30/4 – Điều cần nói

Đoàn Bảo Châu

26-4-2021

Tôi sẽ không nói ngày ấy là ngày gì bởi với bên thắng cuộc, ngày ấy là ngày “chiến thắng”, “giải phóng”, “thống nhất”, bên thua cuộc là ngày “mất nước”, “thua cuộc” là ngày bắt đầu một thời kì mà những người dính líu tới quân quyền của VNCH sẽ bắt đầu chịu sự đày đoạ trong những trại “cải tạo” trong nhiều năm và bắt đầu làn sóng vượt biển đầy máu và nước mắt của hàng triệu người để tìm một cuộc sống mới.

Tôi sẽ không nói tới lý tưởng bởi bên nào cũng có lý tưởng của riêng mình, bên nào mà chẳng cho là lý tưởng của mình cao đẹp hơn.

Người ta nên bàn về lịch sử, hiểu lịch sử để định hình hiện tại và tương lai, người ta cũng có quyền phán xét lịch sử nhưng với một con mắt bao dung bởi vào thời điểm ấy nhận thức của những nhân vật lịch sử có sự hạn chế và nếu chúng ta, những kẻ hậu sinh với nhận thức của thời đại nếu được trao lá cờ vào những thời điểm quá khứ, liệu ta có chắc là sẽ không mắc sai lầm?

Điều đáng nói là về quan niệm, phát ngôn và ứng xử của những người cầm quyền hiện thời với ngày 30/4. Sau 46 năm mà quan niệm, phát ngôn và ứng xử vẫn y như trước thì đấy mới là một sự man rợ, cố chấp và u muội.

Máu người Việt đã thấm trên từng mét vuông trên mảnh đất hình chữ S, người phía nào cũng là con của mẹ Việt, cũng đều đau xót. Số phận của dân tộc, của mảnh đất hình chữ S này đã khốc liệt và đau khổ biết bao khi tài chính, vũ khí và lương thực được cấp cho người Việt của hai bên chiến tuyến bắn giết nhau.

Các bạn đứng ở bên nào, tôn thờ lý tưởng của bên nào là quyền của các bạn, với tôi mọi lý tưởng chỉ là phù phiếm khi người Việt chĩa súng vào nhau.

Ở góc nhìn này, tôi thấy rằng những người cực đoan cả hai phía đều không bao giờ có thể làm được một thứ được gọi là “hoà hợp hoà giải dân tộc”.

Tuy nhiên, trách nhiệm để làm được sự nghiệp này đa phần nằm trên vai của bên thắng cuộc. Tất cả sẽ chỉ là câu chữ, là một khẩu hiệu oang oang rỗng tuếch và tình trạng chia ly về nhân tâm vẫn y nguyên sau 46 năm nữa khi bên thắng cuộc sau mấy chục năm không trở nên văn minh hơn, có cái nhìn nhân văn hơn.

Đây chính là mấu chốt của vấn đề. Chỉ khi những người có địa vị cao nhất có tâm, có tầm, có cái nhìn nhân văn, thực sự tha thiết hàn gắn nỗi đau của người Việt thì mới hy vọng cái sự nghiệp hoà hợp hoà giải dân tộc to đùng kia mới được cải thiện.

Hãy nhìn chính quyền Úc đã ứng xử thế nào với những người bản xứ đã bị tàn sát để chiếm đất. Những người đứng đầu đã công khai xin lỗi vì một lỗi lầm của tổ tiên trong quá khứ xa xôi và họ đã có một chính sách ưu đãi như để chuộc lỗi cho tổ tiên của mình.

Ở đây, tôi phải nhấn mạnh để bò đỏ rận rệp không có cớ mà chửi bới, xuyên tạc, tôi không có ý muốn nói là ai phải xin lỗi ai ở Việt Nam mà tôi đề cao một cái nhìn nhân văn, hợp lòng người của những người trong bộ máy chính quyền của Úc.

30 tháng 4 nào tôi cũng có bài viết, nhiều đến nỗi mà chỉ sợ lặp lại chính mình và bản thân cũng thấy nhàm chán, nhưng không viết thì thấy như thể có lỗi gì đấy.

