Dàn Đồng Ca Nhân dân

S. Alexievich

Nguồn ảnh: theguardian.com

Klavdia Grigorievna, vợ một Thanh Lý Viên; Tamara Vasilyevna Belookaya, Bác sĩ; Yekaterina Fedorovna Bobrova, di dân từ thành phố Pripyat; Andrei Burtys, Ký giả; Ivan Naumovich Vergeychik, bác sĩ nhi khoa; Yelena Ilyinichna Voronko, Cư dân của Bragin; Svetlana Govor, Vợ một Thanh Lý Viên; Natalya Maksimovna Goncharenko, Di dân; Tamara Ilyinichna Dubikovskaya, cư dân của Narovlya; Albert Nikolaevich Zaritskiy, Bác sĩ; Aleksandra Ivanovna Kravtsova, Bác sĩ; Eleonora Ivanovna Ladutenko, Bác sĩ X-quang; Irina Yurevna Lukashevich, Bà đỡ; Antonina Maksimovna Larivonchik, Di dân; Anatoly Ivanovich Polischuk, nhà Khí tượng học; Maria Yakovlevna Saveleyeva, Bà Mẹ; Nina Khantsevich, vợ một Thanh Lý Viên.

 Đã lâu lắm rồi tôi không nhìn thấy được một phụ nữ mang bầu có khuôn mặt ngời hạnh phúc vì được mang bầu, vì được làm mẹ. Mới đây thôi, một bà mẹ sinh con xong, vừa kịp tỉnh hồn đã kêu lên: “Bác sĩ ơi! Cho tôi xem cháu bé nào! Xin hãy bế nó lại đây!”. Bà mẹ rờ đầu, trán, vuốt ve thân hình bé nhỏ của hài nhi, rồi đến chân, tay với vẻ chăm chú. Rồi dường như để thêm phần chắc chắn, chị hỏi: “Bác sĩ ơi! Đứa con tôi sinh ra nó hoàn toàn bình thường chứ? Không có gì bất ổn chứ?”. Khi người ta bế đứa bé vào để chị cho nó bú, chị tỏ ra ngần ngại: “Tôi ở không xa khu vực Chernobyl. Tôi có đến đó để thăm mẹ tôi. Và bị kẹt trong cơn mưa đen ở đó.”.

Chị kể cho chúng tôi nghe những cơn ác mộng của mình, rằng có lần chị nằm mơ thấy mình đẻ ra con bò cái có 8 cái chân, có khi lại là con chó con có cái đầu của con nhím. Thật là những cơn mơ kỳ lạ. Phụ nữ thường ít khi có những giấc mơ kỳ quái như thế. Hay là tại vì tôi chưa bao giờ nghe kể chăng? Tôi hành nghề đỡ đẻ đã 30 năm nay.

*

Tôi làm nghề dậy học, dậy môn văn chương Nga. Tôi nhớ có một sự việc xẩy ra vào đầu tháng 6, vào thời gian có các kỳ thi khảo hạch. Đột nhiên viên hiệu trưởng cho tập họp chúng tôi lại và bảo, “Ngày mai, các anh chị đến trường nhớ mang theo cuốc xẻng”. Thì ra chúng tôi được giao nhiệm vụ lấy đi lớp đất nằm trên mặt khu vực chung quanh trường học vì nó đã bị nhiễm xạ, để sau đó một đơn vị quân đội sẽ được điều đến tráng xi măng phủ lên trên. Mọi người hỏi: “Chúng tôi sẽ được cung cấp những loại trang bị bảo hộ nào? Có quần áo đặc biệt, mặt nạ phòng hơi độc không?”. Câu trả lời là không. “Nhớ mang theo cuốc xẻng để đào đất!”. Trong số chúng tôi chỉ có 2 thầy giáo trẻ từ chối không chịu tham gia, số còn lại lặng lẽ làm theo lệnh. Chúng tôi ai cũng mang một cảm giác khó chịu vì bị ép buộc nhưng cùng lúc lại ý thức mình đang thi hành một nhiệm vụ cần thiết, thứ ý thức hiện hữu trong mỗi một người, rằng nơi nào khó khăn và nguy hiểm thì mình phải có mặt, để bảo vệ đất mẹ thân yêu. Đó chẳng phải là điều tôi đã từng dậy dỗ học trò của mình hay sao? Hãy can đảm lên đường, gieo mình vào lửa đạn, sẵn sàng hy sinh, sẵn sàng chết để bảo vệ quê hương. Văn chương mà tôi giảng dậy không nói về cuộc sống, mà về chiến tranh: Sholokhov(1), Serafimovich(2), Furmanov(3), Fadeev(4), Boris  Polevoy(5). Chỉ có hai thầy giáo trẻ khước từ hy sinh. Nhưng họ thuộc về thế hệ trẻ mới lớn. Họ khác với chúng tôi rất nhiều.

