Người thủ phó của cha tôi

Dương Tự Lập

15-6-2019

Vô tình, rút trên giá sách của cha tôi ở ngăn “bạn bè gửi tặng” một quyển sách mỏng: Tiếng Thoi – bút ký Tống Văn Công, nhà xuất bản Lao Động. Ngay trang đầu có mấy hàng chữ viết bằng bút máy, mực nhạt: “Anh Dương Quân. Hôm trước nói chuyện, biết mình lỡ lời để anh không vui, thành ra cứ ân hận áy náy mãi. Mong anh thứ lỗi, chuyện cũ cho qua. Tặng anh cuốn sách mới viết này của em”, cùng chữ ký của tác giả Tống Văn Công.

Dù không đọc, chỉ giở lướt qua cũng tạm hiểu đây là loại sách phong trào viết về công nhân ngành dệt, hình như nhà máy dệt Minh Khai – Hà Nội. Sau này loáng thoáng tôi biết được mối quan hệ giữa cha tôi và Tống Văn Công, chú kém cha tôi 5-6 tuổi, lúc đó chú đã là thủ trưởng của cha ở cương vị Phó tổng biên tập báo Lao Động.

Một ngày đầu thu năm 1992, tôi vào Nam có chút việc riêng, nếu kịp thì bay trở lại nước Nga tại sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất luôn. Đây là lần đầu tiên tôi vào Sài Gòn sau ngày hai miền Bắc Nam hợp nhất 1975. Nghỉ ngơi ở nhà bà họ tại quận Phú Nhuận, đầu giờ chiều hôm sau tôi tìm đến báo Lao Động, cơ quan thường trú phụ trách các tỉnh phía Nam cũng nằm trong quận này. Người thường trực hất hàm:

– Anh cho xem giấy công tác?

– Không, anh ạ.

– Chứng minh thư của anh?

Tôi lúng túng, bởi trước khi đi, bà tôi sợ kẻ gian móc túi trộm nên đã cầm hết chứng minh, hộ chiếu của tôi cất vào ngăn tủ. Nếu tôi thanh minh, chắc anh bảo vệ cũng chẳng tin nên đành nói:

– Hay anh báo dùm em với chú Tống Văn Công có con trai Dương Quân ngoài Hà Nội vào, muốn gặp, thăm chú một lát.

Người bảo vệ đổi hẳn cung cách và nhanh nhẹn nhấc máy điện thoại. Sau vài lời, cúp máy xuống, anh cẩn thận ra cài lại cổng và nói: “Anh đi theo tôi”.

Dẫn tôi lên phòng thủ trưởng cơ quan, lúc này chú Tống Văn Công đã là Tổng Biên tập báo được mấy năm rồi. Cửa phòng hé mở, anh thò đầu vào như để xin phép lần nữa và đẩy rộng cửa mời tôi. Tôi chào chú và cũng không quên cảm ơn người thường trực trước khi anh đi xuống.

– Vào ngồi đây cháu. Thằng Tự Lực thì chú biết, nhanh nhẹn, hoạt bát, anh Dương Quân được thằng con trai đầu ăn nói lưu loát phóng khoáng giống cha. Cháu là Tự Lập hay Tự Quyết?

– Cháu là Tự Lập ạ. Chú nhớ bố cháu còn có thằng Tự Do, mất khi còn nhỏ, ở Bắc Ninh – Hà Bắc, thời kỳ sơ tán năm 1966, chống Johnson đánh phá, ném bom miền Bắc, đúng không?

– Vâng, chú nhớ đúng thật. Nó là em cháu, trên thằng Quyết.

– Mẹ có khỏe không cháu? Bố mất đã lâu, chú nghe bảo mẹ cháu bây giờ đỡ khổ hơn xưa nhiều.

– Vâng, anh em cháu cũng đã trưởng thành.