Chỉ xin kết bằng một câu rằng, mọi lý tưởng chỉ là tương đối, cái này đúng hôm nay có thể là rất sai của ngày mai, chỉ có tấm lòng yêu thương con người, sự thông cảm và hiểu biết với “phía bên kia” mới khiến con người gần lại nhau mà thôi.

Nghĩ như vậy và nhìn những vấn đề nhỏ hơn trong cuộc sống, tôi cũng thấy nhiều tranh cãi vụn vặt thực ra là vô nghĩa, cuộc sống này chỉ tình yêu con người mới là thứ đáng nói mà thôi.

Bình Luận từ Facebook

6 BÌNH LUẬN

  1. Chỉ cần giải tán đảng cộng sản thì không còn “thế lực thù địch”; mọi người vui vẻ không còn “hận thù” nửa thì không cần phải nói tới chuyện hòa giải làm gì!

  2. https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2017/03/NguyenCongVinh.jpg

    Đại Tá Nguyễn Công Vĩnh

    Ông Nguyễn Công Vĩnh sanh ngày 30 tháng 3 năm 1930 tại Long An.
    – 1936-1942: Học trường tiểu học Tân Trụ, Long An.
    – 1943-1948: Học trường trung học Huỳnh Khương Ninh, Đồng Nai.
    – 1948: Gia nhập đảng Đại Việt Quốc Dân Đảng do Ông Trương Tử Anh là Đảng trưởng, sau này biến cải
    thành đảng Tân Đại Việt ngày 14 tháng 11 năm 1964, do GS Nguyễn Ngọc Huy là đảng trưởng.
    Đồng thời là thành viên của Thanh Niên Bảo Quốc Đoàn. Nhưng sau biến cố Thủ Hiến Thái Lập
    Thành và Thiếu tướng Chanson bị tử thương do bom nổ nên Thủ tướng Trần Văn Hữu giải tán
    tổ chức này.
    – 1951 : Sau khi Thanh Niên Bảo Quốc Đoàn bị giải tán, Ông Nguyễn Công Vĩnh và một số đồng chí
    Đại Việt gia nhập vào trường Võ Bị Liên Quân Đalạt khóa 5- Hoàng Diệu vào tháng 9 năm 1951.
    – 1/5/1952: Ra trường với cấp bậc Thiếu Úy, phục vụ tại Tiểu đoàn 3 Sơn Cước ở Ban Mê Thuột.
    – 1955: Đại Úy Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 Sơn Cước.
    – 1955-1956: Du học trường Bộ Binh Fort Benning ở Georgia, HK.
    – 1956-1963: HLV trường Bộ Binh Thủ Đức.
    – 1963-1969: Phục vụ các đơn vị tác chiến Sư đoàn 1 BB, Trung đoàn trưởng Tr.Đ 48/SĐ 18 BB, với cấp bậc Đại tá.
    – 1969: Đại tá Phụ tá Thanh tra BTL/QĐ III.
    – 1970: Trung đoàn trưởng Trung Đoàn 9/SĐ 5 BB.
    – 1972: Bị bắt ở Lộc Ninh.
    – 1973: Được trao trả tù binh ở Lộc Ninh. Điều dưỡng ở Tổng Y viện Cộng Hòa 3 tháng.
    – 1973-1975: Quân trấn trưởng Quân Vụ Thị Trấn Saigòn/Gia Định
    – 1975-1988: Học tập cải tạo qua các trại Long Giao, Suối Máu, Hoàng Liên Sơn, Vĩnh Phú, Thanh Phong, Hà Nam Ninh.
    – 1993: Định cư tại Hoa Kỳ – Oakland/Cali và sau dọn về Costa Mesa/Cali
    – Ngày 23/2/2017: Từ trần tại Bịnh viện HOAG ở Newport Beach/Cali vì trọng bịnh, hưởng thọ 90 tuổi.

