng này”.

Một chi tiết khác là Kissinger muốn trả lại giải ngay sau khi Sài Gòn sụp đổ. Qua một bức điện gởi tới Ủy ban, ông bày tỏ: “hòa bình mà chúng tôi tìm kiếm thông qua các cuộc đàm phán đã bị đảo lộn bằng vũ lực”.

Nhưng Ủy ban quyết định không nhận lại giải thưởng. Cho đến nay, Kissinger không bình luận gì về các nguồn tin mới này.

Lễ kỷ niệm 50 năm ngày ký kết Hiệp định Paris tại Việt Nam

Dù ý nghĩa của việc tái lập hoà bình cho Việt Nam qua Hiệp định không còn nữa khi Bắc Việt đã công khai vi phạm hưu chiến, nhưng ngày 13 tháng 1 năm 2023, Liên hiệp Các tổ chức hữu nghị Việt Nam đã tổ chức chương trình “Hiệp định Paris 1973 – Ôn lại quá khứ, hướng tới tương lai”.

Tham dự buổi gặp gỡ hữu nghị này có 26 đại biểu quốc tế đến từ 15 quốc gia. Các tham dự viên là những người đã ủng hộ cho Việt Nam trong công cuộc kháng chiến.

Trong thông điệp gởi tới cuộc hội thảo, bà Nguyễn Thị Bình nhấn mạnh “… Hiệp định Paris là thắng lợi to lớn về chính trị và ngoại giao của nhân dân Việt Nam, là bước ngoặt lịch sử dẫn đến cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”.

Nhân dịp này, Phó chủ tịch Liên hiệp Các tổ chức hữu nghị Phan Anh Sơn khẳng định: “Hiệp định Paris là chiến thắng của “lương tri”, của niềm tin vào chính nghĩa, là chiến thắng của nhân dân Việt Nam ….”

Ngày 16 tháng 1 năm 2023, Bộ Ngoại giao, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Ban Tuyên giáo Trung ương và Bộ Quốc phòng đồng tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “50 năm Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam: Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm”. Tham dự hội thảo có khoảng 350 đại biểu. Đa số thuộc giới lãnh đạo, các nhân chứng lịch sử, đại diện thành viên hai đoàn đàm phán, các nhà khoa học và chuyên gia.

Hội nghị kết thúc với khẳng định: “Hiệp định Paris tạo cục diện mới để đi đến thắng lợi cuối cùng là giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, một minh chứng lịch sử sống động cho khát vọng hòa bình và truyền thống ngoại giao hòa hiếu của dân tộc Việt Nam”.

Có hai điều đáng chú ý trong hai buổi lễ này. Thứ nhất, không còn ai nhắc đến hai lời hứa long trọng cho tương lai tươi sáng của miền Nam trong khi Bắc Việt và MTGPMN nỗ lực ngoại vận tại Paris.

Thủ tướng Phạm văn Đồng tuyên bố với báo Le Monde ngày 18 tháng 5 năm 1972 là: “Miền Nam sẽ phải chuyển đổi dần dần để giảm bớt những khác biệt. Với thời gian, thống nhất đất nước sẽ tự nó đến. Thời gian sẽ là một yếu tố quyết định. Để thành công, cần phải có một lịch trình khá mềm dẻo”.

Sau đó, cùng một lập trường, ngày 11 tháng 9 năm 1972, Chính phủ Cách mạng Lâm thời CHMNVN long trọng cam kết tại Paris là, “sẵn sàng đi đến một hiệp định mà miền Nam sẽ không bị áp đặt dưới một chế độ cộng sản hoặc một chế độ do Mỹ tài trợ.”

Hiệp định Paris có ghi rõ các nguyện vọng này của bốn bên:

Điều 11: “hai bên sẽ thực hiện hòa hợp, hòa giải dân tộc, xóa bỏ thù hằn, cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử với bên này hay bên kia, bảo đảm các quyền căn bản của người dân”.

Điều 15: ”thực hiện thống nhất từng bước trên cơ sở bàn bạc và thoả thuận giữa miền Bắc và miền Nam, không bên nào cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào.“

Thứ hai, nội dung hội thảo kỷ niệm 50 năm này hoàn toàn giống với Hội thảo khoa học “50 năm Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân (1968-2018) – Tầm vóc và bài học lịch sử” được Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức ngày 26 tháng 1 năm 2018.

Cuối cùng, Hội thảo 2018 cũng khẳng định tương tự, có nghĩa là, nêu cao ý nghĩa lịch sử và tôn vinh những đóng góp to lớn của đảng viên và nhân dân trực tiếp chiến đấu, không ai nhắc đến việc thảm sát hơn 5000 dân Huế vô tội.