Lần đầu tiên gặp mặt, hai chú cháu nói chuyện với nhau thoải mái, thân tình, như đã biết nhau từ lâu. Hơn nữa, trong phòng không có ai khác ngoài cây quạt Hitachi quay khắp phía, nhè nhẹ êm ru thoang thoảng mát. Một giá sách sau lưng. Phía trái trên góc phòng cũng có lắp máy điều hòa Nhật. Góc phòng bên phải đặt chiếc vô tuyến Sony nhỏ, gọn. Bàn ghế bóng lộn trông sang trọng.

– Sao biết chú vào đây?

– Tháng trước chị Quy ở ban bạn đọc, con dâu bác Võ Văn Ngoạn (Phóng viên báo Lao Động hy sinh chiến trường miền Nam 1973) lên nhà chơi, thăm mẹ cháu, nói chuyện. Biết cháu thích biếm họa, chị bảo có anh họa sĩ Chóe (Nguyễn Hải Chí) ra Hà Nội, đang vào thăm báo Lao Động. Cháu có lên tòa soạn ở số 51 Hàng Bồ, gặp và chuyện trò trao đổi với anh ấy rất vui vẻ. Sáng qua đi vội, cháu cầm theo dăm cuốn thơ mới của bố cháu, Nhà xuất bản Văn Học ấn hành tiện vào trong này thì biếu mấy cơ quan báo luôn. Có một cuốn mẹ cháu đề tặng riêng gửi chú.

Chú Công cầm cuốn thơ lên lật giở mấy trang và nói:

– Những bài thơ này là gom từ các báo bố cháu đã đăng trước đây, chú có dịp đọc cả rồi. Thơ anh Dương Quân hay, phải là thơ còn nằm trong ngăn kéo, thơ chỉ đọc “chui” cho bạn bè nghe mới sướng lỗ tai. Các cháu có giữ được tất cả thơ bản thảo của bố không?

– Dạ, có chú ạ.

– Thế thì tốt, rồi có lúc sẽ được công khai.

Khi trả lời chú như vậy, quả thật là anh em tôi còn giữ được đầy đủ thơ, bản thảo của ông. Tôi xa quê biền biệt gần hai mươi năm kể từ lúc ngồi nói chuyện với chú Công hôm ấy. Sau này trở về tìm lục lại các bản thảo của cha tôi chẳng thấy đâu nữa. Hỏi thì được biết khi anh tôi mất, người chị dâu vô học, ngu si đần độn, đã đem ra đốt hết tất cả những gì của cha mà anh ấy giữ. Tôi chỉ còn biết dậm chân, dậm cẳng ôm mặt đứng khóc giữa nhà.

– Cho chú gửi lời cảm ơn mẹ. Ít hôm xong việc, chú ra Hà Nội chắc có tập thơ bố cháu trên bàn chú rồi. Nhưng cuốn này có lời đề tặng của mẹ cháu thì quí hóa quá.

Khi đưa tôi qua báo Tuổi Trẻ, chú gọi điện trước. Chị Vũ Kim Hạnh, Tổng biên tập đang có mặt bên đó, chú nói nhỏ với tôi:

– Con bé này đang gặp nhiều chuyện rắc rối.

Mãi về sau tôi mới biết, thời điểm ấy chị bị buộc thôi chức Tổng Biên tập báo Tuổi Trẻ, tiếng nói của Thành đoàn Thanh niên Cộng sản HCM, Thành phố HCM, vì đã cho đăng nhiều bài phóng sự nóng bỏng, tiêu cực xẩy ra tại thành Hồ lúc đó. Đặc biệt chị còn dám cho đăng bài của nhà sử học người Pháp Daniel Hémery, số báo ra ngày 18/5/1991 (Thư chữ Hán Bác Hồ gửi vợ). Nhà sử học này đã tìm thấy 21 bản phụ lục, là tư liệu lịch sử về anh thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức Hồ Chí Minh), phần lớn nằm ở quận Aix-en-Provence, miền Nam nước Pháp. Rằng ông Hồ thời trẻ từng có vợ là cô Tăng Tuyết Minh người Trung Quốc, làm nghề đỡ đẻ ở Quảng Châu.

