Những ngày tháng cũ (phần 2)

“Trong những ngày ồn ào, náo nhiệt của mùa Thu năm đó (1945), toàn thành phố khu nào cũng đều tổ chức một bữa cơm gọi là ‘Cơm Đoàn Kết’, trong đó các nhà ở hai dẫy phố đều đem bầy bàn ăn ra đường để mọi người ăn chung với nhau một bữa. Thực đơn có món Rau muống luộc được đặt tên là ‘Món Độc Lập’, món Giá xào là món ‘Tự Do’, món Muối vừng là món ‘Hạnh Phúc’. Ối chà chà, lòng người dân Hà Nội vào thời điểm đó, ai cũng hân hoan, phấn khích, và ai cũng đều tưởng như mình đã được ôm cả mớ Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc vào lòng mình”.

Nhật Tiến

26-6-2017

Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Tiếp theo Phần 1

Sáng mồng Một, Thế ngủ dậy trễ. Chàng đã trải qua một cơn giấc ngủ dài đầy mộng mị. Có lúc Thế thấy mình đang đi trên con đường làng ở gần bến Trung Hà, nơi thuyền bè cập vào thị xã Vĩnh Yên. Con đường này dẫn từ tỉnh lỵ đi ra một cánh đồng mênh mông, hai bên đường có trồng những cây Gạo cao ngất trời, nở đầy hoa đỏ rực.

Hoa Gạo nhìn thì rất thô, cánh của nó thật dầy lại chẳng hề có mùi thơm. Nhưng mầu sắc của nó thì tuyệt vời. Trên những chòm cây cao chót vót, các chùm hoa Gạo nom như từng mảng mầu hồng tươi vạch những nét chấm phá trên mầu xanh trong vắt của nền trời. Khi hoa Gạo rụng xuống hai bên lề đường, mầu hoa trải thành những vạch đỏ dọc theo những mảng cỏ xanh mướt ở hai bên đường làm cho khung cảnh ở đấy càng thêm rực rỡ như trong bức tranh của một họa sĩ tài hoa.

Hình ảnh của những bông hoa Gạo trong giấc mơ có lúc biến thành nụ cười rất duyên dáng trên đôi môi đỏ hồng chúm chím của Cẩm Hà khi hai người ngồi thủ thỉ với nhau trong bóng chiều đang xuống ở ven bờ Hồ Tây.

Họ yêu nhau tha thiết, trao đổi với nhau nhiều chuyện vu vơ nhưng rộn rã tiếng cười và chưa bao giờ cả hai nhắc tới chuyện tương lai. Cuộc chiến tranh Pháp – Việt trên quê hương đang lụi tàn nhưng lại mở ra nhiều bất trắc. Rồi dân Hà Nội bắt đầu xầm xì chuyện di cư vào Nam. Vì vậy Thế cũng muốn đi. Chàng háo hức nghĩ đến một hành trình mới lạ đang chờ đón cái tuổi ưa phiêu lưu của mình. Nhưng Cẩm Hà thì khẳng định:

– Ba em thì dứt khoát không đi rồi. Cả một cơ ngơi như thế, đi rồi vứt bỏ cho aỉ

Thế lạc quan:

– Cũng chẳng lâu đâu. Sau hai năm là có tuyển cử rồi.

Cẩm Hà nắm chặt lấy tay Thế, ngước mắt hỏi:

– Còn anh nhất định đi hả?

Thế hỏi lại nàng thay vì câu trả lời:

– Em có chờ anh không?

Cẩm Hà buông không nắm lấy tay Thế nữa và im lặng không trả lời, trong khi ấy, đôi mắt của nàng chợt tối lại. Trong thâm tâm, Thế cũng đồng ý với nàng. Im lặng là phải, vì ở hoàn cảnh này chẳng ai có thể hứa hẹn với nhau được điều gì.

Ít lâu sau, Thế đáp xe tải đi Hải Phòng để xuống tầu vô Nam. Cẩm Hà tiễn chân chàng lần chót ở bến xe gần cầu Long Biên. Thế nhận thấy đôi mắt của nàng thâm quầng chứng tỏ đêm trước nàng mất ngủ, nhưng nàng vẫn mỉm cười, vui đùa:

– Ði sướng nhé! Tha hồ bay nhẩy!

Thế nắm chặt lấy tay nàng. Chàng cảm thấy làn da ấm áp, mịn màng mọi ngày của nàng hôm nay lạnh ngắt. Lòng tràn ngập xót xa, nhưng Thế vẫn cười:

– Anh sẽ mang nem rán Sài Gòn chính hiệu về cho em. Ráng chờ nhé.

Cẩm Hà cười khanh khách:

– Hai năm nữa mà không mang về là em nhờ người khác rán đấy!

Cuộc từ biệt sao mà nhẹ tênh, nhưng Thế biết cả hai đều đau như cắt ở trong lòng. Tuổi trẻ ở thế hệ hai người đã có sức chịu đựng như thế đó. Cũng dễ hiểu vì từ tấm bé, những đứa trẻ như Thế, như Hà đã phải sống trong nhiều cảnh mà đáng lẽ tuổi thơ như họ không phải chịu đựng.

Hai người đã từng trải qua những đêm ở Hà Nội tối om vì nhà nhà phải chụp những bóng đèn bằng những cái abat- jour (chụp đèn) bằng giấy mầu đen để tránh bom Ðồng Minh thả xuống chống Nhật. Rồi phải ban ngày cứ nghe còi báo động rú lên là chạy túa ra hết những “tăng sê” (tranchée: hầm trú ẩn) đã được đào ở khắp mọi nơi trong thành phố, thậm chí nhiều gia đình còn đào hầm ở ngay trong nhà để hễ nghe hú còi là chui xuống, khỏi mất công chạy đi xa.