Nhìn chung, các hội nghị khoa học đã khép lại quá khứ lịch sử một cách có khôn ngoan chọn lọc. Thảm sát thường dân Huế và vi phạm Hiệp định Paris không phải là sự thật lịch sử và là bài học cho thế hệ hậu chiến.

Kết luận

Hiệp định Paris đã thuộc về quá khứ khi nửa thế kỷ trôi qua. Nhìn lại thời gian lắng đọng, chúng ta có những lý do chính đáng để không tham gia mừng lễ kỷ niệm 50 năm ngày ký kết mà cần tỉnh thức:

Một là, chúng ta cùng nhau thành tâm tưởng niệm cho các những người của hai miền đã nằm xuống và không còn cơ hội để nhận ra ý nghiã đích thực và cao cả về công cuộc đấu tranh và Hiệp định Paris.

Hai là, đảng tiếp tục dành độc quyền tuyên truyền thành tích và ban phát chân lý lịch sử. Hiệp định Paris không bao giờ là một minh chứng cho khát vọng hòa bình và truyền thống ngoại giao hòa hiếu của dân tộc. Đảng đã lừa dối được Mỹ, công luận thế giới, đồng bào miền Bắc và miền Nam về ý nghĩa đấu tranh. Đảng vi phạm hưu chiến, gây bao tang tóc cho nhân dân miền Nam và toàn dân đại bại vào năm 1975.

Ba là, Việt Nam đã được một mục tiêu thống nhất lãnh thổ, những vẫn chưa thành công trong việc kiện toàn độc lập, hoà giải và hoà hợp dân tộc. Đó chính là ý nghĩa mà nhân dân mong muốn. Bối cảnh đất nước thay đổi, nhiều giông bão đang khởi đầu.

Bốn , đã đến lúc thế hệ hậu chiến phải đứng lên đảm nhận trách nhiệm chính trị trước lương tâm và lịch sử để hoàn thành giấc mơ thanh bình và thịnh vượng của toàn dân. Lịch sử đang nhìn chúng ta và chờ đợi một khởi đầu mới huy hoàng cho đất nước, mà mục tiêu trước mắt là toàn thể người dân quyết định quyền dân tộc tự quyết thông qua các cuộc bầu cử tự do.

________

Bài liên quan: Hiệp định Paris 1973: Diễn tiến, Nội dung và Hiện trạngBước đột phá và Hiệp định ParisRichard Nixon, Henry Kissinger và Sự Sụp Đổ Của Miền Nam

Bình Luận từ Facebook

12 BÌNH LUẬN

  1. Năm 1989 chủ nghĩa Cộng Sản ở Đông Âu sụp đổ, sau đó 1991 Liên Bang Nga sụp đổ theo. Chủ nghiã tư bản toàn thắng chớ không phải ngược lại: “chũ nghĩa tư bản ở Nga và Đông Âu đã giải thể, đó là chiến thắng của phe cộng sản !”

  2. Bài viết trên được rất nhiều lời bình hơn những đề tài khác , tôi mừng vì kết quả trên , những lời bình rất nghiêm túc và sắc bén rỏ nét về những suy nghĩ và lập trường chính trị ,chúng ta đứng trên phe phái tiến đến Chính nghĩa và Sự thật . Xin cám ơn tác giả ,người đọc luôn trân trọng những cống hiến qua những bài viết và luôn tôn trọng những ý kiến riêng tư của tác giả nếu có , Thân ái !


  3. “Hòa ước” Paris Nửa Thế kỷ trôi qua nhưng Nội Chiến vẫn mãi còn chưa bao giờ kết liễu !!!
    ********************

    https://www.youtube.com/watch?v=iiylMm0xzNI
    Hanoi’s Road to the Vietnam War with Pierre Asselin


    Tôi nghĩ việc này chứng minh rất nhiều điều về Chính thể Sài Gòn là Chính quyền như thế nào. Đối với tôi, việc loại bỏ Sài Gòn là bằng chứng rõ ràng nhất mà chúng ta có cho thấy rằng Chế độ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu không phải là một “cỗ máy bù nhìn”

    Đó là một Chế độ rất độc lập. Đó là một Chính quyền chính danh. Chính thể Cộng hòa ở Miền Nam, mà Hà Nội vẫn luôn mô tả là một chế độ bù nhìn và nhiều người Mỹ thân Hà Nội cũng cho là vậy, luôn luôn là một Thực thể chính trị có tính Chính danh….