    Người về sau 13 năm “học tập cải tạo” tại miền Bắc.
    https://nguyentin.tripod.com/dt_nguyencongvinh.jpg

    Saigon 1988 – Đón người thân “học tập cải tạo”(!) từ miền Bắc trở về tại ga Sàigòn
    (Cựu Đại Tá Nguyễn Công Vĩnh – Cựu SVSQ/TVBQGVN/K5)
    BỨC HÌNH NỔI TIẾNG về sự tàn ác của bọn vịt cộng ĐỐI XỬ với Người Anh em bên thua cuộc NHƯ BỌN TÀU CỘNG đối xử với Dân Quân Biên giới Bắc XUÂN 1979

    Ngày đi tóc vẫn còn xanh, nay về tóc râu đã bạc, hom hem trong bộ quần áo tù màu xám.
    Người vợ sau 13 năm gian khổ mỏi mòn, tóc cũng đã hoa râm, răng cũng rụng dần, nhưng vẫn còn chút xuân sắc của một thời mệnh phụ.
    Người con, cằn cỗi với tháng năm trong một xã hội phân biệt đối xử, vì cha anh là tù “cải tạo”, nức nở ôm tay cha già, sau anh là người em trai cũng đang lau nước mắt.
    Những giọt nước mắt này phải chăng để mừng đời “giải phóng” , hay ứa ra từ nỗi đớn đau của những người thua cuộc?
    Bạn có thể quên vì bạn chưa sống với người Cộng Sản.
    Anh có thể quên vì anh ở nước ngoài từ 1975.
    Em có thể quên vì em sanh ra sau 1975.
    Nhưng tôi, tôi không quên được, dù tôi muốn quên đi.
    Bức hình này làm tôi ứa nước mắt mỗi khi nhìn. Ở đó tôi thấy thân phận bạn bè tôi, đồng đội tôi, vợ con tôi và bản thân tôi của một thời dĩ vãng.
    Chỉ vì tôi là người trong cuộc!
    Cao Văn Tài K25

    Người trở về sau 13 năm tù cải tạo tại miền Bắc
    https://nguyentin.tripod.com/dt_nguyencongvinh.jpg

    Tưởng nhớ Cố Đại Tá Nguyễn Công Vĩnh
    Mar 1, 2017 cập nhật lần cuối Mar 1, 2017
    https://www.nguoi-viet.com/tuong-nho/tuong-nho-co-dai-ta-nguyen-cong-vinh/

    Ông Nguyễn Công Vĩnh sanh ngày 30 tháng 3 năm 1930 tại Long An.
    – 1936-1942: Học trường tiểu học Tân Trụ, Long An.
    – 1943-1948: Học trường trung học Huỳnh Khương Ninh, Đồng Nai.
    – 1948: Gia nhập đảng Đại Việt Quốc Dân Đảng do Ông Trương Tử Anh là Đảng trưởng, sau này biến cải
    thành đảng Tân Đại Việt ngày 14 tháng 11 năm 1964, do GS Nguyễn Ngọc Huy là đảng trưởng.
    Đồng thời là thành viên của Thanh Niên Bảo Quốc Đoàn. Nhưng sau biến cố Thủ Hiến Thái Lập
    Thành và Thiếu tướng Chanson bị tử thương do bom nổ nên Thủ tướng Trần Văn Hữu giải tán
    tổ chức này.
    – 1951 : Sau khi Thanh Niên Bảo Quốc Đoàn bị giải tán, Ông Nguyễn Công Vĩnh và một số đồng chí
    Đại Việt gia nhập vào trường Võ Bị Liên Quân Đalạt khóa 5- Hoàng Diệu vào tháng 9 năm 1951.
    – 1/5/1952: Ra trường với cấp bậc Thiếu Úy, phục vụ tại Tiểu đoàn 3 Sơn Cước ở Ban Mê Thuột.
    – 1955: Đại Úy Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 Sơn Cước.
    – 1955-1956: Du học trường Bộ Binh Fort Benning ở Georgia, HK.
    – 1956-1963: HLV trường Bộ Binh Thủ Đức.
    – 1963-1969: Phục vụ các đơn vị tác chiến Sư đoàn 1 BB, Trung đoàn trưởng Tr.Đ 48/SĐ 18 BB, với cấp bậc Đại tá.
    – 1969: Đại tá Phụ tá Thanh tra BTL/QĐ III.
    – 1970: Trung đoàn trưởng Trung Đoàn 9/SĐ 5 BB.
    – 1972: Bị bắt ở Lộc Ninh.
    – 1973: Được trao trả tù binh ở Lộc Ninh. Điều dưỡng ở Tổng Y viện Cộng Hòa 3 tháng.
    – 1973-1975: Quân trấn trưởng Quân Vụ Thị Trấn Saigòn/Gia Định
    – 1975-1988: Học tập cải tạo qua các trại Long Giao, Suối Máu, Hoàng Liên Sơn, Vĩnh Phú, Thanh Phong, Hà Nam Ninh.
    – 1993: Định cư tại Hoa Kỳ – Oakland/Cali và sau dọn về Costa Mesa/Cali
    – Ngày 23/2/2017: Từ trần tại Bịnh viện HOAG ở Newport Beach/Cali vì trọng bịnh, hưởng thọ 90 tuổi.