Ở nhà Thế, cái hầm này được đào ngay giữa phòng ngủ, nắp che là tấm “ghế ngựa” tức hai tấm phản bằng gỗ lớn được ghép lại làm giường nằm. Khi có còi báo động thì mọi người trong nhà choàng dậy, khỏi chạy ra ngoài, cứ lục tục kéo nhau rút xuống gậm giường tức cái hầm trú ẩn. Mà thật ra nó cũng chẳng kiên cố gì ngoài sự đem lại cho mọi người cái cảm giác được an toàn. Đã thế, tuy vách và sàn hầm đã được trát vữa hẳn hoi, nhưng chỉ là loại vữa chứa xi- măng thì ít, cát trộn thêm thì nhiều nên nước ngầm phía dưới cứ rỉ vào hầm khiến có khi xuống hầm cứ phải lội nước lõng bõng. Ấy là thường xuyên, cứ vài ngày là cả nhà đã phải xúm lại hì hục múc nước từ hầm ra và chuyển từng xô ra ngoài đem đổ đi.

Vào thời gian Đồng Minh thả bom xuống Hà Nội dữ dội hơn thì nhiều nhà nhát gan đã phải mang cơm nắm muối vừng để “chạy loạn”, sáng đi, chiều tối quay về. Thường thì hàng xóm quanh nhà Thế vào đóng đô trong Văn Miếu, tức Quốc Tử Giám mà chung quanh đã đào sẵn rất nhiều hầm trú ẩn. Rồi có lúc lại nghe chừng ngay giữa thủ đô thì dễ bị ăn bom hơn là ở ngoại thành thì mọi gia đình lại kéo nhau hàng đoàn đi xuống Ô Kim Mã, leo qua Núi Bò để vào đền Voi Phục, gần ô Cầu Giấy bây giờ.

Núi Bò ở gần Ô Kim Mã thật ra chỉ là một mảnh đồi đã bị mòn vẹt, ở đó người ta xây rất nhiều lò nấu kẹo như kẹo Lạc, kẹo Vừng, kẹo Bột với mùi mật mía thơm phức tỏa khắp vùng chung quanh.

Đền Voi Phục là một khu đất rộng, cây cối um tùm, có nhiều khoảng trống riêng biệt ẩn dưới những tàn cây xum xuê, nhiều bóng mát. Vậy mà dưới những cái tàn cây lý tưởng đó, nhiều chú ba Tầu đã bầy ra những bàn Mạt Chược để sát phạt nhau từ sang đến chiều. Họ ăn uống nhồm nhoàm, cười nói xí xa xí xồ om sòm tíu tít trong những tiếng xoa bài kêu lách cách ở khắp mọi chỗ khiến cho cả khu chẳng còn có vẻ gì là nơi chốn để “chạy bom”, “chạy loạn” cả!

Mà bom hồi đó do đồng Minh thả xuống chống Nhật cũng chẳng ít gì. Chính mắt Thế đã nhìn thấy một quả bom nằm chình ình ngay cạnh cái “tăng- sê” nơi Thế đang trú ẩn bên tường Giám tức sau lưng nhà Văn Miếu. Quả bom rớt xuống nhưng tịt ngòi không nổ. Nó nằm im lìm như một con cá khổng lồ bằng vỏ nhôm đang phơi bụng dưới nắng, ánh lên một mầu trắng xóa! Trông nó mới bình yên, ngoan ngoãn làm sao, nhưng Thế đã nghe thấy nhiều người xì xào:

– Bom 50 cân! Nó mà phát nổ thì cả cái tăng- sê này biến thành hố chôn cả lũ!

Rồi nạn đói năm Ất Dậu với bao nhiêu là cảnh chết đói thảm thê diễn ra từng ngày trên khắp các hang cùng ngõ hẻm. Chính ba của Thế thời đó cũng đã tham gia việc phát cháo thí hàng ngày ở trại Giáp Bát ngay cạnh ven đô Hà Nội do Hội Uẩn- Hoa tổ chức.

Thế còn nhớ có hôm đang đứng ở cửa, mồm còn đang gặm một bắp ngô thì một bóng gầy gò đen đúa, chẳng phân biệt được đàn ông hay đàn bà, già hay trẻ chợt xồ lại, xô phăng Thế xuống rãnh, cướp bắp ngô của Thế rồi ngồi sụp xuống đất ngay tại chỗ đó gặm lấy gặm để. Tuy mất cái ăn, nhưng Thế không nổi giận. Cậu bé hơn mười tuổi lúc đó chỉ trố mắt ra nhìn. Nhưng Thế có thấy gì đâu ngoài đôi mắt trắng dã nằm trong hai cái hốc thật sâu cứ lấp lánh sáng quắc lên với nỗi niềm hăm hở thống khoái mà suốt bao nhiêu năm sau này, Thế chưa bao giờ thấy lại cái vẻ sung sướng, hạnh phúc đến tận cùng như vậy.

Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt và Hà Nội đi vào một chu kỳ rực rỡ đủ thứ sắc cờ của các nước Đồng Minh. Hồi ấy hầu như nhà nào cũng đều treo ở trước cửa một dây dài mang đủ loại cờ, nào cờ Anh, cờ Mỹ, cờ Nga, cờ Pháp, cờ Ấn Độ, có cả cờ Tầu Tưởng Giới Thạch mầu đỏ với ngôi sao 12 cánh mầu trắng trên nền xanh đậm nằm ở góc trái trên cùng. Đó là những nước nằm trong phe “Đồng Minh” chiến thắng trục “Đức- Ý- Nhật”. Đó cũng là thời điểm đầu tiên Thế được nhìn thấy những hàng chữ viết bằng tiếng Anh viết trên những tấm biểu ngữ, hoặc lên vải, hoặc lên tường ở khắp mọi nơi: “Viet Nam to the Vietnamese!”.

Dân Hà Nội bình dân chẳng hiểu ất giáp gì bèn dịch ngay ra thành tiếng Việt và câu dịch này đã phổ biến rất sâu rộng hồi bấy giờ: “Việt Nam to thế, Việt Nam mẹ sề!”