    https://uncpress-us.imgix.net/covers/9780807854174.jpg?auto=format&h=648
    Pierre Asselin, Giáo sư Lịch sử tại Đại học San Diego State, Hoa Kỳ

    “Hòa ước” Ba Lê Nửa Thế kỷ trôi qua
    Nội Chiến vẫn mãi còn đó chưa xóa nhòa
    Vẫn còn trăn trở còn chia ly đứt ruột
    Nội chiến Hai từ Thu ấy đâu xa !
    “Tuyên ngôn độc n..ập” trò lừa phản bội
    Lọt vào quỹ đạo đánh Pháp rước Tàu qua
    Rồi chống Mỹ cứu Khựa nhờ Mỹ giúp
    Hiện đại hóa Tàu cộng từ ấy tiến xa
    Hiệp định Paris : Toàn Dân Việt mất tất
    Bo..ác và đảng ‘đại thắng’ bưng bô Tàu ca ca….

    https://universite-digitale1.com/wp-content/uploads/2018/05/MeVietNam.jpg
    TRIỆU LƯƠNG DÂN VIỆT

    https://history.sdsu.edu/people/asselin

    Giáo sư Pierre Asselin là Chủ tịch Dwight E. Stanford về Quan hệ Đối ngoại Hoa Kỳ tại Khoa Lịch sử.
    Xuất thân từ Vùng Pháp ngữ Quebec ở Gia Nã Đại – Canada, ông có bằng Cử nhân của Trường Cao đẳng Glendon (Canada), bằng Thạc sĩ của Đại học Toronto và bằng Tiến sĩ. từ Đại học Hawaii ở Manoa.

    https://www.youtube.com/watch?v=-EcAjhdS7R4
    The Vietnam War at 50: The Vietnamese Perspective Part II with Pierre Asselin

    Lĩnh vực chuyên môn chính của ông là lịch sử quan hệ đối ngoại của Hoa Kỳ, tập trung vào Đông và Đông Nam Á và bối cảnh Chiến tranh Lạnh rộng lớn hơn.
    Giáo sư Pierre Asselin là người có thẩm quyền hàng đầu về Chiến tranh Việt Nam, một chủ đề đã thu hút ông từ khi xem phim Rambo: First Blood Part II của Sylvester Stallone thời học sinh trung học.

    Giáo sư Pierre Asselin đặc biệt quan tâm đến việc ra quyết định của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam trong giai đoạn 1954-1975. Ông nói tiếng Việt và thường xuyên sang Việt Nam nghiên cứu. Mối quan tâm của ông đối với chủ nghĩa quốc tế và chủ nghĩa xuyên quốc gia trong Chiến tranh Việt Nam

    Giáo sư Pierre Asselin là tác giả của A Bitter Peace: Washington, Hanoi, and the Making of the Paris Agreement (Nhà xuất bản Đại học Bắc Carolina, 2002), đoạt giải Kenneth W. Baldridge năm 2003, và Hanoi’s Road to the Vietnam War, 1954- 1965 (Nhà xuất bản Đại học California, 2013), người chiến thắng Giải thưởng Sách Arthur Goodzeit 2013. Cuốn sách thứ ba của ông, Vietnam’s American War: A History, được Nhà xuất bản Đại học Cambridge phát hành vào năm 2018. Nó khảo sát kinh nghiệm của cộng sản Việt Nam trong Chiến tranh Việt Nam, tập trung vào việc David Việt Nam đã thành công như thế nào trong việc đánh bại Goliath của Mỹ. Các ấn phẩm đáng chú ý khác bao gồm “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hội nghị Giơ-ne-vơ 1954: Phê bình chủ nghĩa xét lại” trong Lịch sử Chiến tranh Lạnh (2011); “Revisionism Triumphant: Hanoi’s Diplomatic Strategy in the Nixon Era” in Journal of Cold War Studies (2011); và “‘We Don’t Want a Munich’: Hanoi’s Diplomatic Strategy, 1965-1968” trong Diplomatic History (2012).