Chúng tôi đào đất từ sáng đến tối mịt. Ra về, chúng tôi ngạc nhiên thấy các cửa hàng vẫn còn mở, phụ nữ thi nhau mua vớ lót và nước hoa. Thực ra chúng tôi đã có cảm giác mình đang sống trong thời chiến rồi. Cảm giác ấy càng rõ hơn nữa khi phía bên quầy thực phẩm người ta xếp hàng chờ mua bánh mì, muối, diêm quẹt. Ai cũng cố chen lấn đem bánh mì vừa mua vào chỗ lò nướng để sấy cho thành bánh khô. Hoạt cảnh ấy trông có vẻ quen thuộc với tôi, dù tôi sinh ra khi chiến tranh đã chấm dứt. Thậm chí tôi còn có thể hình dung ra cảnh tôi ra khỏi nhà với lũ trẻ, mang theo những thứ gì và viết vài giấy nhắn tin cho mẹ tôi như thế nào. Cuộc sống chung quanh vẫn bình thường như mọi ngày, truyền hình vẫn chiếu những chương trình chọc cười. Lúc nào mà chúng tôi chả sống trong sự khủng bố. Chúng tôi đã quen với việc sống trong khủng bố rồi. Nó đã trở thành một bản năng tự nhiên như đã có từ lúc biết quần cư. Riêng về khoản này thì chúng tôi không có bất cứ ai là đối thủ để cạnh tranh.

*

Những người lính vào làng lo việc di tản cho dân chúng. Trang thiết bị quân sự nằm ngổn ngang trên đường làng: xe vận chuyển, xe tải lớn bọc vải, có cả xe tăng. Mọi người thi hành lệnh di tản dưới sự giám sát của quân đội. Bầu không khí có vẻ nặng nề với những người đã từng trải qua chiến tranh. Đầu tiên, dân chúng đổ mọi tội lỗi lên đầu người Nga – họ cho rằng cái trạm bị phát nổ là của người Nga. Sau đó họ quay sang trách móc đảng Cộng sản. “Đảng Cộng sản phải chịu trách nhiệm về việc này.”

Chernobyl  liên tục bị đem ra so sánh với tình trạng chiến tranh. Dù những thảm họa do chiến tranh mang lại chưa thấm vào đâu với những gì xẩy ra ở Chernobyl. Mặt khác, người ta hiểu được chiến tranh là gì. Còn thảm họa Chernobyl? Người ta chỉ biết im lặng.

*

Tôi có cảm tưởng mình chưa bao giờ bỏ đi đâu khỏi nhà mình. Mỗi ngày, tôi đều như  đi qua những kỷ niệm. Những con đường. Những căn nhà quen thuộc. Trong một thành phố thật yên tĩnh.

Hôm ấy là một ngày chủ nhật. Tôi đang nằm phơi nắng ngoài sân. Mẹ tôi  hớt hãi chạy ra gọi tôi: “Con ơi! Nhà máy Chernobyl vừa phát nổ. Người ta ai cũng lo chạy vào nhà. Còn con thì cứ nằm ngoài đây phơi nắng.”. Tôi cười bảo mẹ: Từ Chernobyl đến Narovlya này cũng phải mất 40 ki lô mét.