Thật ra nếu ông Hồ có vợ cũng là lẽ thường tình chẳng phải chuyện gì ghê gớm xấu xa hay đồi bại; ông không phải thánh. Ông sẽ như một con người bình thường, thăng bằng, gần gũi với mọi người hơn nếu có chuyện tình cảm đó. Thậm chí theo nguồn tư liệu của nhà nghiên cứu người Pháp này thì khi hành nghề thợ ảnh tại Paris, ông Hồ từng quan hệ mật thiết, già nhân ngãi non vợ chồng với cô đầm có cái tên Marie Bière. Nhưng những bộ óc bảo thủ của cộng sản Hà Nội không dễ gì chấp nhận chuyện này. Tội phạm thượng đấng thánh lãnh tụ kính yêu của đảng thì Ban Tuyên giáo không thể tha thứ. Chị cũng là Tổng biên tập trẻ nhất, lúc 32 tuổi vào năm 1983.

Trên đường đi, chú Tống Văn Công có kể lại đôi kỷ niệm những tháng năm làm việc cùng cha tôi rồi kết lại:

– Tính khí anh Dương Quân nóng nẩy, ngang, thẳng, nói năng chẳng kiêng nể sợ sệt gì ai. Bao nhiêu năm lương thấp lắm, sống khổ quá, khổ nhất tòa soạn. Bố cháu khổ thì các cháu cũng khổ theo vì lúc đó con cái sống bằng tem phiếu của cha mẹ. Mà tem phiếu thì lại theo tiêu chuẩn bậc lương, các chú muốn bênh vực cũng khó, quyền lực mình chỉ có giới hạn, nhưng cái tính con người ta thì chẳng dễ gì thay đổi được.

Rồi chú chép miệng tỏ ra thương cảm, ngùi ngùi.

Tất cả những gì về Tống Văn Công, quê Bến Tre, vào đảng sớm, chỉ có vậy, tôi không hề biết thêm chú. Đó là lần gặp gỡ đầu tiên và có thể lần cuối cùng, rất có thể.

Hai mươi năm sau. Cuối năm 2012, tôi tình cờ đọc được bài phản ánh vụ cưỡng chế cướp đất ở huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Vào tháng Tư năm đó, có gần ba nghìn công an, bộ đội kéo về đàn áp cả dân làng, đánh đập hơn hai nghìn nông dân có phụ nữ lẫn người già, dã man hơn kẻ thù của Tống Văn Công. Lòng căm hận sau khi đọc bài viết của tác giả.

Từ bài viết đó, tôi còn xem thêm bản tin của Lê Nguyễn Hương Trà; clip của Nguyễn Lân Thắng; gương chống tham nhũng, chống cướp đất của bà Lê Hiền Đức đã về tận Văn Giang nói chuyện với người dân cùng cực bị mất đất. Bài của anh Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh, Phạm Đình Trọng và bài viết của nhiều tác giả khác nữa… Lòng càng căm thù, sục sôi, lũ đê tiện ngút ngàn hơn, cái lũ đẻ từ trong dân mà ra và được dân đóng thuế nuôi dưỡng chúng để chúng hèn với giặc Tầu ác với dân ta.

Rồi từ đó trở đi tôi lác đác đọc một số bài của Tống Văn Công. Đến đầu năm 2014 khi đọc đơn “Tự kiểm điểm nhận một hình thức kỷ luật xin ra đảng” của chú Tống sau 55 năm đứng trong đội ngũ đảng, khi đã 82 năm tuổi đời.