***

Rồi đến ngày 19 tháng 8, Hà Nội tràn ngập cờ đỏ sao vàng mà dân chúng gọi là cờ Việt Minh. Chuyện chính trị diễn tiến thế nào, những âm mưu tiêu diệt người Quốc Gia thâm độc và tàn bạo ra sao, lũ trẻ như bọn Thế không hề quan tâm (vả lại biết gì mà quan tâm) nên chỉ thích tham dự những trò chơi mà theo ý Thế là rất mới mẻ và vui vẻ. Đặc biệt là “trống ếch” của nhi đồng. Thế không hiểu ai và vì lý do gì đã đặt ra cái tên như vậy nhưng có lẽ cậu nhỏ nhi đồng bé lắt choắt ôm cái trống lớn ở trước ngực nom giống con ếch ưỡn bụng lên mà gọi như vậy chăng?

Thực chất đó chỉ là một dàn trống bao gồm 1 cái trống lớn, hai cái trống con và một cái phèng la. Có thể nói không khu phố nào lại không có một dàn trống như thế do các đoàn viên Nhi đồng Cứu Quốc hay Thiếu Niên Tiền Phong tập gõ om sòm suốt ngày để sửa soạn cho những cuộc diễn hành, mít tinh, biểu tình xẩy ra như cơm bữa.

Và trong bầu không khí “vui vẻ, mới mẻ đó”, bọn Thế đã tham dự cuộc đánh trận giả bên Hồ Gươm vào đúng dịp tết Trung Thu năm đó (1945). Hai phe Ta và Địch ném nhau bằng vỏ quả bưởi khiến vỏ bưởi trôi lềnh bềnh trắng xóa cả một vùng nước hồ xanh biếc. Đó cũng là năm đầu tiên bọn trẻ lau nhau Hà Nội hát bài Trung Thu Chèo Thuyền của tác giả Phương Linh là người khi đó đoạt giải Nhất cuộc thi sáng tác Nhạc dành cho thiếu nhi. Lời bản nhạc ấy rất được đám trẻ thuộc lầu như sau:

Đồng một lòng chúng ta cố chèo

Thật nhịp nhàng tay bơi tay lái

Mặc cho sông trôi, sóng reo

Nghìn khó chớ núng lòng ai

Đập ngọn chèo chúng ta dấn đà

Vượt ngàn trùng mau như mây cuốn

Rồi ra lên sông Ngân Hà, ngắm sao đỡ buồn, nhìn trăng đỡ buồn.

(Ghi chú của người viết: Nhạc sĩ Phương Linh là một vị Linh mục, tên Trần Hữu Linh, sinh năm 1921 tại Ninh Bình, Bắc Việt. Ông thụ phong Linh mục tại Phát Diệm năm 1949. Di cư vào Nam năm 1954, ông là Hiệu trưởng trường Trung học Trí Đức, Đà Lạt. Năm 1963 đi du học ở Pháp. Năm 1973, về nước ông làm Giám đốc Tiểu chủng viện Vinh Sang, Tam Hiệp, Biên Hòa. Năm 1976, ông bị CS bắt đi tù 9 năm. Sau đó, ông định cư ở Túc Trưng, Định Quán tỉnh Đồng Nai và mất tại đây năm 1995).

***

Trong những ngày ồn ào, náo nhiệt của mùa Thu năm đó (1945), toàn thành phố khu nào cũng đều tổ chức một bữa cơm gọi là “Cơm Đoàn Kết”, trong đó các nhà ở hai dẫy phố đều đem bầy bàn ăn ra đường để mọi người ăn chung với nhau một bữa. Thực đơn có món Rau muống luộc được đặt tên là “Món Độc Lập”, món Giá xào là món “Tự Do”, món Muối vừng là món “Hạnh Phúc”. Ối chà chà, lòng người dân Hà Nội vào thời điểm đó, ai cũng hân hoan, phấn khích, và ai cũng đều tưởng như mình đã được ôm cả mớ Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc vào lòng mình.

Đó là lý do mà Tuần Lễ Vàng (khởi sự từ ngày 16- 9 chấm dứt ngày 23- 9- 1945) khi phát động đã được dân chúng hưởng ứng nhiệt liệt. Nhiều thương gia, kỹ nghệ gia, công tư chức, thậm chí đến cả những người bán rong hay những bà nội trợ cũng đều sốt sắng dốc ống, tháo đồ trang sức đang đeo để hưởng ứng cuộc quyên góp mà theo ước lượng của Bộ Tài Chính hồi đó, chính phủ đã thu được khoảng 370 kilô vàng và 20 triệu tiền Đông Dương mà tính theo thời giá bây giờ thì 20 triệu này cũng phải tương đương với trên 60 triệu đô la.

Còn thanh niên nam nữ thì lòng yêu nước cũng bùng lên sôi nổi. Họ đã nhất tề tham gia một cách nồng nhiệt vào những tổ chức quân sự như Vệ Quốc Quân, Công an Xung Phong, Tự vệ Thành. Sau này, các lực lượng đó khi rút ra khỏi Hà Nội thì trở thành Trung đoàn Thủ Đô, một danh xưng mà khi nhắc đến, lòng ai cũng đều ngưỡng mộ vì những chiến công cũng như vì những tấm gương tiết liệt thà chết để bảo vệ Tổ quốc khi cuộc chiến Việt Pháp bùng nổ vào tháng 12- 1946.

Riêng bọn nhỏ như Cẩm Hà và Thế thì âm nhạc hầu như đã thổi vào tâm hồn bầu không khí hào hùng của lịch sử dân tộc trong qua những bài hát mà bọn trẻ nghêu ngao suốt thời thơ ấu như những bài Anh Hùng Xưa, Bạch Đằng Giang, Ải Chi Lăng, Hội Nghị Diên Hồng, Thăng Long Hành Khúc, Trưng Nữ Vương, Việt Nam Hùng Tiến… và còn biết bao nhiêu bài khác nữa.

Cho đến khi khôn lớn hơn chút nữa thì những gương anh hùng tiết liệt nhiều khi còn như ở ngay trước mắt như Nguyễn Thái Học, Phạm Hồng Thái, Phó Đức Chính, Cô Giang, Cô Bắc .v.v… tất cả hầu như đã là những cái nôi êm đềm bảo bọc và gây dựng cho thế hệ của Thế lòng yêu thương quê hương, đất nước.