    https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2017/03/NguyenCongVinh-01.jpg
    Cố Đại Tá Nguyễn Công Vĩnh (trái) cùng dự tiệc với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Phu Nhân

    Vài hàng về Đại tá Nguyễn Công Vĩnh:

    1) – Suốt 24 năm phục vụ trong QLVNCH, Đại tá Nguyễn Công Vĩnh là môt sĩ quan thanh liêm, đạo đức và đầy khí phách rất được các quân nhân thuộc cấp kính mến:
    – Với chức vụ Trung đoàn trưởng, ông chỉ sử dụng một tài xế.
    – Cuộc sống rất đạm bạc.
    – Khí phách: Trong lúc bị bắt làm tù binh, ông vẫn giữ đúng tư cách và danh dự của một sĩ quan thuộc QLVNCH.

    Ông kể lại trong số 100 quân nhân tù binh trong số đó có ông bị nhốt bên Cao Miên. Bọn CS chiêu dụ tù binh nào chịu phục tùng và ngoan ngoản nghe theo chúng sẽ được tăng khẩu phần ăn.
    Rốt cuộc có 72 người không khuất phục và chấp nhận chịu đói.

    Mỗi ngày một người được phát một nắm cơm và muối hột. Tiêu chuẩn muối hột là một muỗng cà phê chia đều cho 72 người. Nếu ai chấm vô trước thì muối sẽ mau hết, cho nên phải gỏ “cộp, cộp” cho muối rớt xuống muỗng. Từ đó mới có giai thoại ăn cơm với “thịt cọp”( âm của từ “cộp”).

    Khi được thả về ông đã viết hồi ký “Người Về Từ Cõi Chết” và được Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị chấm giải nhất với tiền thưởng là $25.000 đồng.

    – Câu chuyện 2: Sau 30 tháng 4 năm 1975, ông đi tù CS lần thứ 2. Trong tù bọn cán bộ CS kết tội ông một cách gay gắt: “Vào năm 1973 lúc trao trả tù binh, anh có cam kết về nhà lo làm ăn không đánh phá cách mạng nữa, nhưng sao anh vẫn tiếp tục đánh phá cách mạng, chống lại nhân dân?”

    Ông trả lời khí khái: “Đúng! Vì lúc trao trả tù binh theo hiệp định hòa bình sẽ không còn chiến tranh, nên tôi mới hứa không chiến đấu nữa, nhưng sau đó các ông đã vi phạm hiệp định hòa bình và với tư cách một quân nhân tôi phải bảo vệ mảnh đất miền Nam.’

    2) – Trong 69 năm gia nhập đảng Đại Việt Quốc Dân Đảng, sau này là Đảng Tân Đại Việt, Đ/c Nguyễn Công Vĩnh, bí danh là VÂN luôn luôn là một đảng viên liêm chính tận tụy với Đảng. Đ/c lúc nào cũng làm gương tốt cho các đảng viên trẻ và tiên phong trong mọi công tác Đảng giao phó.