Thật sự tôi không vui tí nào vì hành động của chú đã quá cũ mèm, quá rẻ rách, quá nhàm, đi sau hàng nghìn người đi trước. Trước chú gần ba chục năm, năm 1990 đã có ông Bùi Tín, Phó tổng biên tập báo Nhân Dân, bạn đồng nghiệp với chú, đã bỏ đảng sang Pháp. Năm 1991 đã có cựu Phó Chủ tịch Tổng công đoàn Việt Nam Nguyễn Hộ, thủ trưởng trực tiếp của chú, bỏ đảng sau 53 năm theo đảng mà còn không may mắn bằng chú, đã bị bắt giam, quản thúc.

Nhìn lại cái đảng của chú đi theo thì trước nữa là vụ án Xét lại Chống đảng năm 1967, nhằm thanh trừng nội bộ trong đảng, những cán bộ cấp cao, có học thức, bị tình nghi là theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình báo cho nước ngoài. Kẻ tàn bạo đứng đầu chống lại những con người chân chính này là Lê Duẩn, lúc đó đã tiếm quyền ông Hồ khi ông không còn khỏe, cùng đồ tể Lê Đức Thọ, ra tay thanh trừng các tướng lĩnh cao cấp, có lợi cho phía Trung Quốc cũng như chịu ảnh hưởng tư tưởng Mao Trạch Đông.

Trước đó, có vụ án Nhân văn – Giai phẩm năm 1957, nhằm dập tắt tự do tư tưởng, tự do ngôn luận của giới văn nghệ sĩ miền Bắc, mà cha nhà thơ vườn Ba Đình Nguyễn Kim Thành (Tố Hữu) là tay trùm đao phủ, dưới trướng Hoàng Văn Hoan, chỉ đạo.

Trước trước nữa là vụ Cải cách ruộng đất năm 1953, Đặng Xuân Khu (tức Trường Chinh) cầm đầu, dưới sự thống soái của Hồ Chí Minh. Giết cả những người nghèo nếu bị quy sai là địa chủ. Nhiều khi lệnh ký giết người ngay trên ghi đông xe đạp, dưới bóng lũy tre làng, bên thành giếng… Nếu số lượng địa chủ chưa đủ thì cứ ghi bừa ai đó vào cho đủ để hành hình.

Năm 1954, một triệu người Bắc bỏ quê, vượt vĩ tuyến 17 vào Nam. Từ thắng cuộc 1975 đến 1979 hàng vài triệu người bỏ nước vượt biển khơi, thì một nửa số đó cũng bị biển khơi nuốt trọn. Chỉ mong tìm đến được những nước rồng, nước hổ, nay ta chờ mãi không hóa được rồng mà người dân chỉ muốn rông, rông chạy, rông cho khỏi rồ, rông cho khỏi dại, rông cho khỏi đất nước này như Tống Văn Công, cựu đảng viên đảng Cộng sản rông sang Mỹ vậy.

Trong hơn hai mươi năm chiến tranh huynh đệ tương tàn (1954-1975) do đảng phát động, hàng triệu người con của cả hai miền Bắc-Nam nồi da xáo thịt, thịt nát xương tan. Hàng triệu gia đình và các bà mẹ mất con sống tận cùng của nỗi xót xa, đau khổ.

Năm 1978 Nguyễn Duy Cống (Đỗ Mười) thay mặt đảng đánh tanh bành, Cải tạo Công thương nghiệp Sài Gòn, lùa dân lên rừng hoang sống như… cống rãnh.

Năm 1979 máu của những người con nước Việt lại đổ ở biên giới Tây Nam với giặc Căm-pu-chia và biên giới phía Bắc với bọn cướp Trung Quốc.

Năm 1985 cũng vẫn tay Tố Hữu thay mặt đảng đổi tiền, lừa dân, mua công trái, đất nước tiêu điều xơ xác.