***

Tiếp theo sau những ngày hò reo, ồn ào trong quang cảnh nạn đói kinh hoàng là 9 năm kháng chiến mà tin tức chiến sự chẳng ngày nào là không loan trên báo, trên đài: bom chỗ này, phục kích chỗ kia, bên này mở chiến dịch, bên kia mở rộng những cuộc hành quân mà những con số ta, địch tử trận cứ ngày một leo thang. Hồi đó gia đình nào mà chẳng có thân nhân chết trận chẳng bên này thì cũng bên kia.

Cuộc Kháng chiến toàn quốc ấy nổ ra vào đúng 8 giờ tối hôm 19- 12- 1946.

Trước đó, dân Hà Nội đã tản cư hết ra các làng quê lân cận.

Gia đình Thế cũng rời Hà Nội khá sớm sủa, vào khoảng gần cuối năm 1946, nhưng rồi cũng hồi cư khá mau, vào khoảng giữa năm 1947, tức rời Hà Nội để “chạy tản cư” mới chỉ trong vòng hơn 6 tháng.

Ấy thế mà trong 6 cái tháng nổi trôi ấy, Thế cũng đã đi qua biết bao nhiêu địa danh của vùng trung du Bắc Việt: Nào làng Vân Canh, rồi Sấu Giá, rồi lội qua sông Đào đi về Trúc Động, rồi lên Đất Đỏ, rồi ngồi thuyền đi ngược sông Hồng qua Cầu Trò, Sơn Tây, Việt Trì rồi lết bộ qua những vùng quê để vào tỉnh Hưng Hóa, rồi cũng lại đi bộ tới bến Trung Hà để qua phà sang thị xã Phú Thọ… Đám đồng hành tản cư khi đó gồm rất nhiều gia đình cũng là dân Hà Nội, tưởng sẽ còn lếch thếch đắt díu nhau đi xa lên mạn ngược hơn nữa, nhưng nào ngờ đã phải rã đám rã ngay tại thị xã Phú Thọ sau một cuộc dội bom của Pháp xuống thành phố này vào chỉ đúng một hôm sau khi cả đoàn tản cư đặt chân tới.

Bị trúng bom tan nát, gia đình Thế đã bỏ cuộc hành trình dự tính đi Thái Nguyên, Tuyên Quang mà quay ngược đường trở lại để “dinh tê” Hà Nội. (entrer = vào), sau khi đã cử hành một đám tang tập thể trong đó có 18 gia đình đã đi theo sau 18 cái xe bò chở những quan tài của các nạn nhân trong cuộc dội bom vừa rồi.

Hà Nội – năm 1947, ngày Thế trở lại – hãy còn nhiều chỗ chỉ có tàn than và những cái cột nhà cháy. Mọi người lớn di chuyển đều phải xài loại giấy tùy thân do Pháp cấp, gọi là giấy Laissez- Passer. Lính Pháp da đen, người Phi châu đầy nhan nhản. Họ đứng gác ở các công sở, họ kiểm tra giấy tờ ra vào thành phố ở các cửa Ô. Hà Nội như con bệnh vừa hồi sinh hãy còn thoi thóp thở và tất nhiên là vắng người.

Nhưng chỉ hơn một năm sau, mọi sự được phục hồi nhanh chóng. Tiếng xe điện leng keng đã bắt đầu rộn rã. Người hồi cư trở về buôn bán tấp nập. Và nhiều trường học đã mở cửa lại, nào Chu văn An, Nguyễn Trãi. Trưng Vương, Văn Lang, Văn Hóa, Minh Tân, Bách Việt… Chỉ trong vòng 5 năm sau đó, cho đến 1952, 1953 thì mọi sinh hoạt đã trở lại bình thường. Cẩm Hà gặp Thế trong một buổi liên hoan tất niên và họ yêu nhau từ đó.

Hầu như cả quãng đời thơ ấu của hai người đều có những nét giống nhau, tâm tình của họ đều cùng gắn bó với những nổi trôi của thời cuộc ngay từ tấm bé nên cuộc chia ly không làm cho họ phải nhỏ những giọt nước mắt. Họ chỉ rút cơn đau đớn vào sâu trong cõi lòng để lâu lâu trong cơn mộng mị, họ lại tìm thấy nhau trong thảng thốt như Thế vừa thảng thốt lúc chập chờn trong giấc ngủ vừa qua…

***

Thế cứ nằm mãi trên chiếc ghế bố trong phòng để ôn lại cái cảm giác êm đềm đã được nắm tay Cẩm Hà trong giấc mộng đêm qua, mãi cho tới lúc chợt nghe có tiếng ồn ào của đám đông ở phía trước sân trường. Thế vội nhỏm dậy và nghe có đứa réo:

– Thầy Thế ơi! Thầy Thế ơi!

Thế vội vàng nói to:

– Ở ngoài đó chờ nghe. Thầy ra bây giờ.

Chàng vội vã phóng ra hiên sau, chui vào cái khung gỗ nơi kê mấy cái chum vại cùng với những chậu thau và xô múc nước. Chàng xối nhanh mấy gáo cho tỉnh táo rồi mặc quần áo tề chỉnh xong xuôi mới bước ra ngoài.

Một đám chừng năm sáu đứa học trò đang đứng lố nhố chờ bên hiên trường. Thế nhận ra ngay chúng là học sinh của những lớp trường mình. Vì ở thôn quê việc học trễ nải, nên tuy là học trò Thất, Lục mà đứa nào đứa nấy đã lớn tướng như học sinh bậc Ðệ Nhị cấp. Trong đám lố nhố ba, bốn nữ sinh, Thế nhận ra Lang, Hoa, Thảnh là học trò lớp đệ Tứ, Thủy, Hoàn, Thôi lớp đệ Ngũ đệ Lục, lại có cả cô gái bé nhỏ nhất tên Hườn thuộc lớp đệ Thất nữa.