    Trong chức vụ Đệ II Phó CT của Phân Bộ Bùi Hữu Phiệt, Đ/c đã phát triển Phân bộ rộng lớn và kết nạp được một số các Đ/c quân nhân trước năm 1975.

    Khi định cư ở Mỹ, tuy lớn tuổi và sức khỏe suy giảm nhưng Đ/c vẫn sinh hoạt đều đặn với các anh em trong Phân KB Bắc Cali.

    Đây là một gương sáng cho các đảng viên hậu duệ và Đ/c xứng đáng được Đảng vinh danh là Liệt sĩ.

    https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2017/03/NguyenCongVinh-02.jpg
    Dân chúng mừng rỡ khi đón Đại Tá Nguyễn Công Vĩnh về từ trại tù cộng sản.

    THƯƠNG ANH, NGƯỜI LÍNH CỘNG HÒA

    Thêm một lần Tháng Tư buồn lại đến
    Tôi nghĩ về anh, người lính kiêu hùng
    Tôi nghĩ về anh, người lính oai phong
    Đạn giặc thù không làm anh bỏ chạy
    *
    Anh đứng lên quyết diệt tan bạo lực
    Anh sống còn quyết gìn giữ quê hương
    Lệnh “buông súng” anh tưởng đã nghe nhầm
    Lúc hồi tỉnh đất trời quay chao đảo
    *
    Ba mươi chín năm, vết đau chưa dứt
    Không thể quên anh, tôi gởi lời chào
    Trao về anh lòng này bao ngưỡng mộ
    Ơn hy sinh ghi khắc mãi không phai
    *
    Sống hay chết, với tôi, anh vẫn thế
    Đẹp vô cùng người lính trận hiên ngang
    Giữa chiến trường anh xem thường lửa đạn
    Trong tay thù anh khí tiết âm vang
    *
    Ngày anh đi tù, tóc hãy còn xanh*
    Ngày anh về, tóc con anh đã bạc
    Vợ anh một thời đài trang khuê các
    Bây giờ bên anh dở khóc dở cười!
    *
    Nước mắt anh cạn, nước mắt chị khô
    Vẫn còn đó một mối tình chung thủy
    Vẫn còn đó hai trái tim vàng ngọc
    Trước bạo tàn không cúi mặt cầu vinh
    *
    Hỡi những ai hay “áo gấm về làng”
    Xin nghĩ lại có đáng gì không nhỉ?
    Hỡi những ai vô cảm đến lạnh lùng
    Xin dăm phút nhớ về ngày tháng cũ
    *
    Trời đang xuân sao mây mù giăng phủ?
    Chim xa đàn hát chi khúc ly tan!
    Thương anh, người lính Cộng Hòa
    Vụng về tôi viết bài thơ tặng Người

    Kim Thành
    April 2014

    (Bài do thân hữu gửi)

    ĐỌC THÊM CHI TIẾT bấm vào các LIÊN KẾT sau :

    Đại Tá Nguyễn Công Vĩnh
    https://nguyentin.tripod.com/dt_nguyencongvinh.htm

    Chủ Nhật, 14 tháng 2, 2016
    Xem để biết kết quả của tù thời bình và thời chiến ….
    http://namrom64a.blogspot.com/2016/02/xem-e-biet-ket-qua-cua-tu-thoi-binh-va.html

    RỒI MÌNH HÒA GIẢI
    Mày trả lại tao những gì mày giải phóng
    Rồi chúng mình sẽ nói chuyện anh em
    Trả lại tao những năm tháng êm đềm…
    Tao đã hưởng trước ngày mày có mặt

    Trả lại cái tên mày đã cướp mất
    Nơi sinh ra tao, tên gọi Sài Gòn,
    Cái tên tao thuộc lòng từ thuở bé con,
    Không phải cái tên dài thoòng khó đọc.
    https://chantroimoimedia.com/2017/10/25/roi-minh-hoa-giai/

    http://universite-digitale1.com/wp-content/uploads/2018/05/MeVietNam.jpg
    TRIỆU LƯƠNG DÂN VIỆT