Đến chiều, có một chiếc xe Zhiguli ngừng lại trước cửa nhà. Nhỏ bạn tôi cùng với chồng bước vào. Nó chỉ mặc trên người chiếc áo choàng tắm và anh chồng thì bộ đồ thể thao, chân lê đôi dép cũ. Họ phải đi xuyên rừng, dọc theo những con đường làng chật hẹp từ Pripyat đến đây. Đường phố đầy cảnh sát đi tuần, những trạm kiểm soát quân đội, không ai được phép qua lại. Nhỏ bạn không ngừng rên rỉ: “Nhanh lên! Mình phải đi tìm mua sữa, mua Vodka ngay bây giờ! Vợ chồng mình mới vừa sắm được bộ bàn ghế mới, cái tủ lạnh mới. Mình cũng vừa may xong  được chiếc choàng lông. Vậy mà giờ đây phải bỏ hết lại, phải bọc ny lông kín hết lại. Cả đêm qua bọn mình không ngủ. Chuyện gì sẽ xẩy ra đây? Chuyện gì đây hả trời?”. Anh chồng cố tìm cách trấn an vợ. Chúng tôi cứ thế ngồi trước máy truyền hình, ngày này qua ngày nọ, chờ đợi Gorbachev(6) lên tiếng. Không một giới chức thẩm quyền nào cho chúng tôi biết điều gì vừa xẩy ra. Chỉ mãi đến sau ngày lễ nghỉ, Gorbachev mới xuất hiện, ông ta bảo: Không có gì phải lo lắng, các đồng chí ạ! Tình hình đã được ổn định rồi. Mọi chuyện đều bình thường cả thôi. Ở Chernobyl, người ta vẫn sống, vẫn làm việc  như không có gì xẩy ra.

*

Họ lùa tất cả đám gia súc ở những ngôi làng buộc phải di tản đến một khu vực tập trung nằm ngay tâm điểm Vùng. Lũ bò heo này chúng đã hầu như hóa điên cả, chạy lung tung trên đường phố, ai muốn bắt cũng có thể bắt được. Đoàn xe lửa chở đầy thịt đóng hộp đi từ các tổ hợp đến nhà ga Kalinovich, rồi từ Kalinovich đến Moscow. Tại Moscow, người ta từ chối không nhận. Thế là những toa xe đầy thịt hộp bị kéo về trả lại cho chúng tôi. Cả một dẫy toa thịt phải đào hố chôn. Mùi thịt thúi rữa ám ảnh tôi suốt đếm hôm ấy. “Cuộc chiến nguyên tử có cái mùi thúi rữa như thế này hay sao?”. Cho đến nay, tôi chỉ biết rằng chiến tranh thì có mùi khói.

Họ đưa bọn trẻ con ra khỏi làng trước vào ban đêm. Họ tìm cách che dấu cái thảm họa chết người được chừng nào hay chừng nấy. Nhưng rồi ai cũng biết. Và mọi người mang sữa đến cho lũ trẻ đang ngồi trên xe bus chuẩn bị di chuyển. Có người mang đến cả bánh nướng. Giống như hồi thời chiến tranh người ta cũng đến với nhau như thế. Ngoài ra, chẳng có gì tương xứng để mà so sánh.