Cả đám hôm nay đã trút bỏ cái áo bà ba đen hay trắng để mặc toàn áo mầu dù vẫn chỉ là những tấm áo bà ba may cắt gọn ghẽ. Lang nổi nhất với áo mầu hoa lý, rồi Thủy với áo mầu đỏ cánh sen hôm nay lại còn đeo thêm một chuỗi hột mầu xanh biếc, tuy nhìn cũng biết là hột nhựa nhưng cũng thấy lấp lánh dưới ánh nắng của một ngày đẹp trời. Hườn thì xinh xắn, nhỏ thó trong chiếc áo vàng chóe có điểm những bông hoa đủ mầu. Con bé này học thông minh nhất lớp, nó rất quý thầy nên những hôm rảnh rỗi chính nó cũng hay tới phụ với Thế để làm công việc tổng vệ sinh căn buồng hết sức bề bộn của các ông thầy toàn là thứ độc thân, chưa biết việc nội trợ là cái gì.

Bên phía nam sinh thì lố nhố toàn học sinh lớp đệ Ngũ, đệ Tứ. Ðứa nào nom cũng cao lớn, vạm vỡ trong những chiếc quần tây với áo sơ mi dài tay bỏ ra ngoài quần. Thế là đã chỉnh tề lắm rồi, vì hàng ngày hầu hết chúng chỉ bận quần cụt với áo sơ mi cộc đã bạc mầu để đi học. Trong đám này, Thế chú ý nhất đến hai đứa: thằng Hoanh vừa giỏi toán lại rất có tài vặt. Nó biết sửa bếp cồn, sửa cái bơm trong đèn măng sông, thay được cả sợi dây cu- roa dùng để đổi đài trong cái radio chạy phin của thầy Phú vẫn để ở đầu giường. Còn đứa kia tên Phi thì chỉ thích nói với Thế về chuyện “học trò người Bắc” để so sánh trong Nam với ngoài Bắc khác biệt nhau thế nào.

Thế quý cả hai đứa, trường học khai giảng chưa đầy được vài tháng mà Thế đã coi chúng như học trò ruột của mình. Nhà hai đứa cũng không ở xa trường, đi một “thôi” là tới theo như Hoanh nói, nên ngoài giờ học, nhất là trong những ngày nghỉ, chúng thường ghé trường thăm Thế, cũng không quên mang theo có khi là nải chuối, khi thì vài trái Vú sữa hay chùm Chôm Chôm.

Thế kéo cả bọn vào một lớp học để quây quần chung quanh hai cái bàn học trò. Chàng nói:

– Tôi cám ơn các em tới chúc tết, có điều tối hôm qua, hàng quán đóng cửa hết nên chẳng kịp mua được mứt kẹo hay nước uống gì…

Và Thế cũng vội vàng giải thích ngay, chẳng giấu giếm gì:

– Các em biết không, mãi chiều tối hôm qua thầy Phú mới gởi tiền lương tết xuống, cho nên chẳng kịp xoay sở.

Lang vội vã nói:

– Vậy mà chúng em đâu có biết. Thôi để em chạy về đem tới thầy con gà luộc nha.

Thế vội vã xua tay:

– Ấy, thôi khỏi! Cứ ngồi chơi là vui rồi. Lát nữa thầy cũng qua bên Mỹ Tho, thiếu gì quán hàng bên đó vẫn mở cửa.

Bé Hườn bây giờ mới lôi trong bụng ra một bọc đặt lên bàn:

– Em mời thầy với các anh chị cắn hột dưa.

Cả đám vỗ tay:

– Có hột dưa thì Tết quá rồi!

Thế là cả bọn xúm lại vừa bốc hột dưa cắn tí tách vừa thi nhau nói um sùm. Thằng Phi chẳng bao giờ quên cái sở thích của nó nên lên tiếng ngay:

– Thầy kể cho chúng em nghe ở “ngoải” ăn tết ra sao? Có bánh tét không? Có dưa hấu không? Có hoa mai nở rộ như trong này không?

Thế mỉm cười:

– Những cái em vừa kể, ngày tết ở ngoài đó chẳng có thứ nào hết!

Cả bọn cùng ồ lên, có đứa trợn cả mắt:

– Ủa! Vậy chớ ngoài đó ăn tết bằng gì?

Thế giảng giải:

– Không có bánh tét nhưng lại có bánh chưng. Không có hoa mai thì lại có hoa đào. Còn dưa hấu thì chỉ mùa hè ngoài đó mới có thôi. Với lại tết lạnh cóng, ai mà ăn dưa hấu.

Phi tiếp:

– Ðúng rồi. Em nghe nói ở ngoải, về mùa đông lạnh lắm vì có mưa phùng gió bắc. Mưa phùng là mưa thế nào hả thầy.

Thế đáp:

– Mưa phùn chứ không phải mưa phùng. Đó là thứ mưa xuất hiện vào cuối mùa đông, đầu mùa Xuân. Hạt mưa thì nhỏ không lớn nhưng không thưa mà lại dầy, lại lai rai kéo dài hết ngày này qua ngày khác làm cho đường xá cứ nhão ra vì sinh bùn lầy lội. Còn gió bấc chứ không phải gió bắc. Gió bấc là một thứ gió mùa đông bắc, vừa ẩm vừa lạnh. Vào mùa đông kéo cả qua Tết, đã mưa phùn lại còn gió bấc thì ôi thôi, các cụ ngày xưa còn ví là rét cắt da cắt thịt.

Thủy, cô gái xinh nhất đám, khi cười vừa nhe cái răng khểnh vừa thêm hai bên má lúm đồng tiền, chen vào nói:

– Hèn chi mà Ba em đi tập kết có nhắn vào là Tết lạnh cóng người, nhưng mà dzui.

Thằng Hoanh bĩu môi nhìn Lang:

– Ổng nói là nói vậy thôi. Ba thằng Thời cũng có tin vô. Ổng nhắn đất nước đã độc lập thống nhất rồi thì cứ noi gương chú Thạnh mà lo công tác hết mình.

Rồi nó cười khẩy:

– Thầy biết không? Ổng nhắn theo lối mánh lới đó. Chú Thạnh nhà thằng Thời chết đuối hồi mấy năm trước, ngay từ hồi ổng còn ở nhà, chưa ra tập kết, còn đâu nữa mà noi gương chú Thạnh để lo công tác hết mình. Cả nhà nghe nhắn vậy ai cũng thấy là “hỡi ơi” rồi!