  3. Ông võ sư kiêm tiến sĩ võ tuồng nên dổi nghề khua trống, khua chiêng. Mà lạ một điều, đám sinh sống ở Hà nội rất thích phô trương, khoe khoang trình với tình. Hình như họ nghĩ họ nà đẻn cấp cau hơn, có quyền ” khai trí” cho bọn ” ngu” khác nơi khác. Đúng là trâu đầm nước đục

  4. “Tôi sẽ không nói tới lý tưởng bởi bên nào cũng có lý tưởng của riêng mình, bên nào mà chẳng cho là lý tưởng của mình cao đẹp hơn”

    Khi cùng chung lý tưởng thì đâu cần so sánh .

    “Đây chính là mấu chốt của vấn đề. Chỉ khi những người có địa vị cao nhất có tâm, có tầm, có cái nhìn nhân văn, thực sự tha thiết hàn gắn nỗi đau của người Việt thì mới hy vọng cái sự nghiệp hoà hợp hoà giải dân tộc to đùng kia mới được cải thiện”

    Tớ thấy ngược lại . Chủ tịch Phúc đã rất sốt sắng với BRI trong khi dân mềnh lại lạnh nhạt .

    “chỉ có tấm lòng yêu thương con người, sự thông cảm và hiểu biết với “phía bên kia” mới khiến con người gần lại nhau mà thôi”

    Rất đúng . “mọi lý tưởng chỉ là tương đối”, với sự thông cảm & hiểu biết với “phía bên kia”, hổng những lý tưởng, mà “biên giới” cũng trở thành tương đối lun . Nhà thơ Chế Lan Viên từng viết “bên đây biên giới là nhà, bên kia biên giới cũng là quê hương” đấy thui .

  5. Một trong những nguyên nhân sâu xa và quan trọng khiến Mỹ và chính quyền miền nam sụp đổ là sự yếu kém trong công tác tuyên truyền. Họ không biết bác bỏ các luận chứng tuyên truyền của cộng sản. Hãy xem xét cụ thể
    Một là, CS bắc việt cho rằng Mỹ xâm lược VN. Hoàn toàn sai, vì xâm lược là phải chiếm và xác nhập lãnh thổ, chẳng hạn như Irac đánh chiếm và nhập nước Cô-ét thành một tỉnh . Về mặt luật quốc tế, chính quyền TT Thiệu có quyền yêu cầu một nước khác giúp đỡ( tương tự miền bắc nhờ các chuyên gia và quân tình nguyện của TQ, Nga vào miền bắc…). Mặt khác, một thực tế dễ thấy rõ là, toàn bộ cuộc chiến đều xảy ra ở miền nam, là khu vực CQ miền nam quản lý hợp pháp theo hiệp định Giơnevơ 1954. Điều ấy chứng tỏ chính quyền miền bắc đã vi phạm hiệp định khi tấn công miền nam bất hợp pháp.
    Hai là, họ cho rằng tiến hành cuộc chiến để thống nhất đất nước. Điều này cũng sai. Hiệp định giơnevơ tạm chia ngôi nhà VN làm hai phần để hai anh em khỏi đâm chém nhau vì ý thức hệ. Ai thích cộng sản thì tập kết ra bắc. Ai thích cộng hoà thì di cư vào nam. Khi nào hai anh em thấy có thể sống chung lại với nhau thì tổ chức tổng tuyển cử. Việc cưỡng chiếm miền nam vừa vi phạm pháp luật, vừa phi đạo đức làm người khi anh em một nhà mà cố tàn sát nhau.
    Ba là, họ cho rằng đánh chiếm miền nam là để giải phóng miền nam. Điều này cũng vô lý vì giải phóng là đem cái tốt, cái sung túc, cái văn minh để thay thế cái lạc hậu, cái xấu,cái đói nghèo. Những tiêu chí này miền bắc kém xa miền nam.
    Bác bỏ những luận điểm này không khó khăn lắm. Rất tiếc, thời đó Mỹ và chính quyền miền nam đã không làm được.

Leave a Reply to montaukmosquito Hủy trả lời

Xin bình luận ở đây
Xin nhập tên của bạn ở đây