Năm 1988 đảng thâm hiểm bất ngờ hạ bệ, giải tán hai đảng Dân chủ và Xã hội, chỉ còn độc đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1990, đảng trưởng Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh) kéo theo em Đỗ Mười và anh Phạm Văn Đồng sang mọp gối tại Thành Đô, Trung Quốc. Phạm Văn Đồng, kẻ từng lập công hàm dâng Hoàng Sa, Trường Sa cho tên cướp Chu Ân Lai tháng 9 năm 1958.

Từ dấu mốc 1990, sau Thành Đô này trở đi, gần như là hết đảng trị mà mọi sự sắp đặt của đảng đều do Tầu trị. Cũng từ dấu mốc này, lịch sử chống bọn giặc phương Bắc – Trung Quốc, đã bị cắt xén, dối trá, dìm sâu, giấu nhẹm, nghiêm cấm người dân không được nhắc tới, nhắc tới là phản động, là chống đảng, là lật đổ chính phủ, là không đúng với lòng thành bốn tốt, mười sáu cục vàng khè của bề trên Thiên triều – Trung Nam Hải viết tặng.

Cũng từ dấu mốc Thành Đô năm 1990 này là các cuộc gặp gỡ, ký kết, cắt xén đất đai, dâng biếu không cho Tầu cộng nhiều ki lô mét đường biên. Mất ải Nam Quan, mất gần hết thác Bản Giốc, mất các cao điểm Lão Sơn…

Nhân sự đảng thay đổi, Đỗ Mười (thợ thiến) lên Tổng bí thư. Anh chột (cạo mủ) vứt bỏ áo tướng, vứt bỏ biên giới, vứt bỏ Gạc Ma và oan hồn người lính ngồi ghế Chủ tịch nước. Lê Đức Anh, kẻ tiếp kiến đại sứ Tầu Trương Đức Duy để bắc nối Hội Nghị Thành Đô ô nhục. Các công ty Tầu cộng lần lượt kéo đàn, kéo lũ vào, ngập tràn đất nước. Từ đây tiếp tục mất dần đất đai biển đảo, nhưng ngược lại đảng ra tay đàn áp, cướp đất của dân trên khắp mọi miền tổ quốc…

Xem ra cái đảng mà chú Tống phấn đấu đi theo sai mạn tính, sai kinh niên, sai triền miên và triền miên sai bất tận, nghĩa là hết cứu. Nghĩa là khi không còn gì để ăn để uống, để mất nữa chú Tống mới xin ra đảng, xin thôi đảng, chửi lại đảng, chống lại đảng, thóa mạ đảng, nhổ nước bọt vào đảng, ỉa đái vào mặt đảng. Như thế là chú chơi không đẹp!

Thời tuổi 19 non trẻ, chú đã được đứng trong hàng ngũ đảng. Như vậy hẳn chú có cái đầu minh mẫn lẫn con mắt tinh đời. Rồi từ cái thương hiệu đảng viên chuẩn mực đó, chú dần dần leo lên những nấc thang danh vọng rất chuẩn, để ngồi chễm chệ vào chiếc ghế Tổng Biên tập một tờ báo đứng hàng nhất nhì Trung ương và của cả nước. Chú hưởng no nê thịt nạc ngon, tôm cá tươi Tôn Đản, Nhà Thờ, Vân Hồ, là ba cửa hàng nổi tiếng của Hà Nội chỉ dành riêng cho loại người cỡ chú trở lên của thời bao cấp thương đau.

Với chức vụ đó, chú được đào tạo, bay sang Nga, lượn về Tầu, được nghe giảng qua hàng trăm buổi lên lớp của ban Tuyên Giáo mới có giọng điệu lý luận sắc bén của đảng, đảng cướp, như chú nói và viết. Chú rất tỉnh táo cho đến khi qua định cư ở Hoa Kỳ an toàn. Tại đất lạ quê người năm 2016 chú lại nặn thêm cuốn hồi ký: “Đến Già Mới Chợt Tỉnh”, cùng với sự thở than, trách móc:

– Hối tiếc nhất là: “Tự nguyện làm công cụ của đảng chứ không phải thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận của nhân dân”.