Vẻ mặt đang tươi rói của Lang bỗng đổi sang buồn so:

– Ừ, ở nhà tụi tui cũng nghe thím Thời than thở: “Chẳng biết dân tình ngoài đó ra sao mà ảnh nhắn vậy”. Làm má tui cũng lo.

Một đứa tiếp ngay thêm:

– Chẳng những lo mà còn mệt nữa đó. Bên quê tui, nhà có người đi tập kết cứ bị mấy ông hội đồng Xã kêu lên hỏi tới hỏi lui hoài.

Phi gạt ngay đi:

– Có gì mà mệt. Mấy ổng hỏi cho biết vậy thôi. Hòa bình rồi, ai nấy đều lo làm ăn sanh sống, còn mắc mớ gì tới ai.

Hoanh cãi:

– Mắc mớ chớ sao không. Ðã hòa bình rồi sao còn đi tập kết?

Phi đáp:

– Thì ai thích bên nào theo bên đó. Như mấy thầy ở đây cũng từ Bắc vô đó. Có sao đâu?

Thế vội vàng giải thích thêm:

– Hiệp Ðịnh Genève đã nói rõ rồi. Cả nước có tới 300 ngày để tùy nghi chọn lựa. Miền Bắc di cư. Miền Nam tập kết. Sau đó là thôi, chờ tới ngày tuyển cử thống nhất đất nước.

Miệng thì nói vậy nhưng chính trong lòng Thế cũng chẳng tin chút nào về điều đó sẽ có thể xẩy ra. Thời hạn tổng tuyển cử cũng đã gần kề mà có thấy bên nào nhúc nhích gì đâu. Cứ cung cách này thì hai miền sẽ chia cách vĩnh viễn mất thôi.

Lòng chàng chợt nhói lên khi nghĩ đến câu nói hôm nào của Cẩm Hà lúc chia tay ngoài bến xe:

– Hai năm nữa mà không mang nem Sài Gòn về là em nhờ người khác rán đấy!

Thế tự hỏi “Sắp hết hạn hai năm rồi, em đã tìm thấy người khác rán nem cho em chưa?”. Lòng Thế bỗng quặn thắt lại khi nghĩ tới hình ảnh Cẩm Hà nhí nhảnh đi bên người yêu mới, dạo quanh Hồ Gươm vào buổi chiều có gió mát. Ôi, Hà Nội của Thế với vô vàn kỷ niệm thân yêu bây giờ đã xa tắp mù khơi.

Không muốn tiếp tục vẩn vơ với những ý nghĩ đau lòng nữa, Thế vội vã lái câu chuyện qua một hướng khác:

– Năm nay vội vã chưa kịp chuẩn bị nên chẳng có gì vui. Nhưng năm tới, trường mình phải tổ chức đón Xuân thế nào cho thật xôm mới được.

Hoanh reo lên:

– Mình tổ chức ăn liên hoan tất niên hả thầy?

Hườn giọng hứng khởi:

– Phải đó. Tất niên phải góp lại ăn chung mới là vui. Mấy trường bên Mỹ Tho cũng làm vậy.

Thế mỉm cười:

– Ăn chung tất niên thì dĩ nhiên rồi. Nhưng phải có cái đại hội văn nghệ do cả trường tổ chức để mời các phụ huynh và bà con chòm xóm cùng tới dự nữa thì mới thật là vui.

Lang reo lên:

– Ui, làm được vậy thì còn chi bằng. Mình tổ chức ban văn nghệ có cả ca cải lương lẫn hát tân nhạc….Thầy biết không, anh Phi ca cải lương “độc” lắm đó.

Phi đỏ mặt nhìn cô gái rồi bĩu môi:

– Xí … Tui ca cải lương thì để nhát ai. Chớ có muốn ăn gắp bỏ cho người. Thưa thầy chị Lang nổi tiếng xóm trong là có giọng ca mùi lắm đó…

Lang dẫy nẩy lên:

– Ðừng có nói… giọng tui thì mùi nỗi gì. Tui chỉ thỉnh thoảng ca một mình cho chính tui nghe thôi. Má còn nói mầy tính nhát ai mà học đòi tập tành ca cẩm vậy. Lo học đi cho rồi.

Thế vui vẻ:

– Ban văn nghệ trường mình nếu có lập ra thì cũng là chơi kiểu tài tử thôi, đâu có cần chuyên nghiệp. Miễn là vui dịp cuối năm ấy mà.

Lang góp ý:

– Mình tổ chức đàn hát thầy trò vui với nhau trong trường thì được, em thấy mời cả phụ huynh lẫn chòm xóm thì không nên.

Thế hỏi:

– Sao vậy?

Lang mỉm cười, lần đầu tiên Thế mới để ý thấy hai hàm răng của cô bé đều như hạt lựu và trắng bóng:

– Tại mình hát dở lắm, thầy ơi! Mình bầy đặt tổ chức trình diễn, bà con cười chết.

Thấy mấy trò khác cũng biểu lộ vẻ đồng tình, Thế vội vã giải thích:

– Ăn thua là ở chỗ mình nêu rõ mục đích. Mình đâu có “tổ chức trình diễn” như Lang nói, mà đây chỉ là buổi họp mặt văn nghệ tất niên, chung vui với nhau trước khi chia tay về ăn Tết. Như vậy đâu có ai đặt vấn đề dở hay không dở. Chủ đích là vui. Bộ cả trường mình xúm lại góp sức mà không vui được sao?

Thấy cả đám ngấp ngứ không đứa nào tranh biện được với lập luận của mình, Thế liền nói tiếp:

– Ðể tôi kể một kỷ niệm làm văn nghệ tất niên của tôi ở ngoài Bắc cho các em nghe. Nghe xong thì mình…bỏ phiếu! Ða số đồng ý thì mình tổ chức, không thì thôi. Có ai bắt buộc mình đâu?

Thằng Phi vỗ tay:

– Thầy kể đi. Tụi em muốn nghe chuyện ngoài Bắc. Nghe xong sẽ bỏ phiếu đàng hoàng như thầy nói. Ðồng ý không tụi bay?

Cả đám nhao lên:

– Ðồng ý! Ðồng ý!