Ở văn phòng khu ủy đang có một cuộc họp. Không khí căng thẳng như một buổi họp quân sự. Mọi người chờ cho viên chức phụ trách phòng vệ dân sự lên tiếng vì chẳng có ai còn nhớ được chút kiến thức căn bản nào về phóng xạ nguyên tử ngoại trừ vài hiểu biết lõm bõm có được từ sách giáo khoa Vật lý lớp 10. Ông ta bước lên bục, bắt đầu thao thao những điều trong sách viết về việc đối phó với chiến tranh nguyên tử, rằng khi một người lính hít vào người tối đa 50 đơn vị phóng xạ là ngay lập tức anh ta phải rời khỏi chiến địa. Ông ta còn giảng giải cách làm nhà trú ẩn, cách đeo mặt nạ ngừa hơi độc, những con số về chu vi ảnh hưởng của vụ nổ v.. v…

Chúng tôi đến khu vực bị nhiễm xạ trên một chiếc trực thăng. Ai cũng được trang bị quần áo bảo hộ đúng cách. Không ai được phép mặc quần áo lót bên trong. Bên ngoài chúng tôi mặc áo khoác dệt từ loại sợi rẻ tiền, giống như chiếc áo khoác ngoài mấy người đầu bếp hay mặc, thêm găng tay và mặt nạ phòng hơi độc. Thật không thiếu thứ gì cần phải có. Chiếc trực thăng đáp xuống vùng đất bên cạnh một khu làng, thấy có đám trẻ con đang chơi đùa trên một bãi cát gần đó như thể không có gì nghiêm trọng vừa xẩy ra. Có đứa ngậm cục gạch trong miệng, đứa khác ngậm một nhánh cây gẫy. Không có đứa nào mặc quần, đứa nào cũng ở truồng nhong nhỏng. Trước đó, đã có lệnh cho chúng tôi: đừng làm cho dân sợ.

Vậy nên giờ này tôi phải sống với những ám ảnh nặng nề đó.

*

Bỗng nhiên, người ta cho chiếu những đoạn phim quay ở Chernobyl lên truyền hình. Đại khái người xem sẽ thấy một bà cụ già đang vắt sữa bò, rồi đổ sữa vào cái thùng kế bên. Có anh phóng viên chạy đến, tay cầm máy đo độ nhiễm xạ của sữa. Cùng lúc đó, tiếng bình luận viên vang lên nói rằng: Đấy, mọi chuyện đều rất ổn! Nhưng anh ta lờ đi sự kiện là lò phản ứng chỉ cách nơi đó có 10 kí lô mét đường bộ. Một đoạn khác chiếu cảnh một con sông ở thành phố Pripyat với dân chúng đang bơi lội tắm táp hay nằm phơi nắng ở đó. Và ở phía xa, người xem vẫn có thể thấy nhà máy phản ứng nguyên tử và những cột khói bốc lên từ đó. Tiếng người bình luận tiếp tục diễn giải: Báo chí phương Tây đang tìm cách gieo rắc sự hoảng loạn bằng những lời dối trá về những gì xẩy ra ở đây. Thế rồi, màn hình lại cho người xem thấy chiếc máy đo độ nhiễm xạ đang đo một con cá nằm trên dĩa, hoặc một thỏi kẹo Chocolat, hoặc chiếc bánh ngọt bầy trên quầy bán hàng. Đó chỉ là những trò dối trá. Những chiếc máy đo của quân đội được chế tạo ra để đo độ nhiễm xạ của môi trường xung quanh, chứ không phải để đo độ nhiễm xạ của từng vật thể.

Mức độ dối trá này, một mức độ dối trá trơ trẽn đến khó có thể tin được là nó đã xẩy ra, hằn sâu trong tâm trí chúng tôi cùng với hậu quả kinh hoàng của vụ nổ Chernobyl, mà tầm vóc của nó làm người ta gợi nhớ đến những luận điệu tuyên truyền thô bỉ mỗi khi có những cuộc chiến tranh lớn nổ ra.

*

Chúng tôi đang mong chờ đứa con đầu tiên ra đời. Chồng tôi muốn nó là con trai, còn tôi lại muốn nó là con gái. Các bác sĩ ai cũng rán sức khuyên nhủ tôi: “Bà nên bỏ cái thai ấy đi. Chồng bà đã từng ở Chernobyl.”. Anh ấy là tài xế lái xe tải. Người ta trưng dụng anh ấy ngay từ những ngày đầu tiên để chở cát đến Chernobyl. Nhưng tôi không tin một ai cả.