Cái hối tiếc này cháu đoán chú biết từ lâu lắm rồi nhưng giả vờ cho im chuyện để chú được yên thân tại vị. Cháu cũng chẳng thèm đọc cuốn hồi ký “Đến Già Mới Chợt Tỉnh” cuối đời cũng như chẳng thèm xem tới cuốn bút ký “Tiếng Thoi” đầu đời của chú gửi tặng bố cháu mấy chục năm trước. Dứt khoát chú là kẻ cơ hội, kẻ hãnh tiến, kẻ thủ đoạn, kẻ mưu mô, kẻ tỉnh táo, tỉnh táo đến cả chọn tít sách: “Đến Già Mới Chợt Tỉnh”. Chú còn tỉnh lắm, chú chưa từng ngớ ngẩn đâu chú Tống Văn Công ạ.

Nhưng mà thôi, cháu thông cảm cho chú, ai cũng vì miếng cơm manh áo. Ví như chú không tỉnh làm sao chú leo được lên tới chức Tổng Biên tập của một tờ báo to tướng như vậy? Chỉ tiếc giá như chú vẫn nên ở lại quê nhà để viết đều đặn cái kiểu bài “Cướp Đất Văn Giang” hay bài “Kẻ Thù Trung Quốc” hoặc bài “Đồng Ý Với Nhà Văn Nguyên Ngọc”… cho dân rõ, thì vừa hay mà độc giả càng thêm yêu thích, quý mến chú.

Hoặc về già chú đã ngấy đảng, chán đất nước mình thì bỏ sang Cam-pu-chia, hay Lào, định cư đi, để khi chết thì đem về cũng gần với quê hương Bến Tre của chú, hơn nước Mỹ bên kia trái đất xa xôi lạnh lẽo. Bỗng dưng Bến Tre “thành đồng bất khuất” mất tăm một người con sáng giá, một đảng viên ưu tú như chú, thật tiếc biết chừng nào. Mà hay nhỉ, khi nói, khi viết, ca ngợi thì người ta cứ giơ cao Xã hội Chủ nghĩa. Nhưng khi ở ẩn thì lại muốn chui vào xó Tư bản chủ nghĩa giãy chết Anh, Pháp, Mỹ, Canada… để sống. Thật khó hiểu nổi!

Nghĩ sao cháu nói vậy, lỡ ai đó trong bạn bè, thân nhân đọc được, mách lại chú, hoặc chính chú đọc được bài viết này thì chú cứ thản nhiên coi như không có thằng cháu Tự Lập khốn nạn, đốn mạt trên cõi đời. Chứ chú đừng nóng lên mà gào mà thét:

– Ối anh Dương Quân ơi là anh Dương Quân ơi! Bình sinh anh có chửi thì chỉ chửi lũ quan tham, mặt dày. Lũ quan vô liêm sỉ, mặt thớt. Lũ quan vô luân, mặt mo. Lũ quan sâu mọt, mặt ngựa. Lũ quan gian hiểm đầu chó mặt chuột, tham quyền cố vị, đục khoét, uống máu hút mủ, ăn tàn phá nước, hại dân, chứ đâu có chửi vung chửi vít như thằng con trai anh, nó chửi cả em của anh đây này. Khôn thiêng thì anh về mà dạy bảo lại nó đi, anh ơi là anh ơi!