Sự ríu rít của lũ trẻ khiến cho Thế tưởng như mình cũng đang lùi lại quãng thời gian hồn nhiên, vui vẻ của những ngày còn cắp sách đi học. Chàng hào hứng kể lại cho chúng nó nghe những kỷ niệm tuổi thơ của mình, nhất là cái năm còn là cậu học sinh lớp Nhất ở trường tiểu học Nguyễn Du, phố Hàng Vôi Hà Nội.

Ðó là một ngôi trường có những cây bàng già cỗi tỏa bóng mát khắp sân trường với tòa nhà xinh xắn hai tầng mà đứng ở nóc chót tầng trên, Thế nhìn thấy được cả cây cầu Long Biên vắt ngang giải sông Hồng chẩy bên dưới nom như một giải lụa mầu.

Thầy giáo dạy Thế tên Quỳnh, một ông thầy nghiêm khắc, ít cười nhưng yêu thương, lo lắng cho học trò hết mực. Hồi ấy hãy còn duy trì kỳ thi Tốt nghiệp bậc Tiểu học có phát văn bằng dành cho học trò lớp Nhất, gọi là bằng Sơ Học Bổ Túc. Nhà thầy Quỳnh ở mãi ngoại ô, nhưng khi gần tới kỳ thi, thầy bắt học trò đi học sớm thêm một giờ để luyện 2 môn Toán và Luận. Ðã gần tới mùa hè, trời nóng như đổ lửa, thầy phải đạp xe đi dạy từ lúc hơn 12 giờ. Tới trường, các lớp chiều còn vắng hoe, vậy mà riêng lớp của thầy, bọn học trò gần 50 đứa đã cặm cụi ngồi làm bài, soạn bài, mọi người đều im phăng phắc, chỉ còn nghe tiếng ve sầu kêu rộn rã ngoài khung cửa sổ mang cái nôn nao, háo hức của những tháng hè nhưng đồng thời cũng chan chứa cả những cảm giác lo lắng hồi hộp vì kỳ thi sắp tới.

Cuốn 280 Bài Tính Ðố của thầy Nguyễn Vạn Tòng, cuốn sách quy tụ những bài toán Số học luyện thi từ dễ đến khó, bọn Thế đã giải gần hết. Còn môn Luận thì khỏi nói, thầy Quỳnh tập trung vào những đề tài bình giải các câu ca dao, tục ngữ như: “Hữu chí cánh thành”, “Học thầy không tầy học bạn”, “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”, “Có công mài sắt, có ngày nên kim“..v..v.. để cho bọn học trò tuy còn lau nhau nhưng quen thuộc với lối hành văn biện luận, bình giải. Công khó của thầy Quỳnh quả đã không phí uổng. Năm đó, đề thi môn văn khá hóc búa: ” Bình giải câu: Quân tử cầu ở mình, Tiểu nhân cầu ở người”, học trò các trường rớt la liệt, thế mà lớp của Thầy Quỳnh chỉ rớt có bốn đứa! Ðây là một thành tích vẻ vang do nỗ lực của cả thầy lẫn trò, nhất là thầy, vì ông luôn luôn mang cái tâm trạng lo lắng của một bà mẹ sắp sửa phải đẩy đàn con vào cuộc đời mà lòng vẫn áy náy sợ chúng chưa đủ lông đủ cánh. Vì thế, dù mệt mỏi, tốn sức bao nhiêu, thầy cũng không ngần ngại, miễn sao khi lũ học trò ra khỏi tầm tay của mình, đứa nào cũng phải có một căn bản vững vàng như thầy mong mỏi.

Nhưng kỷ niệm đáng ghi nhớ nhất của Thế trong năm học này là Buổi Văn Nghệ Tất Niên do bọn Thế có sáng kiến tổ chức nhân dịp đón Xuân về. Thế kể:

– Biết không, cả đám có hơn mười đứa nêu ý kiến với thầy Quỳnh về việc tổ chức Văn Nghệ Tất Niên. Thầy hoan hỉ bằng lòng ngay. Lại dặn rằng phải đưa cho thầy coi bảng ghi các tiết mục trước 10 ngày để thầy góp ý.

Ui, chương trình được mấy tên đầu sỏ trong lớp “vẽ” ra đủ thứ hết. Có chào cờ, mặc niệm, có diễn văn chúc xuân các thầy, có sớ táo quân, có kịch lại thêm các màn đồng ca, đơn ca xen kẽ nữa. Thầy Quỳnh chấp thuận hết và ra lệnh chỉ được tổ chức riêng trong lớp học, có mời đại diện các lớp khác nhưng không mời các phụ huynh. Quan khách, ngoài thầy Quỳnh sẽ còn có thêm Thầy Hiệu trưởng với hai thầy khác cũng dậy lớp Nhất trong năm học đó mà thôi.

Phi góp lời:

– Vậy cũng là xôm tụ quá rồi.

Thế mỉm cười:

– Xôm lắm chớ! Suốt cả tuần lễ trước ngày cả trường nghỉ Tết, bọn đầu têu ngót mười đứa lo chối chết, vừa soạn “diễn văn”, vừa tập kịch, tập hát. Tôi còn nhận làm Sớ Táo Quân nữa. Sáng sớm hôm khai mạc cả bọn còn chia nhau khuân cả chăn màn, thừng chão, đồ đạc ở nhà đi nữa để căng màn làm sân khấu và trang trí cho nội dung các vở kịch.

Lang hỏi:

– Kịch do các thầy hồi đó soạn lấy hả?

Thế đáp:

– Ðâu có! Kịch lửa trại Hướng Ðạo ấy mà.

Cả bọn không hiểu, đều nhao nhao:

– Là sao? Là sao hả thầy?