Đứa bé chết khi vừa sinh ra. Nó thiếu mất hai ngón tay. Là con gái. Tôi khóc như mưa. “Nó phải có đủ 5 ngón tay chứ !”. Tôi nghĩ vậy. “Vì nó là con gái mà!”.

*

Không ai hiểu được việc gì đã xẩy ra. Tôi điện thoại cho bộ chỉ huy quân sự xin tình nguyện đến Chernobyl. Tất cả những người làm việc trong ngành y tế đều có nghĩa vụ quân sự. Người trả lời tôi là một viên thiếu tá tôi đã quên mất tên. Ông ta bảo: “Chúng tôi cần người trẻ làm việc.”. Tôi cố thuyết phục ông ta: “Thứ nhất. các bác sĩ trẻ không có nhiều người sẵn sàng. Thứ hai, người trẻ sẽ gặp nguy hiểm cao hơn người già vì cơ thể trẻ dễ bị nhiễm phóng xạ hơn.”. Ông ta vẫn khăng khăng: “Chúng tôi đã có lệnh. Chỉ nhận những người trẻ tuổi.”.

Vết thương của bệnh nhân ngày càng chậm lành hơn. Tôi nhớ đến trận mưa phóng xạ đầu tiên – sau này người ta gọi đó là “mưa đen”. Trước hết, không ai ngờ là nó lại xẩy ra. Kế đến, nước ta là một quốc gia hùng mạnh, ưu tú, lỗi lạc, làm sao lại để xẩy ra một sự việc trầm trọng như vậy. Chồng tôi, một người tốt nghiệp đại học, là kỹ sư, đã một cách nghiêm chỉnh thuyết phục tôi tin rằng đó là do sự phá hoại của bọn khủng bố, của kẻ thù. Lúc ấy rất nhiều người cũng tin như vậy. Nhưng chính tôi, có lần đi chung xe lửa với một người làm trong ngành xây dựng. Ông ta kể cho tôi nghe về công việc xây nhà máy nguyên tử ở Smolensk. Ở đó, nào là xi măng, nào cát, đinh, gỗ bị ăn cắp, tuồn ra ngoài bán cho dân ở những ngôi làng lân cận. Đôi khi chỉ để đổi lấy vài chai rượu Vodka.

Mấy ông đảng viên cũng đến thăm làng, thăm các xưởng thợ ở đây, cũng nói chuyện với dân tình nhưng không một ai giải thích được thế nào là giải xạ, làm thế nào để bảo vệ hữu hiệu trẻ con, hoặc tai hại của việc để các nguồn cung cấp thực phẩm bị ảnh hưởng bởi chất phóng xạ v..v… Họ không hề có một chút khái niệm gì về những tia Alpha, Beta hay Gamma, về sinh-xạ học, nói gì đến những thứ cao cấp khác. Với họ, đó là những thứ thuộc về một thế giới khác. Họ chỉ có thể cao giọng về chủ nghĩa anh hùng Xô-Viết, kể những gương hy sinh đầy can đảm của quân đội, về sự phá hoại của guồng máy do thám phương Tây. Họp đảng, tôi vắn tắt nhắc lại những điều đó, đồng thời bầy tỏ sự nghi ngờ của mình về chúng, thì sau đó tôi được cho biết người ta sẽ tống cổ tôi ra khỏi Đảng.

*

Tôi sợ phải ở lại trên mảnh đất này. Họ đưa cho tôi một cái máy đo độ nhiễm xạ. Tôi phải làm gì với nó đây? Quần áo tôi giặt dũ sạch sẽ, trắng tinh. Thế mà đưa cái máy đo ấy vào thử nó lại báo động. Thức ăn tôi nấu, bánh tôi nướng ngon lành. Máy cũng báo động. Tôi dọn dẹp giường chiếu ngăn nắp. Máy cũng báo động. Tôi phải cần cái máy ấy để làm gì chứ? Cho con ăn mà tôi khóc ròng. “Sao mẹ lại khóc vậy hả mẹ ?”