    Asselin là đồng biên tập của The Cambridge History of the Vietnam War, Volume III: Endings (Nhà xuất bản Đại học Cambridge, sắp xuất bản [2020]). Gần đây, anh ấy đã bắt đầu thực hiện dự án cuốn sách thứ tư của mình, lịch sử về “Chiến tranh Việt Nam toàn cầu” coi cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam như một hiện tượng chính trị, xã hội và văn hóa quốc tế đã thay đổi thế giới một cách không thể thay đổi và đóng vai trò là điềm báo cho vô số nguyên nhân xuyên quốc gia. Ngoài việc kể lại lịch sử của chính cuộc xung đột, cuốn sách sẽ đề cập đến những tác động của cuộc chiến ở Hoa Kỳ, Tây Âu, Thế giới Cộng sản và Thế giới thứ ba. Asselin gần đây đã được giới thiệu trong loạt Bài giảng về Lịch sử của C-SPAN, trình bày một bài nói chuyện có tựa đề “Chiến tranh Việt Nam, 1965-75” có thể xem tại

    https://www.c-span.org/video/?442295-2/ vietnam-war-1965-75.

  4. Tất cả là trò lừa bịp , Mỹ ký hiêp định Paris vì Mỹ không muôn chết cho ‘lý tưởng tự do” nữa và bỏ rơi VNCH .
    Chỉ trong vòng hơn 1 năm sau khi ký HĐ , cộng sản bắc Việt đã trắng trợn xé bỏ HĐ , cắm cờ của chính phủ “ma” CHCMLTCHMNVN lên xe tăng xua quan xâm lực VNCH .

    Cộng sản “thắng lợi” nhưng Viet Nam mất đất mất biển đảo, nhân sự cao cấp trong chính quyền đều phải được tầu cộng thông qua trước, nhân dân không có các quyền tự do cơ bản thì ” thắng lợi” để làm gì ???

  5. Hoà Bình mà được như nưóc Đức THỐNG NHẤT mới là mong ước của tất cả con
    dân nước Việt, chứ cái hoà bình theo ý đồ của CS.miền Bắc thì xin lỗi, là không
    bằng tờ giấy lộn mà chúng ký kết để lừa bịp cả thiên hạ !
    Sau nhều nằm nhìn lại, những nhà lý luận phương Tây đã “mở mắt” qua bài viết
    trên báo của họ… rằng thì là mà… giới tinh hoa của Mỹ đã thất bại với hiệp định
    Paris năm 1973, từ lý luận đến hoạt động phản chiến ?
    Bây giờ, bà Bình mới phân bua bà ta không phải có tên là Nguyễn Thị Bình mà là
    Nguyễn Thị Yến Sa (theo bà dược sĩ Hồng Sương thì tên là N.T. Châu Sa) nhưng
    bà ta bao biện quanh co… rằng thì là mà… đổi tên Bình là vì muốn hoà bình !?

  6. Tác giả này ảo tưởng quá mức khi hy vọng “đã đến lúc thế hệ hậu chiến phải đứng lên đảm nhận trách nhiệm chính trị trước lương tâm và lịch sử để hoàn thành giấc mơ thanh bình và thịnh vượng của toàn dân”
    Hãy nhìn xem dân Đông Đức cũ trong năm 1989 mà thấy rằng hàng ngày có từ 100.000 cho đến 300.000 người dân xuống đường đòi dân chủ, cho nên mới có thay đổi tình hình. Hiện nay, bằng cách nào và ai có thể huy động cho thế hệ trẻ Việt Nam hành động tương tự như vậy? Chuyện khó tin.

    • Tôi cũng bi quan như ý kiến của chị Bảy. Tôi không dám đề cập chuyện lớn lao như tác giả về các vấn đề của thế hệ hậu chiến hay huy động dân chúng xuống đường tranh đấu, mà xin nói về nhưng điều cụ thể trong gia đình tôi.
      Các con và cháu tôi sinh sau năm 1975 nay đã trưởng thành, dù là có học tương đối, nhưng không có ý thức về dân chủ hay lịch sử. Không đứa nào biết gì về Hiệp định Geneve hay Paris, biến cố Mậu Thân. Còn ngày 30 tháng 4 cũng chỉ là một dịp nghĩ lể dài hạn cùng với ngày 1 tháng 5, nên ai cũng mừng và không tìm hiểu tại sao. Đó là kết quả của chính sách giáo dục ngu dân của chế độ mới mà ai cũng thấy.
      Tôi cũng thấy người Việt mình ở hãi ngoại lâu năm cũng không có học hỏi gì về giá trị dân chủ mà truyền bá cho người trong nước, chỉ giúp cho gia đình là ưu tiên sau là hưỏng thụ.
      Tác giả hy vọng thay đổi cho tương lai đất nước, nhưng chuyện này phải có ý thức và quyết tâm hành động. Tôi không tin là người Nga hay Đông Âu thông minh hay can đảm hơn người Việt, nhưng tại sao họ làm được sự thay đổi còn người mình thì không. Tại sao tác giả không đề cập tới chuyện khác biệt này. Hy vọng bà con giải thích rõ hơn.