Thế giải thích:

– Hướng Ðạo là một tổ chức đoàn thể dành cho thanh thiếu niên. Lâu lâu đi cắm trại ngoài trời, qua đêm thì đốt lửa trại, diễn kịch thi đua với nhau. Mà không có chuyện chuẩn bị trước đâu nha. Sắp tới giờ khai mạc, các huynh trưởng điều hành mới ra chủ đề cho các vở kịch. Thí dụ như chủ đề đêm nay là “Làm việc thiện”. Thế là các đội xúm lại bàn với nhau tìm một câu chuyện gì đó cho hợp với chủ đề rồi cắt cử các vai ra sân khấu, cứ đóng phứa đi cốt sao diễn tả được chủ đề là xong. Kịch tuy thế mà rất vui, vui cả vì câu chuyện ngộ nghĩnh lẫn những cái ngô nghê, vụng về của diễn viên do lắm khi các cậu cứ đứng ngớ ra chờ nhau xem ai đến lượt phải nói. Và cũng nhờ thế mà Hướng Ðạo Sinh tập được tính nhanh nhẹn, tháo vát và dạn dĩ trước đám đông.

– Thế thì chúng em cũng thích vào Hướng Ðạo.

Thế đáp:

– Ở Sài Gòn thiếu gì đoàn có thể tham gia. Nhưng còn ở đây xa xôi thế này thì chưa biết đến bao giờ.

Hoa lên tiếng hỏi:

– Các thầy vào Hướng Ðạo tập tành giỏi thế, chắc buổi tổ chức Tất Niên thành công dữ!

Thế chợt kêu lên:

– Vậy mà thất bại hoàn toàn mới đau chớ!!

Cả bọn ùa lên ngạc nhiên:

– Sao vậy? Sao vậy?

Mặt Thế chợt tối đi. Chàng như thấy hình ảnh thân yêu của thầy Quỳnh hiện rõ trong trí nhớ và trong thâm tâm, chàng như muốn réo gọi: ” Thầy ơi! Bây giờ thầy ra sao rồi? Hà Nội sao lúc này xa quá là xa”. Ngừng một lát cho qua những cảm xúc bùi ngùi, Thế mới giải thích tiếp:

– Thất bại là vì không có người tới dự! Cả lớp có gần năm chục học sinh, mà vì ngày cận Tết, chúng nó chuồn ở nhà hết, chỉ trơ lại có hơn mười tên trong Ban tổ chức. Ðại diện các lớp khác cũng chả thấy mống nào hiện diện. Thế có giận không!

Phi hỏi:

– Vậy còn quan khách?

Mắt của Thế sáng lên:

– Ba thầy dậy các lớp Nhất A, B, C thêm thầy Hiệu trưởng nữa là bốn. Các thầy tới đông đủ hết. Mà lại tới đúng giờ nữa mới chết chứ!!!

Cả đám học trò quanh Thế đều có vẻ mặt buồn sìu đi, y như thể chúng nó cũng đang chia sẻ với Thế cái hoàn cảnh ngặt nghèo vào cái lúc mà giờ khai mạc đã tới nhưng khách tham dự thì vắng teo. Thế kể tiếp:

– Theo lịch trình thì buổi lễ khai mạc lúc ba giờ. Vậy mà quá ba rưỡi, cả lớp trống trơn chỉ loe ngoe có hơn mười đứa trong ban tổ chức với lại các thầy. Cả bọn hoảng quá, lén tới gặp thầy Quỳnh xin hủy bỏ, nhưng thầy Quỳnh quắc mắt lên: ‘Sao lại hoãn!”. Rồi thầy ra lệnh: ” Khai mạc đi!”.

Cả đám học trò ngồi quanh Thế đều lại lên tiếng suýt soa:

– Ui, vắng thế sao mà khai mạc?

Thế mỉm cười:

– Thì thế! Nhưng thầy đã ra lệnh thì cứ phải làm tưới đi. Thế là nào chào cờ, nào mặc niệm, nào “diễn văn chúc từ”, rồi kịch cọt, ca hát…ôi thôi đủ hết!

Hoa kêu lên:

– Mà chỉ có bốn thầy ngồi coi thôi hả thầy?

Thế gật đầu:

– Chỉ có bốn thầy ngồi ở hàng ghế khán giả thôi. Nhưng các thầy “điệu nghệ” lắm! Cũng cười, cũng vỗ tay, cũng ghé tai bàn tán với nhau ra điều nhận xét vở kịch hay vai diễn làm cho cả đám lên tinh thần, ra sức diễn xuất hết mình! Sau cùng, đến khi bế mạc, thầy Hiệu trưởng cũng lên cám ơn lũ học trò nhãi nhép, lại còn hứa năm tới sẽ cho các lớp cùng họp nhau chung việc tổ chức cho toàn trường nữa chớ!

Mấy đứa suýt soa:

– Vậy là thầy Hiệu trưởng “điệu nghệ” thứ thiệt đó, thầy!

Thế gật đầu:

– Nhưng chưa bằng thầy Quỳnh! Khi quan khách ra về hết rồi, thầy Quỳnh còn nán ở lại khen ngợi và nhắc nhở cả đám: “Sự cố gắng của các trò rất đáng khen. Lại cũng nên nhớ rằng ở đời không phải chuyện gì cũng suông sẻ theo như mình dự tính. Nhưng cái gì đã quyết định làm rồi thì hãy quyết tâm làm cho đến cùng, không nên nản chí, bỏ cuộc nửa chừng.” Lời của thầy khiến cả đám cảm động muốn phát khóc, bao nhiêu nỗi bàng hoàng, lo sợ lúc trước giờ khai mạc đều tan biến hết cả!

Rồi Thế đổi giọng ngậm ngùi:

“Lời khuyên của thầy Quỳnh là những lời vàng ngọc. Nhân đây, các trò cũng nên ghi nhớ lấy!”

Mấy đứa cùng nhao nhao:

– Vậy năm tới mình cũng sẽ làm. Làm cho đến cùng! Thầy nhé!

Thế nhìn lũ trẻ ngồi chung quanh, lòng bồi hồi cảm kích. Rồi chàng cất giọng vui vẻ:

– Làm chứ sao không!

Và chàng nhắc lại lời thầy Quỳnh như chính chàng đang hứa với Thầy:

Và sẽ quyết tâm làm cho đến cùng, không nản chí, không bỏ cuộc nửa chừng.

(Trích Bản thảo Bèo Giạt Mây Trôi chưa ấn hành)

Bình Luận từ Facebook