Tôi có hai đứa con trai. Chúng nó không đi học, không đi nhà trẻ. Vì lúc nào chúng nó cũng phải ở trong bệnh viện. Thằng lớn – nó không phải là trai, cũng chẳng phải là gái. Đầu nó trụi lủi không một sợi tóc. Tôi vừa cho nó đi khám bác sĩ, vừa đi gặp các thầy lang. Trong những đứa trẻ cùng lứa, nó nhỏ thó nhất. Nó không biết chạy, không biết chơi đùa. Nếu lỡ có ai chạm vào người nó, làm chảy máu chắc nó không sống nổi. Nó bị bệnh nhiễm trùng máu. Thậm chí tôi còn không thể phát âm tên bệnh một cách chính xác cho nó nghe nữa. Đêm nằm với con trong bệnh viện, tôi thầm nghĩ: “Nó sắp chết rồi.”. Sau này tôi hiểu ra là mình không thể có cái ý nghĩ ghê gớm ấy được. Tôi vào phòng tắm khóc mùi. Không một bà mẹ nào khóc trong phòng bệnh viện. Họ chỉ khóc trong phòng tắm, nhà vệ sinh. Khóc thỏa thuê xong, tôi bước ra lòng nhẹ nhõm. “Hai má của chị đỏ bừng kìa. Khá hơn nhiều đấy nhé !”.

“Mẹ ơi, đem con ra khỏi bệnh viện đi mẹ. Con sẽ chết ở đây thôi. Ai ở đây cũng chết cả rồi, mẹ ạ!”

Giờ thì tôi phải khóc ở đâu đây? Ở trong phòng tắm ư? Có cả một hàng dài người xếp hàng vào phòng tắm – những người giống như tôi đang xếp hàng đợi đến phiên mình.

*

Vào ngày 1 tháng 5, ngày lễ tưởng niệm, người ta cho phép chúng tôi được vào nghĩa trang. Vào thăm mồ thì được, nhưng  cảnh sát không cho chúng tôi ghé về nhà hay thăm vườn tược. Ít nhất, từ nghĩa trang, chúng tôi có thể nhìn thấy nhà của mình từ xa. Từ đây, chúng tôi chúc lành cho những căn nhà mình đã bỏ đi lâu ngày.

*

Tôi sẽ nói cho bà biết những người sống ở đây thuộc thành phần như thế nào. Ở những vùng “dơ nhiễm”, trong suốt mấy năm đầu tiên, các cửa hàng thực phẩm chất đầy thịt bò Trung quốc, lúa kiều mạch và các thứ khác. Người ta bảo nhau: “Vậy là tốt lắm rồi. Giờ thì mình chẳng phải đi đâu nữa!”. Đất đai chung quanh có mức độ nhiễm xạ không đồng đều. Một nông trường có thể có những cánh đồng “sạch” nằm cạnh những cánh đồng “dơ (nhiễm)”. Ai làm việc trên vùng đất “dơ” được trả lương cao hơn người làm ở vùng “sạch”. Thế là dân chúng ùn ùn đi làm cho vùng ‘dơ” và từ chối công việc ở vùng “sạch”.

Cách đây không lâu, tôi có cậu em từ vùng Viễn Đông ghé thăm. Cậu ấy bảo: “Dân sống ở đây giống như những cái hộp đen.”. Ý cậu ta muốn ám chỉ chiếc hộp đen ghi lại tất cả các hoạt động trên máy bay. Chúng tôi cứ nghĩ rằng mình vẫn đang sống, ăn uống, nói cười, đi đứng, làm việc, yêu đương một cách bình thường.

Hình như không phải vậy. Chúng tôi chỉ ghi chép những hoạt động ấy như làm chức năng của chiếc hộp đen trên máy bay mà thôi.