_____

Một số hình ảnh của tác giả Dương Tự Lập:

Dương Quân, bức ảnh chân dung duy nhất của báo Lao Động
Trang thơ Dương Quân, báo Tuổi Trẻ Cười giới thiệu năm 1992.
Tống Văn Công, cựu Tổng biên tập báo Lao Động.
Bìa cuốn hồi ký của Tống Văn Công.
“Bộ mặt” báo Lao Động
Bình Luận từ Facebook

4 BÌNH LUẬN

  1. Tôi xin dùng văn phong của tác giả để viết về Dương Quân như sau:
    Dương Quân bị CS đẩy vào hoàn cảnh bần cùng, nghèo khổ, phải mượn thơ để tỏ nỗi lòng, nhưng lại hèn nhát không dám công khai thơ của mình để góp phần đánh đổ cộng sản. Đọc thơ Dương Quân lúc này vừa vô bổ, vừa thấy sự hèn nhát một thời (có thể theo cách này viết rất dài thêm)…

    Tôi cũng xin mượn tuổi tác của Dương Quân để nhắn với thế hệ con cháu: Chúng mày hiểu gì về thời điểm tao sống mà đem cái thời điểm mày sống để phê phán người xưa?
    Mời chúng mày chửi luôn cả Trần Hưng Đạo (có nhiều cái để chửi) để mọi người hiểu đầy đủ nhãn quan và tư cách của cả lũ chúng mày.

    Cuối cùng, tôi xin rút tất cả các ý kiến nói trên. Tôi vẫn tôn trọng Dương Quân, tôn trọng tác giả và cả Tống Văn Công.
    Hãy đặt cả ba loại người này vào hoàn cảnh của họ.

  2. -Bài viết tổng hợp tội ác CS từ Cải cách ruộng đất năm 1953 đến Hội nghị Thành Đô bán nc năm 1990 dẫn đến lệ thuộc Tàu cộng đến nay, rồi đánh giá ng CS: “khi không còn gì để ăn để uống, để mất nữa chú Tống mới xin ra đảng, xin thôi đảng, chửi lại đảng, chống lại đảng, thóa mạ đảng, nhổ nước bọt vào đảng, ỉa đái vào mặt đảng” mới thấy lãnh đạo CS là tập hợp phần lớn những ng ko có lòng nhân.
    -Tác giả viết: “ Tại đất lạ quê người năm 2016 chú lại nặn thêm cuốn hồi ký: “Đến Già Mới Chợt Tỉnh”, cùng với sự thở than, trách móc”. Ở VN ko viết, qua Mỹ mới viết dc, thì hồi ký nên đổi tựa “Đến Mỹ Mới Chợt Tỉnh” là thích hợp hơn. Hi..hi

  3. Nhiều người bỏ đảng lẳng lặng hoặc có tuyên bố ngắn gì đó. Ví dụ, cụ Bùi Tín…
    Tống Văn Công bỏ đảng với một tự Bản Kiểm Điểm, công khai, với nội dung phân tích cặn kẽ, logic, đầy đủ. Tóm lại là rất hay. Thực tế, nó làm xoay chuyển suy nghĩ của lớp đảng viên một thời dám hy sinh tính mạng vì nền độc lập. Đó là cái thời ĐCS còn phải giành độc lập rồi mới nắm được chính quyền.
    Lớp đảng viên này tới nay có lẽ đã rất hiếm, nhưng ở thời điểm Tống văn Công bỏ đảng thì họ rất đông đảo.
    Bỏ đảng thời nay vẫn nên có một Bản Kiểm Điểm thì tốt hơn là cứ lẳng lặng. Nhưng phải có trình độ và lòng dũng cảm như TVC.

  4. Hãy chuẩn bị con dấu bằng thép khắc búa liềm, nung đỏ con dấu ấn vào trán bọn đảng viên cộng sản. Với bọn lãnh đạo thì dí con dấu nung đỏ khắp người cho chúng tự hào và để ma quỷ, địa ngục biết mà tìm tới đồng loại.
    Chúc các bác đã bỏ đảng đã may mắn không bị khắc dấu.

Leave a Reply to Bồ Công Anh HN Hủy trả lời

Xin bình luận ở đây
Xin nhập tên của bạn ở đây