  7. Trích từ bài viết,
    ‘ Một chi tiết khác là Kissinger muốn trả lại giải ngay sau khi Sài Gòn sụp đổ. Qua một bức điện gởi tới Ủy ban, ông bày tỏ: “hòa bình mà chúng tôi tìm kiếm thông qua các cuộc đàm phán đã bị đảo lộn bằng vũ lực”.
    Nhưng Ủy ban quyết định không nhận lại giải thưởng. Cho đến nay, Kissinger không bình luận gì về các nguồn tin mới này. ‘

    * Tác giả ĐKT đưa ra một loạt những ý kiến, đều được đóng ngoặc “…”, ngầm ý muốn người đọc hiểu đây là lời của “ông Stein Toennesson, giáo sư tại Viện Nghiên cứu Hòa bình Oslo”,

    Nhưng câu đầu trong đoạn văn trích trên…
    Một chi tiết khác là Kissinger muốn trả lại giải ngay sau khi Sài Gòn sụp đổ…
    thì sao chẳng thấy ông Thêm bỏ trong “…”?

    Xin thắc mắc, có phải đây cũng là “trích” lời của ông Stein Toennesson, giáo sư tại Viện Nghiên cứu ?
    Hay là lời của riêng tg Thêm lách vào, khiến đầu năm mới bộ mặt Kít trông sáng sủa dễ thương hơn?!
    Ông lấy đâu ra tin động trời nầy, Ngài Kít muốn trả lại tiền giải nobel!

    “Kissinger muốn trả lại giải ngay sau khi Sài Gòn sụp đổ”

    Ôi quả thật tử tế, liêm sỉ, fair play!

    Nhưng sự đời vẫn trôi qua, miền Nam đã mất, dân Nam tiếp tục như thế cho đến nay!
    Tiền thưởng nobel thì đã không còn, cho nên “Kissinger không bình luận gì về các nguồn tin mới này” là…
    khôn nhất cái tần đời rồi, ông ạ!

    • Tôi cũng có nghi ngờ về tác giả DKT khi viết là “Kissinger muốn trả lại giải ngay sau khi Sài Gòn sụp đổ”; “Kissinger không bình luận gì về các nguồn tin mới này”. Tôi có kiểm chứng lại và thấy các hảng tin quốc tế như Reuters, Guardian, BBC đều có loan tin này và các mạng truyền thông Việt ngữ RFA, VOA, BBC đều có dịch lại. Reuters đưa tin nguyên tác như sau:
      “Kissinger, 99 and still a prominent commentator on foreign policy and conflict resolution including most recently the Ukraine war, did not immediately respond to requests for comment on the release of the 1973 Nobel Peace files.
      On May 1, 1975, the day after the fall of Saigon that ended the war, Kissinger tried to return the prize, via a U.S. cable to the Nobel committee in which he said the “peace we sought through negotiations has been overturned by force”. The committee refused to take back the award.”
      Xin xem toàn văn ở đường link https://www.reuters.com/world/nobel-prize-body-knew-kissingers-1973-vietnam-deal-unlikely-bring-peace-2023-01-11/
      Tóm lại, không có gì “là động trời, của riêng tg Thêm lách vào, khiến đầu năm mới bộ mặt Kít trông sáng sủa dễ thương hơn?!
      Các bình luận: “Ông lấy đâu ra tin động trời nầy, Ngài Kít muốn trả lại tiền giải nobel!” là sai lầm đáng tiếc. Hy vọng lẩn sau ông anh nên cẩn trọng hơn. Xin lổi khi tôi phải đường đột mà tham gia chuyện này dù không có liên quan đến tôi. Kính.

      • Cám ơn anh đã làm sáng tỏ.
        Dù sao, tg bài viết cũng nên củng cố thêm bằng chứng cho những khẳng định tế nhị như nói về Kissinger, một nhân vật gây phản cảm đối với người Việt miền nam kể từ 30/4/75,
        theo cách anh trích dẫn trên đây chẳng hạn, để sự việc không bị hiểu lầm.

        Không phải ai cũng có thể tìm ra ngọn ngành cho mọi chuyện mình bắt gặp.

  8. Như thị như thị. Không có ai đánh lừa ai, sau HĐ Paris 1973, chũ nghĩa tư bản ở Nga và Dông Âu đã giải thể, đó là chiến thắng của phe cộng sản !

Leave a Reply to Nguyễn thị Bảy Hủy trả lời

Xin bình luận ở đây
Xin nhập tên của bạn ở đây