*

Tôi là một bác sĩ chuyên về bệnh trẻ em, nên tôi hiểu chúng có cái nhìn sự vật khác với người lớn. Chẳng hạn, chúng không hề nghĩ rằng ung thư có nghĩa là chết. Mối quan hệ ung thư-chết không tồn tại trong trí não trẻ em. Mặt khác, khi bị bệnh, chúng biết rõ mình bị bệnh gì, uống lọai thuốc nào, quen thuộc với những tiến trình chữa trị bệnh của mình. Thậm chí chúng còn biết rành rẽ mọi thứ hơn cả các bà mẹ. Vì thế, khi chết, trên khuôn mặt chúng đầy vẻ kinh ngạc. Chúng nằm đó cùng với vẻ mặt kinh ngạc như muốn hỏi tại sao?

*

Các bác sĩ đã báo trước cho tôi biết là chồng tôi sẽ không qua khỏi. Anh ấy mắc chứng bạch cầu, ung thư máu. Hai tháng sau khi từ Chernobyl trở về thì chồng tôi ngã bệnh. Xí nghiệp nơi chồng tôi làm việc đã phái anh ấy đến Chernobyl. Sau ca làm ban đêm, sáng hôm sau anh ấy về nhà bảo tôi:

“Ngày mai anh phải đi Chernobyl.”

“ Anh sẽ làm gì ở đó?”

“Lao động ở nông trang.”

Ở đó, cùng với nhiều người khác, chồng tôi dọn rơm trong khu vực bán kính 15 ki lô mét tính từ lò hạt nhân đã nổ, thu hoạch củ cải đường, đào khoai tây.

Rồi chồng tôi mãn nhiệm trở về. Một hôm chúng tôi đến thăm bố mẹ anh ấy. Lúc đang phụ giúp trát tường nhà với bố, anh ấy ngã quị xuống. Tôi phải gọi xe cứu thương đến đưa chồng đi bệnh viện. Tại đây người ta truyền vào cho anh ấy một lượng bạch cầu đủ chết người.

Ra viện, chồng tôi về nhà với duy nhất một ý nghĩ trong đầu: “Mình sẽ chết!”. Anh ấy trở nên ít nói. Tôi cố thuyết phục anh ấy rằng điều đó là không đúng, thậm chí năn nỉ chồng đừng bị ám ảnh bởi ý nghĩ mình sẽ chết. Nhưng vô ích. Thế rồi tôi hạ sinh một đứa con gái. Lúc này thì chồng tôi đã tin tôi. Buổi sáng thức dậy, tôi nhìn chồng, rồi tự hỏi: Làm sao tôi có thể sống thiếu anh ấy được? Chính tôi bảo mình đừng quá nghĩ ngợi nhiều về cái chết, và cố gắng xua đuổi cái ý nghĩ khủng khiếp ấy đi. Nếu tôi biết trước anh ấy sẽ bị ung thư, sẽ bị chết, chắc chắn tôi đã đóng kín tất cả các cánh cửa, đã đứng chặn trên lối ra vào. Chắc chắn tôi sẽ khóa chặt các cánh cửa với tất cả những chiếc khóa mình có.

*

Đã hai năm nay tôi và con trai đi hết bệnh viện này đến bệnh viện khác. Tôi không còn muốn nghe, muốn đọc bất cứ thứ gì về Chernobyl nữa. Tôi đã thấy đủ rồi.

Các bé gái trong bệnh viện chơi búp bê. Chúng khép mắt búp bê lại và bảo búp bê chết rồi.

“Tại sao búp bê chết vậy?”

“Bởi vì những con búp bê này là con cái của chúng cháu. Mà con cái của chúng cháu không thể sống được. Chúng sẽ được sinh ra và chết.”

Thằng bé Artyom nhà tôi được 7 tuổi rồi, nhưng trông nó như mới lên 5. Nó nhắm mắt lại, tôi cho rằng nó đang ngủ. Tôi khóc, vì không sợ con thấy mình khóc. Bỗng con tôi mở mắt ra bảo tôi: “Mẹ à, có phải con đã chết rồi không?”.

Nó nhắm mắt như ngủ, hầu như không còn thở nữa. Tôi quỳ xuống cạnh giường, nhìn con, van lơn: “Artyom, mở mắt ra đi con. Nói điều gì đó đi con.”. Tôi tự an ủi mình: “ Người nó vẫn còn ấm.”

Thằng bé mở mắt ra nhìn mẹ, rồi lại lặng lẽ nhắm lại chìm trong giấc ngủ. Như thể nó đang đi vào cõi chết.

“Artyom, mở mắt ra đi con.”

Tôi nhất quyết sẽ không để con mình chết.

*

Chúng tôi vừa mới ăn mừng Năm Mới cách đây không lâu. Bữa tiệc có đủ các thứ, toàn thức ăn làm lấy ở nhà: thực phẩm xông khói, mỡ, thịt, dưa muối. Mua ở tiệm đem về chỉ có bánh mì. Ngay cả rượu Vodka cũng là do chúng tôi tự nấu lấy. Tất nhiên, “tự nấu lấy” có nghĩa là chế biến ở Chernobyl. Chúng có mùi vị phóng xạ. Thực ra, chúng tôi cũng không biết có thể mua được những thứ gì và ở đâu? Các cửa hàng trong làng đều trống rỗng. Nếu có thứ gì đó được bầy trên quầy, thì với mức lương và tiền hưu trí của mình chúng tôi cũng không thể nào mua được.

Hôm ấy chúng tôi có mấy người khách đến chung dự. Họ là những người láng giềng, rất dễ mến và còn trẻ tuổi. Một người là thầy giáo, người kia là thợ cơ khí ở nông trang và vợ. Chúng tôi ăn uống vui vẻ. Rồi bắt đầu ca hát. Cùng với nhau, chúng tôi hát những bài hát cũ, nhạc cách mạng, nhạc thời chiến tranh. “Ánh sáng mặt trời phủ lên điện Kremlin cổ kính một màu sắc nhẹ nhàng.”.  Đó là một buổi tối thật đáng yêu. Giống như hồi xa xưa vậy.

Tôi viết thư kể lại cho con trai. Nó còn đi học ở thủ đô. Nó viết trả lời tôi: “Mẹ à! Con đã hình dung ra được khung cảnh quê mình. Nó có vẻ điên rồ mẹ nhỉ! Cái vùng đất Chernobyl, nơi có căn nhà của mình. Cây Năm Mới chiếu sáng lấp lánh. Còn dân chúng thì ca hát những bài ca cách mạng, bài ca chiến đấu. Như thể họ chưa từng bị đày đi Gulag, chưa từng sống qua Chernobyl.” Đột nhiên tôi hoảng sợ. Không phải cho mình mà là cho con trai của tôi. Nó không còn chỗ để trở về nữa.

 Chú Thích:

(1)Mikhail Aleksandrovich Sholokhov (1905-1984) : Nhà văn Nga, nhận giải thưởng Nobel về Văn chương năm 1965.

(2) Alexander Serafimovich (1863-1949): Nhà văn Nga

(3)Dmitry Furmanov (1891-1926): Nhà văn Nga

(4)Alexander Fadeyev (1901-1956): Nhà văn Nga

(5) Boris Polevoy (1908-1981): Nhà văn Nga

(6) Mikhail Gorbachev (1931-): Tổng Bí Thư cuối cùng của Đảng Cộng Sản Liên-Xô (1985-1991)Đảng Cộng Sản Liên-Xô (1985-1991)

*“Tiếng Vọng từ Chernobyl” của Svetlana Alexievich. Bản Việt ngữ do T.Vấn & Bạn Hữu thực hiện, dựa trên bản Anh ngữ của Keith Gessen, Nhà Xuất Bản Dalkey Archive Press –Normal – London 2005.

Về lại MỤC LỤC

Bình Luận từ Facebook

BÌNH LUẬN

Xin bình luận ở đây
Xin nhập tên của bạn ở đây